Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2015

Lãnh đạo trẻ

Hiện tượng hàng loạt cán bộ trẻ được bầu vào các vị trí lãnh đạo địa phương  thời gian gần đây đang tạo ra nhiều luồng dư luận khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết ý kiến đều cho rằng ngày càng nhiều cán bộ trẻ vào vị trí lãnh đạo là một xu hướng tích cực. Vấn đề là những cán bộ trẻ được lựa chọn phải đảm bảo các tiêu chí về phẩm chất, năng lực, đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước.

Sau gần 3 thập niên đổi mới, nước  ta  đang đứng trước một giai đoạn bước ngoặt.  Đặc trưng của giai đoạn này đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo phải có khả năng hoạch định chiến lược, nỗ lực nâng cấp thực lực công nghệ và thành công trong trọng dụng hiền tài. Nếu bước được sâu vào giai đoạn này, Việt Nam sẽ làm nên một kỳ tích phát triển mới của Đông Á trong thế kỷ 21. 

Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể trở thành hiện thực với điều kiện tiên quyết nước ta phải có một đội ngũ lãnh đạo và cán bộ tương xứng với yêu cầu khắc khe của môi trường hội nhập chất lượng cao và cạnh tranh gay gắt. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra rằng: “Cán bộ chính là cái gốc của mọi vấn đề. Công việc thành hay bại đều do cán bộ tốt hay kém”.

Chúng ta cũng đang chứng kiến hiện tượng không ít cán bộ trẻ được bầu vào vị trí lãnh đạo địa phương là con em của các nhà lãnh đạo trung ương, địa phương đương chức hoặc đã nghỉ hưu. Điều này đang gây quan ngại trong dư luận, bởi xã hội Việt Nam vốn có lịch sử  “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Người ta lo ngại, tham nhũng nay đã bước sang lĩnh vực tổ chức cán bộ, khi các vị có quyền lực tìm cách sắp xếp cho con cái, người thân vào những vị trí êm ấm một cách dễ dàng. Thực ra, xét cho cùng dư luận nghi ngại lại là một yếu tố tích cực. Bởi nó chính là sức ép buộc các cá nhân, tổ chức liên quan phải luôn tự nỗ lực hoàn thiện và khẳng định các giá trị thật của mình.

Những cán bộ trẻ, có tài, có đức, sở hữu các giá trị chân chính sẽ không  e ngại dư luận trái chiều và cũng không nghĩ rằng những luồng dư luận như vậy sẽ làm mình mất uy tín. Người dân có quyền nghi ngại trước một hiện tượng, hay một giá trị chưa được thực tế kiểm chứng và chính bản thân họ chưa có đầy đủ cơ hội để tham gia vào sự kiểm chứng đó. Do đó, các giá trị thật sẽ được khẳng định và tạo ra niềm tin vững chắc khi thực tế chứng minh rằng nó có đầy đủ các phẩm chất cần thiết cho sự nghiệp phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Quan trọng hơn là sự chứng minh đó mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước và cho nhân dân.

Bà Nguyễn Thị Quyết Tâm – Phó bí thư Thành ủy TP. HCM – cho rằng: “Đối với con em những người cán bộ lãnh đạo đương chức hay là đã nghỉ hưu, các em ý thức được trách nhiệm của mình đối với đất nước, đối với dân tộc, có sự phấn đấu tốt, học tập tốt, được tín nhiệm một cách dân chủ thì điều đó là tốt chứ sao?… Tôi nghĩ là chuyện đó không có gì phải nghi ngại, chỉ nghi ngại là chuyện đó có công bằng hay không, thực tài hay không, đảm bảo tiêu chuẩn đạo đức hay không, có được xã hội chấp nhận hay không? Đó là điều đáng quan tâm trong công tác cán bộ”.

Thân Nhân Trung viết bài văn bia đầu tiên ở Văn Miếu,  ghi nhận: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mạnh, nguyên khí suy thì nước yếu”. Đứng trước cơ hội và thách thức gay gắt của giai đoạn phát triển mới, có lẽ chưa bao giờ đất nước ta lại cần “hiền tài” ra giúp nước một cách cấp bách như bây giờ. Đồng thời, có lẽ cũng chưa bao giờ các tiêu chuẩn và phương thức tìm kiếm “hiền tài” lại được quan tâm sâu sắc như bây giờ. Để chúng ta không phải trả giá đắt nếu có sự sai lầm về tổ chức cán bộ trong giai đoạn quan trọng này.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở: “Cất nhắc cán bộ phải vì công tác, tài năng. Như thế, công việc nhất định chạy. Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng”.  Công tác tuyển chọn người làm việc nước ở ta xưa nay vẫn được đúc kết trong cụm từ “quy hoạch cán bộ”.  Mục đích của quy hoạch là tạo nguồn cán bộ nhưng vấn đề quan trọng nhất là ai quyết định việc chọn lựa đó.  Nếu không cẩn thận, rất có thể nảy sinh hiện tượng lũng đoạn cán bộ, chỉ lựa chọn những người cùng cánh hẩu, dễ bảo để tăng vây cánh, nhiều người thực tài thì ra rìa ngay từ vòng đầu.

Mặc dù, ngay trong các quốc gia dân chủ, yếu tố di sản vẫn là một lợi thế quan trọng. Rõ ràng, con cái của Thủ tướng Nehru (Ấn Độ), Park Chung-hee (Hàn Quốc) hay Lý Quang Diệu (Singapore) được nhân dân tin cậy hơn. Trong thời đại mới, việc lựa chọn người tài cho các vị trí lãnh đạo quốc gia đòi hỏi phải được xây dựng trên nền tảng dân chủ. Bất kỳ ai, có tài năng và phẩm chất phù hợp đều phải có cơ hội tham gia vào các vị trí lãnh đạo tương xứng. Và dĩ nhiên cán bộ trẻ có truyền thống gia đình cho dù được xem là lợi thế vẫn phải nằm trong cơ chế lựa chọn bình đẳng như bao người trẻ có thực tài khác.

Không việc gì có thể che dấu được tai mắt của nhân dân. Do đó, cơ chế dân giám sát năng lực, tư cách và phẩm chất cán bộ cần phải được coi trọng trong quá trình thay đổi nhanh chóng để thiết kế nên đội ngũ cán bộ lãnh đạo trẻ. Việc giám sát hiệu quả của người dân sẽ là động lực và cũng là điều kiện cần thiết  khiến cán bộ trẻ phải phấn đấu không ngừng hoàn thiện chính mình để phục vụ đất nước. 

Đồng thời với cơ chế bổ nhiệm, mạnh dạn sử dụng người tài vào việc lớn cũng cần có cơ chế sàng lọc,  đào thải mạnh mẽ khi chính những cán bộ trẻ đó không vượt qua được thử thách của công việc để tự chứng minh năng lực, phẩm chất, giá trị thật của mình. Hết sức tránh và phải kiên quyêt khắc phục tình trạng cán bộ đã lên rồi thì chẳng bao giờ xuống được nữa.

Hữu Nguyên






Thứ Tư, 21 tháng 10, 2015

Báo Thanh Niên loan tin bị phóng viên "bôi nhọ"

BLA: Mấy ngày qua trên trang facebook Hoai Nam Nguyen của phóng viên Nguyễn Hoài Nam có stt của tác giả, cho rằng mình bị báo Thanh Niên, nơi mình đang công tác, trù dập bằng "luật rừng". Vụ việc gây chú ý khá lớn trên mạng xã hội Facebook. Đến 21h50 ngày 20-10-2015, trên báo Thanh Niên Online có đăng bài phản hồi như bên dưới, chứng minh phóng viên có nhiều điểm yếu kém, nên bị trừ thu nhập. 

Tiếp đó khoảng 6h ngày 21-10-2015, nhà báo Nguyễn Hoài Nam có vẻ muốn đẩy sự việc lên cao khi đã có đối đáp lại phản hồi của báo và còn đưa cả đoạn băng ghi âm nói chuyện với lãnh đạo báo Thanh Niên lên trang Youtube. Trong đó có những thông tin về chuyện bếp núc của nghề báo. Hiện chưa biết sự việc sẽ đi đến đâu và kết thúc ra sao, và ai đúng ai sai, nhưng phần nào cho thấy mạng xã hội như facebook có thể giúp các cá nhân có một diễn đàn để nói lên quan điểm, chính kiến của mình một cách công khai. Điều mà trước đây chưa từng có.


Bài trên báo Thanh Niên:

Phản hồi thông tin bôi nhọ uy tín Báo Thanh Niên
20/10/2015 21:50

Vừa qua, một số bạn đọc đã đề nghị Báo Thanh Niên làm rõ thông tin đang lan truyền trên mạng xã hội, có nội dung “Báo Thanh Niên trù dập cá nhân bằng luật rừng!”, liên quan đến tài khoản Facebook cá nhân “Hoai Nam Nguyen”.

Thông tin này được cho là của phóng viên (PV) Nguyễn Hoài Nam, nhằm bôi nhọ công tác điều hành, quản lý tại Báo Thanh Niên. Để rộng đường dư luận, Báo Thanh Niên thông tin phản hồi như sau:

Thứ nhất, liên quan đến thông tin chống tham nhũng trong nạo vét đường sông, Ban Biên tập Báo Thanh Niên và ông Hoài Nam đã nhiều lần làm việc về phương pháp tác nghiệp, việc rò rỉ thông tin và những suy diễn không có căn cứ liên quan đến công tác điều hành nội dung báo chí. Ban Biên tập đã có các báo cáo gửi cơ quan quản lý cấp trên. Sau đó, ông Hoài Nam lại có đơn thư tố cáo gửi Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và một số cơ quan trung ương, trong đó có nội dung cho rằng mình bị “ngăn cản, dọa đuổi việc, phê bình vì viết bài chống tham nhũng”.

Ủy ban kiểm tra Trung ương Đoàn đã tổ chức đoàn kiểm tra xác minh, và đã có kết luận số 19-KL/TWĐTN-BKT ngày 7.9.2015. Theo đó, không có chứng cứ xác định cá nhân lãnh đạo Báo Thanh Niên có liên quan hay bảo kê cho đối tượng tham nhũng; không dọa đuổi việc vì chống tham nhũng. Việc cân nhắc trong xử lý thông tin theo ý kiến của các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí là phù hợp.

Thứ hai, để đảm bảo việc hoàn thành nhiệm vụ của PV, Báo Thanh Niên đã ban hành Quy chế định mức nhuận bút của PV (tháng 1.2012, bổ sung tháng 3.2015) nhằm có cơ sở khen thưởng các phóng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời có biện pháp chế tài đối với phóng viên thường xuyên không hoàn thành nhiệm vụ, cụ thể là không có đủ số lượng tin, bài được đăng, nên không đạt mức chỉ tiêu nhuận bút.

Việc chế tài được trừ vào phần phụ cấp tăng thêm của PV, không phải trừ vào lương. Tin, bài không được đăng thường do: chất lượng nội dung kém, thực hiện đề tài không theo quy trình tác nghiệp mà cơ quan phân công, bài chưa nộp cho tòa soạn mà đối tượng bị điều tra đã biết...

Thỏa ước lao động tập thể năm 2015 được ký tại Hội nghị công nhân viên chức Báo Thanh Niên (1.2015, ông Hoài Nam có dự) biên soạn trên các quy định của Bộ luật Lao động và các văn bản pháp luật liên quan; lấy biểu quyết của tập thể người lao động của báo; đăng ký tại Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP.HCM. Theo đó, cơ quan báo sẽ đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với PV nào liên tục 2 quý không hoàn thành định mức chỉ tiêu tin, bài .

Việc Ban Biên tập phê bình nghiêm khắc và phân công ông Hoài Nam viết phóng sự điều tra về an sinh xã hội, môi trường… mà không tiếp tục điều tra về tham nhũng (đã đăng Báo Thanh Niên ngày 7.10.2014) do PV này sơ hở, thậm chí có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong một vụ điều tra tiêu cực trước đó.

Thực tế, PV Hoài Nam không hoàn thành nhiệm vụ chỉ tiêu tin, bài 2 quý của năm 2013 cũng như chỉ tiêu gộp cả năm 2014, và đặc biệt, trong liên tục 9 tháng đầu năm 2015. Ngoài PV Hoài Nam, còn có 2 PV khác không hoàn thành nhiệm vụ chỉ tiêu tin, bài. Do vậy, đầu tháng 10.2015, Báo Thanh Niên đã họp với các PV này thông báo việc chấm dứt hợp đồng lao động.

Các thông tin đăng tải từ trang Facebook của tài khoản “Hoai Nam Nguyen” nêu không đầy đủ bản chất nhân-quả của vụ việc, suy diễn theo hướng vu khống, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của tập thể và cá nhân lãnh đạo của báo, cần được xem xét, xử lý phù hợp.

THANH NIÊN

------------

STT mới trên Facebook của phóng viên Nguyễn Hoài Nam (lúc 6h ngày 21-10-2015)

Báo Thanh Niên luôn đúng tôi luôn sai!
Tối qua, TNO phản hồi thông tin bài chia sẻ của tôi trên trang cá nhân của chính tôi. TNO cho rằng tôi bôi nhọ uy tín báo Thanh Niên. Thực lòng tôi vẫn yêu tờ Thanh Niên lắm, tôi k bao giờ bôi nhọ báo Thanh Niên đâu, vì chính tờ Thanh Niên đã làm lên tên tuổi của tôi. Và thương hiệu Hoài Nam luôn gắn liền với tờ Thanh Niên. Và giờ đây trong làng báo ai cũng biết nhắc và nói đến Hoài Nam là sẽ nghĩ ngay đến Thanh Niên. Từ một anh Khế lẫy lừng với 23 năm làm Tổng Biên tập. Và bây giờ là anh Quang Thông, một Tổng Biên tập luôn mẫu mực. Vậy vì sao tôi phải đấu tranh, đánh đuổi cái xấu? Nếu như Thanh Niên không phản hồi thì tôi không nói ra đây, vì nói sẽ làm bạn đọc quay lưng. Nhưng tôi không nói thì mọi người không thể hiểu. Tôi xin phép nói ra một nửa sự thật thôi nhé.

Trước khi trở thành PV điều tra của Báo Thanh Niên, tôi là lính tham mưu tác chiến. Về công tác tại báo Thanh Niên, báo Thanh Niên không có quy chế bảo vệ PV, cũng như hướng cho PV được tác nghiệp tới đâu là dừng. Chính vì vậy các PV của báo nếu dấn thân viết phóng sự đều tự bơi để bảo vệ mình.

Mảng điều tra tôi đeo bám cực kỳ nguy hiểm,vì vậy từ ngày chập chững bước vào Ban Chính trị xã hội làm CTV tôi nhập vai viết phóng sự điều tra, phóng sự xã hội để rút ra những kinh nghiệm cho mình. Và các loạt bài mang uy tín cho báo như “Thâm nhập đường dây hàng lậu Móng Cái; Người ghi hình lâm tặc phá rừng; Giấy kiểm dịch bán như rau; Kinh hoàng heo siêu nạc; Tinh luyện dầu ăn bằng chất tẩy rửa; Nông dân vượt biên đánh bạc; Bí mật hành phi; Hãi hùng công nghệ trồng rau muống; Cảnh sát trật tự cơ động làm luật…”

Gần 10 năm làm việc ở Báo Thanh Niên, tôi hiểu từng con người của báo. Ai có hoa hồng quảng cáo cao nhất, và ai không lấy hoa hồng...Cho đến năm 2013 tôi bắt đầu chuyển sang viết điều tra tham nhũng ở lĩnh vực hàng hải. Sau khi đăng loạt bài 3 kỳ “Nạo vét sông Thị Vải – Sự mờ ám kinh tởm” đăng xong thì giám đốc Cảng vụ Hàng hải Vũng tàu lên gặp Ban Biên tập Báo Thanh Niên. Và sau đó bài cuối cùng của tôi bị cắt 900 chữ. Tôi hiểu doanh nghiệp đã chạy (như băng ghi âm tôi đã công khai).

Cuối năm 2013 tôi tiếp tục lên kế hoạch điều tra 4 công trình nạo vét ở Vũng Tàu, TPHCM và Quảng Ninh, kinh phí của nhà nước hơn 200 tỉ đồng. Để đảm báo bí mật cũng như giữ mối quan hệ với cấp trên, tôi đột phá không báo cáo đề tài theo quy định (từ Ban CT – XH đến Ban Thư ký và phó Tổng Biên tập phụ trách báo in) vì tôi không muốn mất lòng Phó Tổng Biên tập Đặng Việt Hoa. Tôi viết báo cáo rõ và đến tận nhà anh Nguyễn Quang Thông báo cáo. Nghe tôi trình bày anh Thông duyệt ngay và tôi về báo cáo lãnh đạo Ban tôi đi điều tra theo chỉ đạo của Tổng Biên tập. Được Tổng Biên tập duyệt tôi làm công lệnh đi công tác Vũng Tàu và Quảng Ninh.

Hơn nửa tháng trong vai ngư dân bắt đầu tư 19 giờ đến 5 giờ sáng hôm sau tôi tác nghiệp giữa sông Thị Vải và Soài Rạp – Hiệp Phước để thu thập chứng cứ. Có chứng cứ rõ, về cơ quan lúc này tôi mới báo cáo đúng quy định và báo cáo rõ đi gặp doanh nghiệp để lật bài ngửa nhằm củng cố chứng cứ chắc cho loạt bài điều tra.

Tuy nhiên, khi tôi gặp đại diện chủ đầu tư là ông Phạm Đình Vận và nhà thầu chính là ông Nguyễn Minh Tùng. Ông Vận hối lộ tôi một phong vì cả ngàn USD, còn ông Tùng hối lộ tôi một phòng bỉ khủng, tôi cương quyết không nhận. Lập tức ông Tùng chạy và tôi bị chỉ đạo ngưng điều tra (như băng ghi âm tôi đã công khai). Sau đó tôi làm báo cáo xin đi Quảng Ninh thì bị chỉ đạo ngưng, bút phê do chính Tổng Biên tập viết, mặc dù trước đó cũng chính tay Tổng Biên tập duyệt cho tôi đi Quảng Ninh, tôi làm công lệnh nay vẫn giữ.

Bị chỉ đạo ngưng tôi không chịu khuất phục vì nếu tôi chịu sống chung, tiền của nhà nước tiếp tục chảy vào túi quan tham trên công trình nạo vét ở Quảng Ninh, vì chỉ còn 1 tháng nữa là công trình hoàn thành. Để tiếp tục đấu tranh chống thất thoát ngân sách cho nhà nước, tôi xin phỉ phép năm 2013 ra Quảng Ninh điều tra thu thập chứng cứ. Sau đó phối hợp với Ban Nội chính “bẻ khóa” bắt giam 4, trong đó có hai lãnh đạo phòng thuộc Tổng Công ty xây dựng dường thủy, Bộ GTVT (hai bị can này nhận hối lộ của doanh nghiệp nạo vét 1,2 tỉ đồng). Mở rộng điều tra, giữa năm 2015, 4 bị can tiếp theo bị khởi tố. Nay cơ quan điều tra đã kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ sang Viện KSND TC đề nghị truy tố 8 bị can.

Kỳ nghỉ phép đi đánh án tham nhũng đã hết, tôi vào cơ quan viết 5 kỳ điều tra đặt tên “Bí mật tảng băng chìm nạo vét”, ngày 12.1.2014 gửi mail cho Tổng Biên tập. Sau đó tôi được thông báo Báo Thanh Niên không dùng loạt bài này, nên tôi đã xin phép Tổng Biên tập được gửi loạt bài “Bí mật tảng băng chìm nạo vét” sang báo khác.

Chờ một tuần không thấy Tổng Biên tập trả lời, tôi tung tin gửi bài sang báo Tuổi trẻ, lập tức lúc 14 giờ 58 ngày 20.1.2014, Phó Tổng Biên tập Đặng Việt Hoa điện thoại cho tôi gằn giọng hỏi: ông viết bài nạo vét cho báo tuổi Trẻ hả. Tôi trả lời đã hỏi anh Thông, ông Hoa nói lớn “Ông lúc nào cũng ông Thông chỉ đạo, ông cứ nói ông Thông miết, ông Thông đuổi việc ông đó nghe…”. Vì vậy từ đầu năm 2014 tôi đã bị dọa đuổi việc rồi, và bậy giờ họ mới có cơ hội.

Ngày hôm sau (22.1.2014) lúc tôi đang làm việc với thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Công thì ông Hoa điện thoại giọng nhỏ nhẹ hơn (có lẽ biết tôi chuyển vụ việc đến anh Nguyễn Bá Thanh) mời tôi về nói chuyện nhưng tôi nói đang ở xa không về ngay được, ông Hoa có nói và hù dọa tôi “mảng của ông hết sức nguy hiểm, ông thấy đúng thì cứ làm, nay mai ông gặp khó anh em khó chia sẻ”… (nghe băng nghi âm).

Bắt đầu từ đó tôi bị cô lập và các bài tôi viết đều không được đăng. Loạt bài “Rau ruộng trộn VietGAP” của tôi được đăng đầu tháng 12/2014 là do thời gian đó ông Hoa đi công tác nước ngoài.

Đặc biệt, trong thời gian công tác tại Báo Thanh Niên tôi phát hiện có một số doanh nghiệp xuống làm từ thiện bất thường ở ấp Thạnh An xã Trung An, huyện Củ Chi TP.HCM. Đáng chú ý, tiền của bạn đọc ủng hộ những hoàn cảnh cần hỗ trợ cũng được chuyển về đây sửa chữa văn phòng ấp, làm bia liệt sĩ và mẹ VNAH.

Tôi xuống điều tra xem ở ấp Thạnh An có cái gì, thì được ông Võ Văn Hai (Trưởng ấp) khai, ông là người dẫn ông Đặng Việt Hoa mua gần 5 ngàn m2 đất ở tổ 9, năm 2014 làm xong nhà vườn, chia ra làm 3 cho 3 anh em ông Hoa. Ông Hai cho biết thêm, bia tưởng niệm liệt sĩ và Văn phòng ấp có từ năm 2003 và thuộc xã quản lý. Việc sửa chữa nhà mẫu giáo và bia tưởng niệm kinh phí đều do nhân dân trong ấp đóng góp. Thế nhưng, đơn ông Hai gửi báo Thanh Niên xin hai lần 50 triệu đồng để sửa chữa Van phòng ấp và làm bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, trong đó có 8 mẹ VNAH nhưng lúc đó chỉ còn một mẹ VNAH còn sống...

Không những thế, ngày 13.11.2013 PV Thanh Tùng viết loạt bài điều tra “Kiểu bán hàng kỳ lạ của Unicity”, thì ngay sau đó doanh nghiệp này về ấp Thạnh An làm từ thiện, tài trợ làm đường ở tổ 9 40 triệu đồng.

Sâu chuỗi lại hai sự việc trên, đặc biệt là dùng tiền của bạn đọc hỗ trợ hoàn cảnh khó khăn của báo, nhưng số tiền này được đem về ấp Thạnh An nơi có nhà vườn của ông Hoa sửa chữa Văn phòng ấp. Nếu không ngăn chặn ngay thì sau này Báo Thanh Niên sẽ đi về đâu, xấu hơn là bị khởi tố vì sai phạm liên quan đến tiền của bạn đọc.

Vì vậy, đầu năm 2015 đại hội CNV Báo Thanh Niên tôi mạnh dạn nói thẳng ở hội trường, vì muốn tờ báo Thanh Niên phát triển và không bị xuống bùn đen, tôi đề nghị Ban Biên tập chuyển ông Hoa sang phụ trách mảng khác. Sau đó Tổng Biên tập giao cho Ban Thanh tra nhân dân xác minh. Cuối cùng Ban Thanh tra kết luận việc ông Hoa chỉ đạo ngưng vụ nạo vét là có chỉ đạo từ Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ TTTT, việc ngưng là đúng quy trình... Còn việc ký duyệt tiền tài trợ của bạn đọc mang xuống sửa chữa ấp Thạnh An là đúng thẩm quyền, đã được Tổng Biên tập ủy quyền...

Sau khi ông Nguyễn Văn Thắng đọc kết luận trước các trưởng phó Ban của báo, tôi tuyên bố thẳng sẽ làm tới cùng vụ này.

Có lẽ thấy tôi cương quyết, nên nhiều ngày sau tôi được ông Nguyễn Văn Thắng (Trưởng Ban Thanh tra) mời uống cà phê nhiều lần nói được ủy quyền của Tổng Biên tập gặp tôi tâm sự nếu tôi rút đơn kiến nghị ông Hoa thì Ban Biên tập sẽ cho tôi làm phó trưởng Văn phòng đại diện Đông Bắc Bộ, tôi không đồng ý vì tôi không thích làm sếp. Tiếp đến ông Thắng nói có nguyện vọng gì thì làm đơn nhưng phải kèm theo đơn xin rút đơn tố cáo ông Hoa. Nghe vậy tôi làm đơn xin xem xét nguyện vọng cho tôi về làm biên tập để triển khai 3 đề tài lớn ảnh hưởng tới tình hình ANKT của đất nước (3 đề tài đó mỗi đề tài sai phạm hàng chục tỉ đồng), nhưng tôi không chịu rút đơn tố cáo. Một tuần sau, ông Thắng gọi điện thông báo cho tôi anh Thông đang ở nước ngoài có gọi điện thoại về nói tôi phải làm đơn xin rút đơn tố cáo ông Hoa thì Tổng Biên tập mới xem xét.

Không những thế, một cán bộ A87 (phía Nam) cũng mời tôi đi uống cà phê đề nghị tôi xin lỗi ông Hoa thì ông Hoa sẽ chỉ đạo Ban giao việc cho tôi để tôi có bài viết và nếu đã có bài viết thì chỉ tiêu chỉ là nhỏ, tôi quyết không đồng ý.

Tháng 6.2015 tôi làm đơn tố cáo ông Hoa gửi tới Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông Tin Truyền Thông, Thủ Tướng và Trung ương đoàn với 4 nội dung: Làm việc có động cơ cá nhân; Bảo kê doanh nghiệp; Mượn danh Ban Tuyên giáo Trung ương bảo kê doanh nghiệp và Trù dập cá nhân.

Riêng về đơn gửi cho Trung ương đoàn tôi kiến nghị cải tổ Báo Thanh Niên một số quy chế vì đối xử phân biệt như:

1: Cắt ngay hoa hồng quảng cáo vì có hoa hồng quảng cáo sẽ làm bớt lửa cho bài viết (mỗi năm có nhiều tỉ đồng hoa hồng quảng cáo được chi cho người lấy quảng cáo về cho báo).

2: Thỏa ước lao động tập thể phân biệt đối xử với PV. Cụ thể, Báo Thanh Niên có khoảng 500 người, nhưng thỏa ước lao động tập thể năm 2015 chỉ áp dụng chỉ tiêu với khoảng 120 PV “Nếu thiếu chỉ tiêu nhuận bút trong hai quý thì sẽ xem xét chấm dứt Hợp đồng lao động”, còn các bộ phận khác (trừ Ban Biên tập do Trung ương Đoàn quản lý) như Ban Thư Ký, Các Trưởng, Phó Ban, Phòng Tổ chức…không quy định thế nào là hoàn thành nhiệm vụ và thế nào là xem xét chấm dứt hợp đồng lao động; 3: Cần dân chủ khi duyệt bài của PV.

Ngày 16.7.2015 Ban Chấp hành Trung ương Đoàn quyết định thành lập tổ công tác xác minh do ông Phạm Xuân Đảng Phó chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm tra Trung ương Đoàn làm tổ trưởng vào làm việc với tôi. Tôi cung cấp toàn bộ chứng cứ liên quan đến 4 nội dung tố cáo bằng dẫn chứng cụ thể từng phần trên 6 trang giấy A4.

Ngày 7.9.2015 Trung ương Đoàn kết luận không theo chứng cứ mà theo giải trình của người bị tố cáo. Đặc biệt, đóng dấu mật vào văn bản kết luận nên tôi không tiện đưa lên đây để bạn đọc tham khảo. Kết luận của Trung ương Đoàn có yêu cầu: Đề nghị đồng chí Đặng Ngọc Hoa (tức Đặng Việt Hoa), phó Tổng Biên tập báo Thanh Niên rút kinh nghiệm về phương pháp công tác; hạn chế nóng nảy trong trao đổi công việc, từ đó dễ tạo áp lực và tâm lý đối với cán bộ cấp dưới. Đề nghị ban Biên tập Báo Thanh Niên cân nhắc trong phân bổ nguồn lực làm từ thiện, an sinh xã hội để tránh hiểu lầm, gây dư luận không tốt, ảnh hưởng đến uy tín của Báo Thanh Niên.

Tôi không nói tôi đúng hay báo Thanh Niên đúng, vài tiếng nữa tôi sẽ đưa lên đây hai văn bản:

1: Biên bản làm việc với Tổ công tác, tôi kiến nghị Trung ương Đoàn xem xét tư cách đảng viên của ông Hoa về công tác phòng chống tham nhũng và đề nghị chuyển ông Hoa sang phụ trách mảng khác, nhằm đảm bảo dân chủ cho tờ báo.

2: Biên bản bàn giao chứng cứ 4 nội dung tố cáo để tất cả mọi người tham khảo, chắc chắn mỗi người một cách nghĩ riêng.

Trong phản hồi của TNO có nói đến đoạn tôi bị phê bình nghiêm khắc vì tôi sơ hở và vượt quá quyền cho phép của PV, tại sao tôi không sai trong tác nghiệp trong loạt bài “Cảnh sát trật tự cơ động làm luật” mà phê bình tôi, Báo Thanh Niên không hề có quy chế bảo vệ PV cũng như hướng dẫn cho PV được tác nghiệp tới đâu nên tôi phải tự bơi để bảo vệ bản thân an toàn và tôi là PV đầu tiên không bị khởi tố vì sau loạt bài có đến 7 công an bị tước quân tịch, khai trừ đảng. Công an TP.HCM vào cuộc nhưng cuối cùng chỉ kết luận “tạo tình huống cài bẫy cảnh sát” là vi phạm pháp luật, một điều luật không có trong tất cả các bộ luật Việt Nam.

Đáng lẽ mô hình tác nghiệp của tôi cần được nhân rộng để các PV khác học hỏi mới đúng. Nếu tôi có dấu hiệu sai phạm trong loạt bài tiêu cực đó, và nếu tôi sơ hở thì công an TP.HCM khởi tố tôi từ lâu rồi, Thanh Niên đưa lên phản hồi “có dấu hiệu tiêu cực trước đó nhằm mục đích gì?” tự để mọi người bình luận.

Đáng nói, trong năm 2012 tôi thực hiện thành công hai loạt bài điều tra chấn động xã hội, đó là loạt bài “Kinh hoàng heo siêu nạc” và “Cảnh sát trật tự cơ động làm luật” qua đó Báo Thanh Niên tăng uy tín lên nhiều. Cuối năm 2012 tôi được Trung ương Đoàn tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua trung ương đoàn năm 2012. “Đúng là được tiếng thì tung hô, khi gặp nạn thì thí tốt”.

Tôi có hoàn thành nhiệm vụ, có xứng tầm một nhà báo không thì cả xã hội đều biết. Điều tôi muốn nói Báo Thanh Niên không có quy chuẩn cho một bài viết thế nào là đạt thế nào là không đạt. Bài được đăng phụ thuộc vào Ban Biên tập và quy chế cũng chính Ban Biên tập đẻ ra. Có những loạt bài của tôi về an sinh xã hội đúng mảng được phân công, nhưng không được đăng, khi tôi gửi báo khác thì lại đăng trang nhất. Có bài về lừa đảo xin việc vào sân bay giá 150 triệu đồng, viết và nộp xong đều không được đăng. Bài “Sập bẫy lương khủng”, bài “Thần dược lừa nông dân”, “Nghi án phi tang 1.300 tấn chất thải rắn” hoàn toàn đúng với mảng an sinh xã hội… viết xong không được đăng. giữa năm 2015 tôi báo cáo đề tài 3 kỳ: “Casino và lâm tặc giữa đại ngàn” nhưng không được duyệt. Vậy tôi xin hỏi mọi người tôi có hoàn thành nhiệm vụ không để đến nỗi bị phạt 64 triệu đồng/3 quý?.

Chú ý hơn, ngày 21.6 vừa rồi, một PV của VTV có ý định làm chân dung tôi cho ngày 21.6, khi điện thoại cho Tổng Biên tập thì được trả lời “…chúng tôi có hướng đào tạo anh lên làm lãnh đạo, nhưng anh tự mãn…”. Ô hay, tôi không thích đánh đổi sự im lặng để tiến thân sao lại gọi là tự mãn?. Anh bạn PV buồn buồn nói trong điện thoại “tôi không hiểu vì sao Thanh Niên lại không muốn đưa anh lên, một tờ báo có PV lên chân dung ngày 21.6 thì vinh dự lắm chứ, Tổng Biên tập nói thế là tôi hiểu rồi, tôi chọn nhân vật Hữu Ước vậy”…


Theo Blog Bình Luận Án

Nghĩ lại: huyền thoại và thiển cận về Biển Đông

Tác giả: Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm)
Dịch giả: Huỳnh Phan
16-10-2015
H1

Khi thế giới tập trung sự chú ý vào Biển Đông, nhiều huyền thoại về vấn đề này cũng sinh sôi nảy nở. Một số huyền thoại tồn tại là do chúng ta không đủ tri thức. Nhưng nhiều huyền thoại khác vẫn còn hiện ra là do chúng ta dùng sai kính khi nhìn sự vật. Câu hỏi hóc búa về Biển Đông là một câu chuyện đầy thách thức để giải mã bởi vì hầu hết các kính thông thường mà chúng ta sử dụng không giúp chúng ta nhìn ra được bản chất của câu chuyện này.
Chẳng hạn, suy nghĩ theo cách nhìn đối lập trắng đen là một cách hữu ích để đơn giản hóa và làm nổi bật sự vật lên, nhưng tròng kính này trở nên vô dụng để nhìn thấy những gì xảy ra ở Biển Đông, bởi vì sự vật ở đó chủ yếu xảy ra trong các vùng xám. Một cách tốt khác để hiểu các hoạt động của con người là nghĩ về chúng như việc tìm kiếm các nguồn tài nguyên. Phần lớn những gì mà các nước làm là một cuộc tranh giành về tài nguyên, nhưng nếu chúng ta chú tâm vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên thì chúng ta sẽ đánh mất một nguồn chủ chốt ở Biển Đông: địa điểm.
Chúng ta thường dùng ván cờ như một cách ví von cho trò chơi mà các nước tiến hành, và bàn cờ là hình ảnh phổ biến về chỗ mà các nước tác động qua lại. Nhưng cách ví von này sẽ không giúp chúng ta hiểu được Trung Quốc đang bày trò chơi gì. Như David Lai và Henry Kissinger quan sát, chiến lược của Trung Quốc không giống như một cuộc cờ thường mà là một cuộc cờ khác của Trung Quốc có tên là weiqi (围棋/vi kỳ: dịch theo nghĩa đen là “cờ vây” [game of encirclement] và được biết đến trong tiếng Anh qua tên tiếng Nhật là “go”). Ý tưởng cơ bản của weiqi giống như ý tưởng trong Binh pháp của Tôn Tử. Thay vì tập trung vào các trận đánh trực diện với kẻ thù, ý tưởng là vận dụng các xu hướng của sự vật để xoay chuyển tình hình có lợi cho mình. Như tôi đã trình bày trong National Interest, những gì Trung Quốc đã và đang làm ở Biển Đông là một ví dụ điển hình của việc chơi weiqi một cách thiện nghệ như thế nào.
Trong một bài báo gần đây, Lyle Goldstein đã thực hiện công việc đáng khen trong việc vạch trần một số huyền thoại phổ biến về Biển Đông. Ông cũng mời các nhà hiện thực, đồng chí hướng, tham gia thảo luận. Với tư cách là một người quan sát Biển Đông và bản thân cũng là một người hiện thực, tôi rất vui lòng nhận lời mời của ông. Tôi sẽ trình bày một cái nhìn hiện thực khác, nhưng mục đích của tôi không phải là tạo ra một sự khác biệt. Điều tôi muốn là để hiểu cái gì đang thực sự xảy ra và những tác động của nó đối với chiến lược.
Bãi cạn Scarborough
Goldstein bác bỏ ý tưởng rằng “Chính quyền Obama đã phạm một sai lầm nghiêm trọng trong vụ Bãi cạn Scarborough hồi mùa xuân năm 2012, giúp hành động ‘gây hấn’ của Trung Quốc tiến xa hơn nữa”. Tuy nhiên, lời chỉ trích của ông chệch xa mục tiêu thực sự, và qua đó phát tán hai huyền thoại khác. Huyền thoại thứ nhất là tình huống chỉ hai mặt đen trắng, trong đó chiến tranh là lựa chọn duy nhất cho những gì mà chính quyền Obama đã làm. Điều đó có thể có chỗ đúng, như đã được tường thuật rộng rãi, rằng chính phủ Philippines đã tìm kiếm sự hậu thuẫn quân sự của Washington theo hiệp ước phòng thủ chung Mỹ – Philippines. Nhưng điều này không có nghĩa là Hoa Kỳ chỉ có hai lựa chọn: tiến hành chiến tranh để bảo vệ đồng minh hoặc giữ thế trung lập trong cuộc xung đột. Như Bonnie Glaser bình luận trên twitter, “Mỹ có các lựa chọn khác hơn là đi đến chiến tranh đối với vụ Bãi cạn Scarborough. Việc không hành động của Mỹ đã gây nhiều hậu quả”. Mục tiêu đã nêu trong những lời chỉ trích của Goldstein, bài báo của Ely Ratner có tiêu đề “Learning the Lessons of Scarborough Reef” (Học các bài học kinh nghiệm về Bãi cạn Scarborough) cũng vạch rõ rằng “mối đe dọa về một cuộc xung đột quy mô lớn là xa vời. Thay vào đó, sự bất ổn định trong khu vực có nhiều khả năng xuất phát từ các tranh chấp và cạnh tranh xảy ra ở một vùng xám giữa chiến tranh và hòa bình”.
Sai lầm lớn nhất mà chính quyền Obama phạm phải trong việc xử lý bế tắc Scarborough là việc họ chấp nhận vai trò làm một nhà trung gian trung thực. Đây là một vai trò cao cả, nhưng Washington định vị sai về cấu trúc khi giữ vai trò đó. Sự chênh lệch lớn về khả năng giữa Trung Quốc và Philippines có nghĩa là qua việc hành xử như một nhà trung gian trung thực, Washington tiếp tay cho Trung Quốc và tiếp tục cô lập Philippines. Quả vậy, Bắc Kinh đã nhiều lần từ chối đàm phán với Manila và dùng Hoa Kỳ gây sức ép để buộc Philippines lùi bước. Sự chênh lệch về tin cây (Manila tin người trung gian nhiều hơn Bắc Kinh) cũng có hậu quả. Manila dường như diễn giải thỏa thuận đạt được qua môi giới của Washington (và một thượng nghị sĩ Philippines cấp thấp tên Antonio Trillanes) như là hai bên cùng bỏ trống khu vực, nhưng trên thực tế Bắc Kinh chỉ dời một số tàu đi trong khi vẫn duy trì kiểm soát việc ra vào khu vực này.
Huyền thoại thứ hai mà Goldstein ôm ấp là giá trị của Scarborough Shoal nằm ở tài nguyên biển của khu vực xung quanh. Nếu chỉ vì dầu và cá ở đó thì một nước lớn như Trung Quốc đã không đánh liều quan hệ ngoại giao và uy tín quốc tế của mình như thế. Thay vì các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cái đáng giá cho công sức của Bắc Kinh bỏ ra để chiếm giữ rạn san hô này là vị trí của nó. Nằm gần các tuyến đường vận chuyển chính nối eo biển Malacca ở phía nam với eo biển Đài Loan và Luzon ở phía bắc, Bãi cạn Scarborough là nơi lý tưởng để từ đó quan sát và tuần tra khu vực phía đông của vùng trung tâm Biển Đông. Mặc dù rạn san hô này chủ yếu là ngập nước với chỉ một vài mỏm đá nhỏ trên mặt nước khi triều cao, nó có tiềm năng để bồi đắp lên thành một đảo nhân tạo gấp hai lần kích thước Đá Vành Khăn (Mischief Reef). Cho đến nay có thể Trung Quốc chưa xây dựng bất kỳ cấu trúc nào trên Scarborough, nhưng đó không phải là lý do để nghĩ rằng một đảo nhân tạo ở đó là một ý tưởng hảo huyền. Suy cho cùng, vào năm 1995 khi Trung Quốc bắt đầu chiếm Đá Vành Khăn, có ai nghĩ rằng 20 năm sau rạn san hô ngập nước này sẽ biến thành một đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa với diện tích bề mặt gần 1.400 acre (mẫu Anh)?
Xây đắp đảo
Một “huyền thoại” khác bị Goldstein chỉ trích là “những dự án xây dựng của Trung Quốc ở Trường Sa lập ra các ‘căn cứ’ mới, đủ rộng để làm thay đổi cán cân cân quyền lực trong khu vực”. Ông lập luận rằng, các đảo nhân tạo ở đó rất dễ bị tấn công trong thời chiến và do đó chỉ có thể là các “tiền đồn mang tính biểu tượng thôi”. Tôi đồng ý với phần đầu của lập luận này, nhưng không đồng ý ở phần sau.
Tiền đồn của Trung Quốc ở giữa đại dương có thể không phải dễ bị làm tổn hại như một số người suy nghĩ. Nếu chiến tranh nổ ra, Trung Quốc có thể tuyên bố rằng họ không có sự phân biệt giữa một cuộc tấn công vào các đảo này và một cuộc tấn công trên đất liền. Điều này sẽ làm cho tất cả mọi người phải suy nghĩ thêm nữa, trước khi tung ra một cuộc tấn công vào các đảo. Tuy nhiên, như tôi đã lưu ý trên National Interest  và chỗ khác, Trung Quốc không chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh tổng lực khi xây đấp các đảo và các cơ sở trong quần đảo Trường Sa. Chiến lược tổng thể của họ ở Biển Đông theo câu châm ngôn của Tôn Tử “bất chiến tự nhiên thành”. Những đảo nhân tạo này có thể biến thành các điểm điều khiển mạnh, các trung tâm hậu cần lớn, và các căn cứ triển khai sức mạnh có hiệu quả trong thời bình và trong vùng xám giữa chiến tranh và hòa bình.
Do vị trí chiến lược và năng lực hậu cần của chúng, các đảo trong tay của Trung Quốc sẽ là những căn cứ lớn mà từ đó vô số tàu thuyền đánh cá, tàu thực thi pháp luật, tàu chiến và máy bay có thể khống chế các vùng biển và bầu trời Biển Đông. Hiện giờ, mục tiêu của Bắc Kinh dường như là giành uy thế tối cao về hải quân và không quân những khi không có sự dính dáng về quân sự của Hoa Kỳ. Khả năng Việt Nam tấn công các tiền đồn của Trung Quốc là hết sức hạn chế, do dễ bị Trung Quốc trả đũa dọc theo tuyến biên giới dài 1450 km trên bộ. Bốn sân bay ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có thể sẽ nâng thêm khoảng từ 30 tới 40 số lượng máy bay thế hệ thứ tư mà Trung Quốc có thể hoạt động cùng một lúc ở Biển Đông. Điều này sẽ cho phép Trung Quốc đạt được ưu thế trên không đối với Việt Nam và Malaysia, hai nuớc có lực lượng không quân lớn nhất trong số các đối thủ Đông Nam Á. Việt Nam có được một bờ biển dài dọc theo Biển Đông nhưng cả nước chỉ có 35 máy bay thế hệ thứ tư. Malaysia nằm xa về phía nam và cả nước có không quá 44 bốn máy bay thế hệ thứ tư. Mặc dù khí tài quân sự của Trung Quốc trên các đảo ở Biển Đông sẽ rất dễ bị tổn hại trong thời chiến, chúng có thể rất hữu ích cho tuần tra thời bình và dọa nạt về tâm lý.
Cụm từ phổ biến “bồi tạo đất” (land reclamation) không chuyển tải hết bản chất các hoạt động xây dựng của Trung Quốc ở Biển Đông. Những gì Bắc Kinh đang làm ở quần đảo Trường Sa không chỉ đơn thuần là bồi đắp đất mà còn thay đổi địa lý. Ian Storey đã gọi nó là “hình thành đất” (terraforming). Carl Thayer lập luận rằng đó không phải là bồi đắp đất mà “thực hành trung tâm hàng hải ở Đông Nam Á. Cán cân quyền lực trong khu vực có thể không thay đổi quá nhiều, nhưng địa lý khu vực đang bị chuyển đổi. Và địa lý mới sẽ cho phép Trung Quốc đảo lộn sự cân bằng trong khu vực.
Hậu thuẫn các đồng minh và đối tác
Tôi đồng ý với Goldstein (và nhiều người khác) rằng sự ủng hộ của Washington đối với các bên Đông Nam Á có tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông sẽ tạo động lực để họ cuơng quyết và mạnh mẽ hơn. Nhưng tôi không đồng ý với kết luận rằng tốt hơn Hoa Kỳ nên rút tay ra khỏi Biển Đông.
Thứ nhất, khuyến khích đến từ sự ủng hộ của Washington chỉ là một trong nhiều loại khuyến khích và gàn cản mà các nước Đông Nam Á đang phải đối mặt trong cuộc đấu tranh với Trung Quốc. Một điều cản trở rất lớn là sự chênh lệch không thể vượt qua về khả năng vốn đặt Trung Quốc vào một vị thế vô cùng thuận lợi so với các nước Đông Nam Á. Nếu không có sự ủng hộ của Washington, Philippines – trang bị kém về quân sự và gắn bó lỏng lẻo về chính trị – sẽ dễ dàng chịu thua trước sự khống chế của Trung Quốc, điều đó cuối cùng đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng Scarborough.
Thứ hai, nguy cơ của một cuộc xung đột trực tiếp giữa Washington và Bắc Kinh là có thật ngay cả khi không có sự ủng hộ của Mỹ đối với các đồng minh và đối tác trong khu vực. Tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông chỉ thể hiện phần nổi của tảng băng; nằm sâu dưới bề mặt là một cuộc cạnh tranh có tính chiến lược hơn giành uy thế tối cao ở Tây Thái Bình Dương. Trung Quốc và Hoa Kỳ là hai đối thủ chính trong cuộc cạnh tranh này, mặc dù các quốc gia khác như Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và Ấn Độ cũng có vai trò quan trọng.
Không có sự hiện diện thường trực ở Biển Đông và với căn cứ ở xa xôi tận quê nhà, Hoa Kỳ phải dựa vào Việt Nam, Philippines và ở một mức độ thấp hơn vào Malaysia để giữ cán cân bằng quyền lực trong khu vực không lệch quá xa về phía Trung Quốc. Về mặt này, lợi ích của Mỹ và Đông Nam Á là bổ sung cho nhau chứ không phải mâu thuẫn nhau. Giúp các đồng minh và đối tác cũng là một cách kinh tế để phục vụ lợi ích của Mỹ trong khu vực. Đối với việc Mỹ trợ giúp các đồng minh và đối tác của mình ở Biển Đông, câu hỏi thực sự ở đây không phải có nên hay không mà là giúp như thế nào. Có nhiều lựa chọn để xem xét trong việc trả lời câu hỏi này, và một cuộc xung đột trực tiếp Trung-Mỹ là một nguy cơ phải ngăn ngừa, chứ không phải là một hệ quả logic của sự ủng hộ của Mỹ đối với các đồng minh và đối tác trong xung đột với Trung Quốc.
Tự do hàng hải và lãnh đạo khu vực
Nhưng tại sao Hoa Kỳ phải tranh giành vị thế đứng đầu ở Tây Thái Bình Dương? Câu trả lời gần như chuẩn là nước Mỹ có lợi ích quốc gia trong vấn đề tự do hàng hải và vị thế đứng đầu về quân sự của Mỹ tại các vùng biển này là sự bảo đảm tốt nhất cho điều đó. Tôi nghĩ rằng câu trả lời này có sai sót, nhưng không phải vì những lý do do Goldstein đưa ra. Thứ nhất, mặc dù Hoa Kỳ có lợi ích quan trọng ở Biển Đông, tự do hàng hải không phải là từ ngữ tốt nhất dùng cho lợi ích này. Thứ hai, có một lý do khác để cho Hoa Kỳ tranh giành vị thế đứng đầu ở Tây Thái Bình Dương. Cho tôi đuợc giải thích.
Thuật ngữ “tự do hàng hải” là một lựa chọn không tồi về từ ngữ. Ý nghĩa của nó thay đổi tùy theo ta đứng ở vị trí pháp lý hoặc các quan điểm quốc gia nào. Cái đuợc mất ở đây không phải là quá nhiều về quyền tự do hàng hải như là một tình hình thực tế mà là quyền truy cập tự do tới các vùng biển và bầu trời ở khu vực đông đúc này. Có một sự khác biệt cốt yếu giữa các cam kết của Trung Quốc và Mỹ đối với “quyền tự do hàng hải” ở Biển Đông. Sự khác biệt này xuất phát từ thực tế cơ bản rằng trong khi Hoa Kỳ đề cao khái niệm các vùng biển chung của toàn cầu (golobal commons), còn Trung Quốc lại trân quý ý tưởng về “đường chín đoạn”. Với ý tưởng này, Bắc Kinh coi khu vực được chỉ ra bởi “đường chín đoạn” là một cái gì đó giống như một địa hạt có chủ quyền mà họ đã đánh mất vào tay người khác và họ có quyền lấy lại. Trung Quốc và Hoa Kỳ có thể có chung quan điểm khi nói đến tự do hàng hải tại hầu hết các vùng biển trên trái đất, nhưng Biển Đông là một trường hợp đặc biệt vì có “đường chín đoạn”. Trong khi Washington thừa nhận quyền của mọi người, kể cả của kẻ thù của mình, được tự do tiếp cận các vùng biển và bầu trời ở khu vực này, Bắc Kinh giữ lại quyền đó cho chính họ. Khi Trung Quốc nói rằng họ bảo đảm quyền tự do đi lại ở Biển Đông thì cần ngầm hiểu rằng với tư cách một cường quốc độ lượng họ mở cửa ra cho tất cả mọi người như những người khác phải tôn trọng chủ quyền của họ.
Trung Quốc còn lâu mới có thể kiểm soát tất cả các “cửa” dọc theo “đường chín đoạn”, và thậm chí nếu họ có thể làm như vậy, họ cũng sẽ không đóng các “cửa” đó. Xét cho cùng, Trung Quốc có lợi ích rất to lớn trong việc giữ các dòng chảy thương mại xuyên qua Biển Đông không bị cản trở. Sự đe dọa của Trung Quốc đối với tự do hàng hải và hàng không ở khu vực này ảnh hưởng đến các cơ sở có tính quy phạm của quyền tự do này nhiều hơn là tình hình thực tế. Nếu Hải quân Trung Quốc trở thành kẻ giám hộ quyền tự do hàng hải trong vùng biển này, hầu hết tàu thuyền, hầu như mọi lúc, vẫn có thể đi lại qua đó không bị cản trở, nhưng đó không phải là vì các nước được hưởng quyền khách quan về tự do truy cập mà vì họ được hưởng sự độ lượng chủ quan của Trung Quốc mà nhiều khi sữ độ luợng này có thể có chọn lọc và tùy tiện. Chi tiết tinh tế này có thể không quan trọng đối với các công ty bảo hiểm và vận chuyển, nhưng nó sẽ có hậu quả sâu rộng cho nền chính trị thế giới. Nó có nghĩa là trong trật tự khu vực do Trung Quốc bảo lãnh thì luật pháp quốc tế phải nhường bước cho chính sách của Trung Quốc.
Ngay cả khi Trung Quốc hành xử theo cùng cách như Hoa Kỳ, vị thế đứng đầu của Trung Quốc ở Biển Hoa Đông và Biển Đông sẽ vẫn còn đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với quyền lãnh đạo của Mỹ trong khu vực. Sự tập trung của các động mạch chính của châu Á ở khu vực này có nghĩa rằng, diễn giải lại theo cách nói của Harold Mackinder, ai kiểm soát Biển Hoa Đông và Biển Đông thì kẻ đó sẽ thống trị châu Á; và với sự trỗi dậy của châu Á, ai thống trị khu vực này thì kẻ đó sẽ điều khiển thế giới. Trong 70 năm tính từ ngày cuối của Thế chiến II, vị thế đứng đầu của hải quân Mỹ ở Tây Thái Bình Dương đã cho phép Washington đóng một vai trò lãnh đạo ở châu Á. Về phần mình, Trung Quốc đã ngày càng thể hiện sự tin tưởng rằng con đường của họ tới vị trí đứng đầu Châu Á cũng chạy qua vị thế đứng đầu ở vùng biển này.
Chiến tranh Mỹ-Trung
Nếu cuộc thách giữa hai đối thủ này là không thể tránh được thì ai sẽ thắng ai? Tôi đồng ý với Goldstein rằng kết quả của một cuộc chiến tranh Mỹ-Trung là rất không chắc chắn. Với tất cả những lợi thế về công nghệ, Hoa Kỳ lại bị bất lợi rất lớn về địa lý.
Nếu nguy cơ bị thua của Mỹ va Trung Quốc là tương đương nhau thì Washington sẽ phải suy nghĩ lại chiến lược lớn của mình. Ngăn chặn sẽ là một trụ cột rất yếu trong chiến lược của Mỹ. Washington phải dựa trên cân bằng, chứ không ngăn chặn hoặc hòa giải, như là các đặc tính chủ yếu của chính sách ngoại giao và hoạch định chiến lược của mình. Vì chiến tranh vừa là một cái cần phải tránh vừa là cái không thể thắng, nên việc hoạch định chiến lược của Mỹ phải chuyển trọng tâm từ chiến tranh sang các vùng xám giữa chiến tranh và hòa bình.
Hoa Kỳ có thể cũng không cần phải sử dụng rất nhiều công cụ công nghệ cao của mình. Điều mà họ cần phải làm nhiều hơn là khắc phục những bấr lợi về địa lý bằng cách sử dụng thế “cờ vây” một cách điêu luyện như Trung Quốc. Họ sẽ cần phải giúp các nước ven biển như Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và Malaysia tăng cường khả năng phòng thủ, cả quân sự lẫn phi quân sự, và góp chung lực lượng trong một liên minh mạnh mẽ. Có lẽ huyền thoại lớn nhất hơn cả liên quan đến an ninh Châu Á hiện nay là Hoa Kỳ không thể và không nên kiềm chế Trung Quốc.
Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương Nghiên cứu An ninh Daniel K. Inouye. Các quan điểm thể hiện trong bài viết này là của riêng tác giả và không phản ánh quan điểm của DKI-APCSS, Bộ Quốc phòng, hay Chính phủ Hoa Kỳ.

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2015

Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của Lưu Bị theo chính sử

Kết nghĩa Đào Viên
Kết nghĩa Đào Viên
Đặng Thành
Thời kỳ Tam Quốc bắt đầu vào năm 220 khi nhà Tào Ngụy được thành lập (1) và kết thúc vào năm 280 khi nhà Ngô sụp đổ (2).
Tuy nhiên theo Trần Thọ (3), tác giả của bộ chính sử Tam Quốc Chí được biên soạn vào thế kỷ thứ 3 thì thời đại Tam Quốc bắt đầu từ năm 189 đến năm 280. Toàn bộ tác phẩm gồm 66 quyển với nội dung đề cập về cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật lịch sử trong thời đại này. Tác phẩm được người đương thời đánh giá rất cao và được xếp vào danh sách Nhị Thập Tứ Sử (4). Ngoài ra tác phẩm còn ảnh hưởng rất sâu rộng, làm nền tảng cho bộ tiểu thuyết TAM QUỐC DIỄN NGHĨA nổi tiếng của La Quán Trung được viết vào thế kỷ 14. Dưới ngòi bút của tác giả, Lưu Bị là một vị vua hiền, một vị vua đầy lòng nhân ái, luôn lấy nhân nghĩa làm cứu cánh cho cuộc đời. Tuy nhiên nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc đời của vị vua này không đủ biện minh cho mục đích cuối cùng mà ông quyết theo đuổi.
Ở đây chúng tôi không đi vào vết xe của phần lớn người Tống: thấy Lưu Bị thất bại, người Tống chau mày, đến đoạn Tào Tháo bại trận họ lại vui mừng vì phần lớn dân chúng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi cuốn tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung và cuốn sử chính trị Tư trị Thông giám (5) do Tư Mã Quang chủ biên. Nói khác đi, chúng tôi cố gắng dựa vào chính sử Tam Quốc Chí của  Trần Thọ và chú thích của Bùi Tùng Chi (6) để nêu lên những nét đặc trưng của cuộc đời và sự nghiệp của Lưu Bị trong thời đại Tam Quốc.
THÂN THẾ
Lưu Bị (刘备) (161-223) tự Huyền Đức (玄德), người ở quận Trác nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Ông là con của Lưu Hoằng, cháu Lưu Hùng; con cháu đời sau của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng (7) thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Hán. Đến đời Lưu Bị, cơ nghiệp nhà Hán suy tàn; ông mồ côi cha từ nhỏ, cùng mẹ sống bằng nghề đan giày, bện chiếu. Năm 15 tuổi, Lưu Bị được mẹ gửi đi học cùng với người đồng tông là Lưu Đức Nhiên và Công Tôn Toản. Cha của Lưu Đức Nhiên thường chu cấp cho Lưu Bị ăn học. Công Tôn Toản và Lưu Bị là bạn rất thân. Công Tôn Toản nhiều tuổi hơn nên Lưu Bị coi như anh trai.
KHỞI NGHIỆP
Lưu Bị không thích đọc sách chỉ thích cưỡi ngựa, ca hát và mặc quần áo đẹp. Vóc người ông cao lớn (1,72m: theo Tam Quốc Chí, Trần Thọ),  dung mạo nổi bật và khác thường. Tính tình ông trầm mặc ít nói, mừng giận không lộ ra mặt. Ông có chí lớn,  thích kết giao với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ (8) và được nhiều người trẻ tuổi vây quanh. 
Lưu Bị cùng Quan Vũ (9) và Trương Phi đối xử với nhau như anh em và trong suốt cuộc đời của Lưu Bị, ông đã hết lòng sống vì họ. Buổi đầu khởi nghiệp, có hai nhà buôn ngựa ở vùng Trác Quận là Trương Thế Bình và Tô Song tài trợ tiền và vàng giúp Lưu Bị mua ngựa và binh khí, nhờ vậy Lưu Bị mới tập hợp được một số binh lính.
Năm 184, Trương Giác cầm đầu cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng (giặc Hoàng Cân) nổi dậy chống triều đình. Nhờ tham gia chiến dịch chống quân nổi dậy thành công, Lưu Bị được thăng Huyện úy huyện An Hỉ (10), sau thăng chức Cao Đường lệnh cấp huyện trưởng. Không lâu sau đó, Đại tướng Hà Tiến cử Đô úy Quán Khâu Nghị đến An Dương mộ binh. Lưu Bị gia nhập rồi dẫn quân dẹp giặc Khăn Vàng ở Hạ Bi và ông  được phong làm Hạ Mật thừa. Quân giặc lại đến quấy nhiễu, Lưu Bị chạy sang nương nhờ bạn cũ là Trung lang tướng Công Tôn Toản. Công Tôn Toản dâng biểu tiến cử ông làm Biệt bộ Tư mã rồi điều ông sang giúp Thứ sử Thanh Châu là Điền Khải chống lại Viên Thiệu. Lưu Bị lập được nhiều chiến công nên Điền Khải cho giữ chức Bình Nguyên lệnh, sau thăng lên Bình Nguyên tướng. Lưu Bị bổ nhiệm Quan Vân Trường và Trương Phi làm Biệt bộ Tư mã, thống lĩnh quân đội của Lưu Bị (chỉ trên danh nghĩa).
Năm 190, Viên Thiệu tập họp chư hầu đánh Đổng Trác. Lưu Bị và Công Tôn Toản không đến dự hội minh với chư hầu như La Quán Trung mô tả trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.
 TIẾP QUẢN TỪ CHÂU
Cùng thời điểm Đào Khiêm đánh Khuyết Tuyên thì xảy ra vụ án mạng Tào Tung (cha Tào Tháo). Giữa năm 193, Tào Tung từ Lạc Dương tới Lang Nha định dưỡng lão. Đoàn người mang theo hơn 100 xe vàng bạc châu báu (11) và khi đi ngang qua Từ Châu, Tào Tung bị bộ tướng của Đào Khiêm là Trương Cương giết và cướp hết hành lý.
Tào Tháo nghe tin cha bị hại ở Từ Châu cho rằng Đào Khiêm đồng mưu với thủ hạ giết cha mình nên quyết tâm báo thù. Ông lấy cớ Đào khiêm ủng hộ triều đình do thủ hạ của Đổng Trác nắm quyền ở Trường An và việc Đào Khiêm mật giao với Khuyết Tuyên (12) nên Tào Tháo điều hơn hai mươi ngàn quân tiến đánh Từ Châu.
Sau nhiều ngày chiến đấu, quân Tào chiếm hơn 10 thành và đánh bại quân Đào Khiêm ở Bành Thành, giết hơn 10 ngàn quân Từ Châu; vì vậy nước sông Hán Thủy không chảy được (13). Từ Châu Mục Đào Khiêm rút quân vào thành Đan Dương cố thủ đồng thời cầu cứu Thứ sử Thanh Châu là Điền Khải. Điền Khải lúc đó đang bị Viên Thiệu vây đánh nên ông đã cầu cứu tướng giữ Bình Nguyên là Công Tôn Toản. Tướng Toản cử Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi đi cứu Thanh Châu. Cùng lúc Công Tôn Toản được tin Đào Khiêm cầu cứu nên ông cử Lưu Bị cầm quân đi giải cứu Từ Châu trước. Lúc đó quân số của Lưu Bị có hơn một ngàn quân cùng với đám kị binh tạp nhạp người Ô Hoàn ở U Châu rồi lại được Đào Khiêm cấp cho 4.000 quân nữa nên ông bỏ Điền Khải theo về với Đào Khiêm và cùng Đào Khiêm tử thủ ở Đan Dương. Tào Tháo vây đánh nhiều ngày nhưng không sao phá được thành, ông liền trút hận thù lên dân thường vô tội và ra lệnh tàn sát hơn một trăm ngàn người ở năm thành kể cả nhiều người dân từ Thiểm Tây chạy qua đó lánh nạn Lý Thôi – Quách Dĩ  cũng bị giết (14).
Thuộc hạ của Tào Tháo là Trần Cung và Trương Mạo nhận thấy Tào Tháo quá tàn bạo nên tôn Lã Bố làm minh chủ, giữ chức Thứ sử Duyện Châu và giao 100 ngàn quân chống lại thế lực hùng mạnh của Tào Tháo. Lã Bố lấy Bộc Dương làm bản doanh rồi mang quân đánh chiếm hầu hết các thành trì của Tào Tháo ngoại trừ 3 thành còn trung thành với Tào Tháo là Yên Thành, Đông A và Phạm Huyện, Lã Bố chưa đánh chiếm được. Nhận được hung tin, Tào Tháo liền bỏ Từ Châu mang quân về giải cứu Duyện Châu nhưng mãi đến năm 195 ông mới bình định xong vùng đất trước đây do ông cai quản.
Qua trận đánh quyết định với quân Tào, Đào khiêm rất cảm phục tấm lòng vì nghĩa của Lưu Bị nên ông có ý tiến cử Lưu Bị vào chức vụ Từ Châu Mục thay mình điều hành Từ Châu.
Lưu Bị, một phần biết rõ lực lượng của mình còn yếu không đủ sức chống cự lại lực lượng hùng mạnh của quân Tào và các lực lượng khác đang dòm ngó Từ Châu; một phần vì tính khiêm nhường cố hữu áp dụng không đúng lúc của Lưu Bị nên ông từ chối không tiếp quản Từ Châu và đề nghị Đào Khiêm trao Từ Châu cho Viên Thuật là người có đủ năng lực bảo vệ Từ Châu. Đào Khiêm hỏi ý kiến của Khổng Dung (15) nhưng Khổng Dung không đồng tình với Lưu Bị vì ông cho rằng Viên Thuật không đủ thực lực để giữ Từ Châu khỏi rơi vào vòng xoáy của quân Tào. Cuối cùng ông vẫn không dám nhận, nên Đào Khiêm đề nghị Lưu Bị đem quân đóng ở Tiểu Bái để bảo vệ Từ Châu và ông đã nhận lời.
Năm 194 thời Hán Hiến Đế, Từ Châu Mục Đào Khiêm bị bệnh qua đời. Trần Đăng và nhiều người khác muốn Lưu Bị lên thay nhưng Lưu Bị vẫn không dám nhận trọng trách đó. Cuối cùng, Khổng Dung thuyết phục được Lưu Bị và ông đồng ý tiếp quản Từ châu với chức vụ Từ Châu Mục; và đây là căn cứ đầu tiên của Lưu Bị.
MẤT TỪ CHÂU
Mùa xuân năm 195, Tào Tháo quyết định thay đổi chiến thuật đánh Lã Bố: ông chia quân làm nhiều cánh, dương đông kích tây khiến Lã Bố hoang mang. Một mặt Tào Tháo điều quân đánh Định Đào, Lã Bố vội vàng mang quân đi cứu. Đến mùa hạ, ông lại tấn công Cự Dã. Lữ Bố mang một vạn quân từ Định Đào cứu viện Cự Dã. Tào Tháo bố trí quân mai phục đánh bại Lã Bố trên đường chuyển quân rồi thúc quân chiếm lấy Định Đào. Lữ Bố và Trần Cung rút quân về Đông Mân, Tào Tháo hạ thành Cự Dã. Trong khi Lã Bố hoang mang chưa nghĩ ra cách ứng phó thì Tào Tháo điều quân đánh chiếm các thành trì nhỏ ở Duyện Châu. Cùng đường, Lữ Bố dẫn quân chạy đến Từ Châu theo Lưu Bị. Ông đón tiếp Lã Bố và cho Lã Bố đóng quân ở Tiểu Bái, một quận có tính cách chiến lược thuộc Dự Châu. Đó là một sai lầm vô cùng lớn lao mà sau này Lưu Bị phải trả giá đắt cho cuộc đời làm chính trị của ông.
Năm 196, trong triều đình nhà Hán ở Trường An xảy ra loạn lạc. Hán Hiến Đế trốn khỏi sự kềm kẹp của Lý Thôi – Quách Dĩ chạy về hướng đông. Không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, Tào Tháo đón Hán Hiến Đế đưa về Hứa Xương, lấy danh nghĩa Thiên Tử để sai khiến chư hầu. Sau đó ông nhân danh Hán Hiến Đế phong chức cho Lưu Bị và Lưu Bị tiếp nhận tước vị do Tào Tháo ban phong.
Cùng lúc đó Viên Thuật ở Dương Châu mang quân tấn công Từ Châu. Lưu Bị cử Trương Phi ở lại giữ  Hạ Bì (thủ phủ Từ Châu) còn ông điều quân giao chiến với Viên Thuật ở Thạch Đình thuộc huyện Hoài Âm hơn một tháng chưa phân thắng bại. Nhân lúc hai tướng giữ Hạ Bì là Trương Phi và Tào Báo bất hòa (16), Lã Bố thừa cơ mang quân tập kích Hạ Bì và toàn thắng. Vợ con của Lưu Bị bị Lã Bố bắt. Lưu Bị mang quân trở về định đánh chiếm lại Hạ Bì nhưng bị Lã Bố đánh bại phải lui quân về Quảng Lăng; lại bị Viên Thuật truy kích nên Lưu Bị phải chạy ra Hải Tây. Trong thế cùng, Lưu Bị đành trở về Từ Châu đầu hàng Lã Bố.
Theo Ngụy thư: các tướng dưới quyền Lã Bố cho Lưu Bị là kẻ phản phúc khó dung nên khuyên Lã Bố sớm trừ đi nhưng Lã Bố không nghe. Ông nói riêng với Lưu Bị về chuyện chẳng lành đó. Lưu Bị vô cùng sợ hãi, ông phái người đến xin Lã Bố đóng quân ở Tiểu Bái và Lã Bố chấp thuận. Lã Bố tự xưng là Châu Mục Từ Châu và cử Lưu Bị làm Thứ sử Dự Châu (17). Không ngờ sau này chính ông lại chết vì một lời gièm pha của Lưu Bị.
VIÊN MÔN XẠ KÍCH
Năm 196, bộ tướng của Lã Bố là Hách Manh nghe theo lời xúi giục của Viên Thuật làm phản nhưng cuối cùng Lã Bố dẹp được cuộc nổi loạn đó. Không giết được Lã Bố, Viên Thuật trở mặt làm thân, xin kết thông gia với Lã Bố. Vì tình thế lúc đó không cho phép đánh lại Viên Thuật nên ông nhận lời.Viên Thuật thấy kéo được Lã Bố về phe mình nên ông sai Kỳ Linh mang 30 ngàn quân tấn công Tiểu Bái để diệt trừ Lưu Bị. Trước tình thế nguy ngập, Lưu Bị cầu cứu Lã Bố. Ông chỉ mang 1.000 quân và 200 quân kỵ tới Tiểu Bái để buộc hai bên hoà giải. Lữ Bố sai cắm kích từ xa 150 bước và giao hẹn: nếu ông bắn trúng ngạnh kích thì hai bên phải giảng hoà. Nếu một bên không chịu hòa, ông sẽ theo bên kia đánh lại. Sau đó Lã Bố lùi lại giương cung bắn trúng ngạnh kích. Lưu Bị vô cùng cám ơn ông, còn Kỳ Linh thấy Lã Bố kiêu dũng, không dám làm trái ý phải mang quân về.
Năm 198, lực lượng của Lưu Bị ở Tiểu Bái lên đến hàng vạn quân khiến Lã Bố lo sợ nên ông lại giảng hòa với Viên Thuật và nhận lời đánh Lưu Bị. Ông điều hai tướng Cao Thuận và Trương Liêu mang quân đánh Tiểu Bái. Lưu Bị không chống trả nổi nên bỏ thành và gia quyến chạy về phía tây rồi sai người cầu cứu Tào Tháo. Tào Tháo cử tướng Hạ Hầu Đôn mang quân cứu Lưu Bị. Quân hai bên đụng độ ở Từ Châu. Lã Bố dẫn quân ra đối địch, đánh bại tướng Hạ Hầu Đôn.
HÃM THÀNH HẠ BÌ
Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân cùng Lưu Bị mang quân tiến đánh Từ Châu. Tháng 10 năm đó quân Tào hạ được Bành Thành. Trần Cung khuyên Lã Bố mang quân ra đón đánh địch trước khi quân Tào tiến đến thành Hạ Bì (thủ phủ của Từ Châu) nhưng Lã Bố không nghe, đợi quân Tào đến thành mới giao chiến. Sau đó, quân Tào tiến đến Hạ Bì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến; nhưng sau vài trận giao tranh, Lã Bố thua phải rút vào thành Hạ Bì cố thủ rồi sai sứ cầu viện Viên Thuật và Trương Dương.
Tào Tháo gởi thơ dụ hàng nhưng Trần Cung khuyên ông không nên hàng và hiến kế chia quân chống cự. Quân Tào vây hãm thành Hạ Bì một tháng nhưng không sao hạ được thành. Tào Tháo có ý muốn lui quân nhưng Tuân Du và Quách Gia khuyên ông nên đánh gấp. Tào Tháo theo kế của hai ông, sai quân khơi dòng chảy của sông Nghi Thủy và sông Tứ Thủy đổ nước vào thành Hạ Bì. Thành ngập nước, Lã Bố rút lên lầu Bạch Môn cố thủ, chờ quân cứu viện… nhưng viện binh của Viên Thuật không bao giờ đến (18). Tới bước đường cùng, Lã Bố đưa vợ mình đến nhờ Quan Vũ nói giúp với Tào Tháo…Nhìn người đàn bà đẹp, Tào Tháo ưng ý và giữ lại cho mình nhưng vẫn vây hãm thành Hạ Bì (19). Đúng lúc đó, Trương Dương khởi binh cứu Lã Bố nhưng ông bị tùy tướng của mình là Dương Xú giết chết để đầu hàng Tào Tháo.
Thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành trước kia bị Lã Bố trách phạt nên oán hận liền bất ngờ bắt trói Trần Cung và Cao Thuận rồi mở cửa thành Hạ Bì đầu hàng quân Tào. Tào Tháo cùng Lưu Bị thúc ngựa vào thành. Lã Bố muốn đầu hàng Tào Tháo và ông nhờ Lưu Bị nói giúp nhưng… Lưu Bị quay lưng, ông khuyên Tào Tháo nên giết Lã Bố vì theo ông, Lã Bố là người phản phúc: giết chủ tướng và cha nuôi mình (Đình Nguyên và Đổng Trác). Tào Tháo nghe theo lời Lưu Bị cho hành quyết Lã Bố, người đã ít nhất một lần cứu mạng Lưu Bị (20). Các tướng dưới quyền ông là Trần Cung và Cao Thuận cũng bị chém; chỉ có Trương Liêu đầu hàng Tào Tháo nên không bị giết và sau này trở thành danh tướng nhà Tào Ngụy
CHIẾM LẠI TỪ CHÂU VÀ LY KHAI TÀO THÁO
Tào Tháo và Lưu Bị thu quân về Hứa Xương. Ông không trả lại Từ Châu cho Lưu Bị mà cử Xa Trụ trấn giữ. Tào Tháo phong Lưu Bị làm Tả tướng quân và giữ ông ở lại Hứa Xương để kềm chế.
Việc Tào Tháo khuynh đảo triều đình nhà Hán khiến Quốc cửu Đổng Thừa bất mãn. Năm 199, Đổng Thừa ngầm liên kết với Lưu Bị để chờ cơ hội lật đổ Tào Tháo. Lúc bấy giờ lực lượng của Viên Thuật trong tình trạng sức cùng lực kiệt nên ông bỏ Hoài Nam lên Hà Bắc để nhường ngôi hoàng đế cho anh là Viên Thiệu. Lưu Bị xin Tào Tháo đi đánh Viên Thuật và Tào Tháo chấp thuận. Ông phái Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi đem hơn 1.000 quân chặn đánh Viên Thuật ở Từ Châu. Đây là sai lầm lớn nhất trong cuộc đời làm chính trị của Tào Tháo khi ông sơ xuất phê chuẩn đề nghị của Lưu Bị xin mang quân đi dẹp giặc. Lúc đầu Tào Tháo không để ý đến hậu quả vô cùng tai hại của việc ông cử Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi đi đánh Viên Thuật; ngay khi Đổng Chiêu can vì không muốn cho Lưu Bị rời khỏi Hứa Xương, Tào Tháo cũng chỉ nói ngắn gọn:” Ta đã bằng lòng cho Lưu Bị đi rồi, bây giờ không tiện thay đổi.” Cho tới khi cả Trình Dục cùng Quách Gia đi tìm Tào Tháo và nêu lên được ý then chốt: “Lưu Bị mượn quân, e có ý khác” thì Tào Tháo mới tỉnh ngộ, ông nói với vẻ hối hận:“Muộn rồi! Giờ có đuổi theo cũng không kịp.”
Viên Thuật bị Lưu Bị đánh bại phải quay về và khi đến Giang Đình, cách Thọ Xuân 80 dặm, ông bị bệnh qua đời. Từ Lục, thủ hạ của Viên Thuật đem ngọc tỉ truyền quốc (ấn triện được làm bằng ngọc, tượng trưng cho quyền lực tối cao của các hoàng đế và được lưu truyền qua nhiều triều đại trong lịch sử Trung Quốc) dâng cho Tào Tháo.
Âm mưu lật đổ Tào Tháo của Đổng Thừa ở Hứa Xương bị bại lộ, Đổng Thừa bị Tào Tháo giết cả họ. Nhân cơ hội đánh thắng Viên Thuật và vụ trọng án Đổng Thừa cùng với nhận định của Tào Tháo về con người tiềm ẩn của Lưu Bị (“Nay anh hùng trong thiên hạ chỉ có sứ quân và Tháo này”), ông quyết tâm ra đi và chính thức ly khai Tào Tháo rồi bất ngờ mang quân đánh chiếm Từ Châu, giết Xa Trụ. Năm 200, Lưu Bị bổ nhiệm Quan Vũ làm Thái thú Hạ Bì; Tào Tháo tức giận mang quân đánh gấp Từ Châu. Lưu Bị không chống trả nổi nên bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu (Theo chú giải của Bùi Tùng Chi trong Ngụy thư, Lưu Bị về với Viên Thiệu được cha con Viên Thiệu hết lòng cung kính, trọng vọng). Trương Phi trốn về Nhữ Nam còn Quan Vũ không có đường chạy nên đầu hàng Tào Tháo. Gia quyến của Lưu Bị đều bị Tào Tháo bắt. Từ Châu rơi vào tay Tào Tháo và ông làm chủ địa bàn rộng lớn ở Trung Nguyên; chính thức ở thế đối mặt với lực lượng hùng mạnh của Viên Thiệu.
LIÊN KẾT VỚI TƯỚNG KHĂN VÀNG CUNG ĐÔ Ở NHỮ NAM                                  
Sau trận Diên Tân, Tào Tháo và Viên Thiệu tạm hưu chiến. Lưu Bị nhận thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để chống trả Tào Tháo nên ông xin Viên Thiệu được sang Nhữ Nam để tổ chức du kích đánh sau lưng quân Tào. Viên Thiệu chấp thuận. Quan Vũ ở bên Tào sau khi lập công trả ơn cho Tào Tháo, Quan Vũ cũng trốn đi tìm Lưu Bị và cả hai anh em tái ngộ với Trương Phi tại Nhữ Nam.
Lưu Bị liên kết với tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam. Tào Tháo tự mang đại quân tiến đánh Nhữ Nam và giết chết tướng Cung Đô. Lưu Bị không chống trả nổi nên bỏ chạy về Kinh Châu theo Lưu Biểu và được Lưu Biểu cho trấn giữ ở Tân Dã, một huyện tiền đồn chống quân Tào ở phương Bắc.
“LONG TRUNG ĐỐI” CỦA MƯU THẦN GIA CÁT LƯỢNG  
Tình thế lúc bấy giờ diễn biến khá phức tạp: Tào Tháo đã thống nhất trung nguyên, thanh thế vang dội từ miền bắc đến miền nam. Tôn Quyền ngự trị vùng đất giàu có Giang Đông với địa thế hiểm trở và đã truyền được ba đời vua. Riêng Lưu Bị sau một thời gian dài hơn nửa đời người phấn đấu vẫn chưa có một căn cứ địa nào để từ đó khả dĩ thiết lập được một chính quyền mới, ngoại trừ huyện Tân Dã, nơi Lưu Biểu cho ở nhờ để chống đỡ quân Tào chứ không phải là căn cứ địa của riêng ông.
Tại Tân Dã, Lưu Bị tích cực chiêu nạp hiền tài hầu giúp ông hoàn thành nghiệp bá vương của mình. Qua lời giới thiệu của  Tư Mã Huy và Từ Thứ (21), Lưu Bị ba lần tìm đến Long Trung(nay là Tương Dương, Hồ Bắc) thỉnh giáo Gia Cát Lượng (22), một thiên tài kiệt xuất của thời đại Tam Quốc giúp ông làm cách nào khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán. Hình như Thượng đế tạo ra Khổng Minh Gia Cát Lượng để giúp riêng cho Lưu Bị xây dựng một vương triều mới và…lịch sử bắt đầu chuyển hướng. Lưu Bị tôn Gia Cát Lượng làm Quân sư. Lúc bấy giờ Lưu Bị đã 46 tuổi, còn Gia Cát Lượng mới 26 tuổi . Gia Cát Lượng cùng ông bí mật luận bàn vềchính sách dựng nước và giữ nước. Gia Cát lượng qui hoạch chiến lược cho Lưu Bị:” liên kết với Tôn Quyền, tiếp quản Kinh Châu, chiếm lấy Ích Châu và chống lại Tào Tháo”. Từ đó Lưu Bị coi cuộc luận bàn bí mật đó là tư tưởng chiến lược để thống nhất thiên hạ.
TÀO THÁO VÀO KINH CHÂU 
Mùa xuân năm Kiến An thứ XIII (năm 208), Tôn Quyền thực hiện quy hoạch chiến lược của Lỗ Túc và Cam Ninh đưa quân vào Giang Hạ, phá hủy thành trì, giết tướng Hoàng Tổ (Thái thú Giang Hạ) và giết dân chúng hết sức dã man (Chiến dịch đồ thành). Sau lần đánh phá này, Tôn Quyền có ý muốn chia quân chiếm đóng Giang Hạ, nhưng theo lời khuyên của Trương Chiêu (mưu sĩ của Tôn Quyền), ông bỏ Giang Hạ rút quân về Giang Đông. 
Để tiến đánh Giang Hạ, Tôn Quyền lấy cớ báo thù cho cha (Tôn Kiên bị tên lạc chết trong trận chiến với Hoàng Tổ) nhưng nguyên nhân chính vẫn là Tôn Quyền muốn đánh chiếm Kinh Châu.
Vào tháng bảy năm Kiến An thứ XIII, Tào Tháo đem đại quân đánh Lưu Biểu. Cũng vào thời gian này, Lưu Biểu bi bệnh nặng và qua đời vào tháng tám. Trước lúc lâm chung, Lưu Biểu đã khẩn cầu Lưu Bị tiếp quản Kinh Châu nhưng Lưu Bị khéo léo từ chối. Theo lời chú dẫn Ngụy thư của Bùi Tùng Chi trong Tam Quốc Chí, phần Tiên chủ truyện, Bùi Tùng Chi không thừa nhận việc này vì trong thời gian Lưu Bị đóng quân ở Phàn Thành, hào kiệt Kinh Châu theo về với Lưu Bị ngày càng nhiều nên Lưu Biểu nghi ngờ muốn diệt Lưu Bị để trừ hậu họa. Hơn nữa, từ lâu vợ chồng Lưu Biểu cùng anh em Sái Mạo (anh vợ Lưu Biểu) đã có ý bỏ trưởng lập thứ và chọn Lưu Tông làm người thừa kế; như vậy làm gì có chuyện lúc lâm chung Lưu Biểu khẩn khoản nhường lại Kinh Châu cho Lưu Bị? Vả lại theo Hậu Hán thư, kể từ khi Lưu Biểu bị bệnh nặng, Sái Mạo và đồng bọn đã khống chế Lưu Biểu, không cho Lưu Kỳ gặp mặt cha trước khi chết, làm sao Lưu Bị có khả năng gặp được Lưu Biểu? Tóm lại những chi tiết ca tụng Lưu Bị là người nhân đức trong Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung khi tiếp quản Kinh Châu đều không đúng với lịch sử. 
Lưu Kỳ ra đi chưa được lâu, Lưu Biểu bị bệnh và qua đời; người thay thế tất nhiên là Lưu Tông. Vào thời gian này, đại quân Tào Tháo trên đường tiến vào Kinh Châu. Lúc đó Khoái Việt, Hàn Tung, Phó Huấn đều khuyên Lưu Tông ra hàng Tào Tháo. Lưu Tông cử Tống Trung đến chỗ Lưu Bị để “tuyên chỉ”, lúc đó Lưu Bị đang trấn giữ Phàn Thành. Ông vô cùng kinh hãi cùng Gia Cát Lượng, Từ Thứ chạy về hướng nam. Trên đường tháo chạy còn có vô số nhân sĩ, dân chạy loạn, quân sĩ của Lưu Tông…; tất cả gồm mười mấy vạn người. Bấy giờ có người khuyên Lưu Bị bỏ mặc mọi người, phải nhanh chóng cùng khinh quân đến Giang Lăng. Lưu Bị giải thích:”Muốn làm việc lớn phải lấy dân làm gốc. Nay mọi người theo ta, nỡ lòng nào ta vứt bỏ họ.”Tháng chín Lưu Tông đầu hàng. Tào Tháo cho rằng: “Giang Lăng có tiềm năng về quân sự rất lớn, e Lưu Bị chiếm mất”, nên ông đã thống lãnh năm ngàn kỵ binh tinh nhuệ vượt ba trăm dặm một ngày đêm truy đuổi Lưu Bị.
Quân Tào đuổi kịp quân Lưu Bị tại cầu Trường Bản, Đương Dương: Lưu Bị đành bỏ vợ con chạy xuống phía nam. Triệu Vân ôm đứa trẻ yếu đuối (sau này là Hậu chủ) và bảo vệ Cam phu nhân (mẹ của Hậu chủ) mới thoát nạn. Nhờ có Trương Phi, Lưu Bị mới bảo toàn tính mạng nhưng không có đường thoát vì Tào Tháo đã chặn đường dẫn đến Giang Lăng. Cùng đường, Lưu Bị rẽ sang bến Hán Tân, vừa lúc gặp chiến thuyền của Quan Vũ ở đó, ông qua được sông Miện rồi hội quân với Lưu Kỳ (con trưởng của Lưu Biểu, nguyên là Thái thú Giang Hạ chỉ huy hơn mười ngàn quân) rồi cùng nhau tiến đến Hạ Khẩu (nay là TP. Vũ Hán, Hà Bắc). Tào Tháo tiến vào Giang Lăng.
TRẬN CHIẾN XÍCH BÍCH
Chính sử ghi chép về trận chiến này không nhiều và còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Do vậy trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ tóm lược vài ý chính về trận chiến Xích Bích.
Xich_Bich_1
Mùa đông năm Kiến An thứ XIII (năm 208), sau khi Tào Tháo tiến vào Giang Lăng, ông lập tức xuôi dòng Trường Giang hành quân về hướng đông, bất ngờ đụng độ với quân liên minh Tôn Quyền – Lưu Bị từ Phàn Khẩu ngược dòng lên và trận chiến đẩm máu xảy ra tại Xích Bích. Theo Tam Quốc Chí của Trần Thọ, phần Tiên chủ truyện và Chu Du  truyện kể: thủy quân Tôn Quyền hợp lực với thủy quân Lưu Bị đốt phá hạm thuyền của Tào Tháo tại mặt trận Xích Bích (23). Lúc bấy giờ dịch bệnh bùng phát trong quân Tào, quân sĩ chết rất nhiều cùng nhiều nguyên nhân khác nữa (quân Tào chiến đấu xa xôi, lâu ngày mệt mỏi lại không quen “chiến trường sông nước” và bất ngờ bị liên quân đánh phủ đầu tại khúc sông hẹp) dẫn đến đại quân Tào thất bại và Tào Tháo hạ lệnh lui quân. Ông cùng thủ hạ tháo chạy về hướng ải Hoa Dung xuyên qua vùng đầm lầy lớn phía Bắc hồ Động Đình. Liên quân Tôn Quyền – Lưu Bị truy kích quân Tào đến tận Nam Quận. Kết qủa Tào Tháo phải bỏ Miền Nam rút về Nghiệp Quận để dưỡng quân và bổ sung quân số.
Theo quan điểm của một số học giả và cũng là nhận thức chung của các sử gia Trung Quốc, sở dĩ Tào Tháo bại trận vì ông sai lầm về chiến lược. Nghĩa là ông không xác định rõ mục tiêu chiến lược của mình: Chiếm Kinh Châu hay chiếm Giang Đông? Tiêu diệt Lưu Bị hay tiêu diệt Tôn Quyền? Hoặc cả hai ý trên, tóm lại chiến lược không rõ ràng. Tại sao một người lắm mưu nhiều kế như Tào Tháo lại phạm vào những sai lầm cơ bản như vậy? Nguyên nhân vẫn là tính kiêu ngạo và coi thường đối phương.
Cần nói thêm về chiến thuật (khóa các hạm thuyền vào với nhau, thủy quân lập doanh trại trên bờ) do Tào Tháo tự quyết hay là ý kiến của mưu sĩ nào? Lịch sử không đề cập đến nhưng theo Tam Quốc Chí của Trần Thọ, phần Bàng Thống truyện ghi chép rất rõ ràng:”Bàng Thống không tham dự trận chiến Xích Bích”.
Chiến thắng này đã góp phần củng cố vị thế cho hai chư hầu Ngô, Thục ở hai bên bờ Trường Giang; đồng thời ngăn cản Tào Tháo mở rộng phạm vi quyền lực xuống phía Nam Trung Hoa và tạo cơ sở cho sự hình thành hai nước Thục Hán và Đông Ngô.
TIẾP QUẢN KINH CHÂU và CHIẾM LẤY ÍCH CHÂU
Sau trận chiến Xích Bích, Kinh Châu được chia ba cho hai khối liên minh quân sự Tôn Quyền – Lưu Bị và Tào Tháo. Mục tiêu của cả ba nhà lãnh đạo lúc bấy giờ là chiếm lấy Ích châunhưng cuối cùng Lưu Bị đã giành thắng lợi trong vụ tranh chấp này.
Theo thỏa thuận của các phe tham chiến, Lưu Bị chiếm được một nửa Nam quận và ngay trong năm đó ông lấy xong bốn quận: Vũ Lăng, Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng. Lưu Bị cử Gia Cát Lượng làm Quân sư Trung lang tướng kiêm Tổng đốc ba quận: Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng. Năm sau, Lưu Kỳ nguyên là Thứ sử Kinh Châu (do Lưu Bị dâng biểu tiến cử -tất nhiên trên danh nghĩa- sau khi Tào Tháo thua trận Xích Bích) bị bệnh chết nên mọi người dưới quyền tôn Lưu Bị lên làm Kinh Châu mục, trị sở đặt tại Công An (tên cũ: Du Giang Khẩu).
Tôn Quyền gả em gái duy nhất của mình cho Lưu Bị để tình giao hảo hai họ Tôn – Lưu luôn bền vững (24).Năm Kiến An thứ XVI (năm 211), Tào Tháo ra lệnh Tư Lệ Hiệu úy Chung Do vàChinh Tây hộ quân Hạ Hầu Uyên đem quân đánh Trương Lỗ ở Hán Trung (25). Lưu Chương (26), Thứ sử Ích Châu nghe tin rất lo lắng. Quan Biệt giá Tùng sự Thục quận Trương Tùng đưa ý kiến: “Tào Tháo dụng binh rất giỏi, nếu Tào công có thêm quân và lương của Trương Lỗ, tới đánh Ích Châu thử hỏi ai có thể chống cự nổi?”. “Giờ đây ta chỉ còn dựa vào Lưu Dự Châu (Lưu Bị) là người đồng tộc với tướng quân (Lưu Chương), lại là đối thủ của Tào Tháo và giỏi dụng binh. Chi bằng ta mời ông ta đem quân đánh chiếm Hán Trung. Trương Lỗ thua tất nhiên Ích Châu sẽ hùng mạnh. Tào Tháo có vào Ích Châu cũng chẳng làm gì được.” Kế sách của Trương Tùng bị Hoàng Quyền, Lưu Ba và nhiều người chỉ trích, cụ thể Vương Lụy đã tự tử trước cửa châu để phản đối; nhưng Lưu Chương vẫn cho thực hiện kế sách của Trương Tùng vì ông lo có nội loạn (27). Lưu Chương cử Pháp Chính đi Kinh Châu để liên lạc với Lưu Bị. Đến Kinh Châu, Pháp Chính được Lưu Bị tiếp đãi rất ân cần. Trở về Thành Đô, Pháp Chính và Trương Tùng bí mật bàn cách đón Lưu Bị vào làm chủ Ích Châu. Một trong hai người còn dâng cả bản đồ Ích Châu cho Lưu Bị (Lịch sử ghi không đồng nhất về chi tiết Trương Tùng hay Pháp Chính dâng bản đồ Ích Châu cho Lưu Bị). (28)
Ít lâu sau, Tào Tháo dự định tiến quân đánh Hán Trung. Ích Châu bị uy hiếp. Trương Tùng nhân cơ hội này khuyên Lưu Chương mời Lưu Bị đem quân vào giữ Hán Trung. Lưu Chương cử Pháp Chính dẫn bốn ngàn quân nghênh đón Lưu Bị vào đất Ba Thục. Ông còn lệnh cho Pháp Chính mang theo rất nhiều của cải để làm quà tặng. Pháp Chính gặp Lưu Bị, mật bàn với ông về kế hoạch đánh úp Ích Châu trong đó chính ông và Trương Tùng làm nội ứng. Lưu Bị vẫn còn do dự chưa quyết.                                                                                   
Vào tháng 12 năm Kiến An thứ XVI (năm 211), Lưu Chương bị Trương Lỗ từ Hán Trung uy hiếp nên ông mời Lưu Bị đem quân từ Kinh Châu đến cứu. Lưu Bị để Gia Cát Lượng, Quan Vũ và Trương Phi giữ Kinh Châu, Triệu Vân lo hậu cần; rồi cùng Quân sư Bàng Thống dẫn năm mươi ngàn quân vào Tây Xuyên. Khi Lưu Bị vừa đến Phù Thành (nay là thị trấn Cẩm Dương, Tứ Xuyên), Lưu Chương từ Thành Đô đích thân tới nghênh đón và mở tiệc khoản đãi. Bàng Thống và Pháp Chính kiến nghị Lưu Bị nhân cơ hội ngàn năm có một lần nên giết Lưu Chương (Pháp Chính nói lại ý Trương Tùng), rồi chiếm lấy Tây Xuyên nhưng Lưu Bị cho đó là hành động bất nhân nên ông không chấp nhận. Sau đó Lưu Chương cử Lưu Bị làmHành Đại Tư mã, cấp thêm binh cho Lưu Bị rồi sai ông đem quân đi đánh Trương Lỗ. Lưu Bị hợp binh có hơn ba vạn quân. Ông điều quân đến vùng Gia Manh (nay là vùng biên Quảng Nguyên, Tứ Xuyên) rồi đóng quân ở đó lo thu phục nhân tâm, chờ thời cơ, không tiến đánh Trương Lỗ.
Tháng mười năm Kiến An thứ XVII (năm 212), Tào Tháo đem quân đánh Tôn Quyền nên ông yêu cầu Lưu Bị đến cứu. Lưu Bị liền viết thơ yêu cầu Lưu Chương cấp mười ngàn binh mã với quân trang quân dụng đầy đủ để trở về cứu viện Kinh Châu (lúc đó Quan Vũ đang giữ chức Tổng đốc Kinh Châu) nhưng Lưu Chương chỉ cấp bốn ngàn quân, còn mọi thứ bớt đi phân nửa vì ông đã nghi ngờ hành động của Lưu Bị ở Gia Manh; giờ đây được tin Lưu Bị muốn tiến quân về phía đông nên Lưu Chương lại càng nghi hơn. Trương Tùng ở Thành Đô tưởng thật nên ông vội vàng viết thư khuyên Lưu Bị ở lại. Người anh của Trương Tùng là Trương Túc lúc đó giữ chức Thái thú Quảng Hán sợ liên lụy đến mình nên tố cáo với Lưu Chương và hậu quả là Trương Tùng bị Lưu Chương bắt chém. Kể từ đó mối hiềm khích giữa Lưu Chương và Lưu Bị chính thức vỡ tung. Lưu Chương ra lệnh đóng cửa biên ải, cấm Lưu Bị đi qua cửa quan. Lưu Bị giết tướng Dương Hoài giữ cửa quan Bạch Thủy rồi điều Hoàng Trung và Trác Ưng bí mật dẫn quân quay trở lại đánh Lưu Chương. Lưu Bị đến thẳng Quan Trung giữ vợ con các tướng và binh sĩ làm con tin rồi hợp quân với Hoàng Trung và Trác Ưng tiến đánh Phù Thành. Quân Lưu Chương bại trận nên lui về Miên Trúc. Lưu Chương cử Lý Nghiêm làm Đô đốc tại Miên Trúc nhưng Lý Nghiêm lại dẫn thủ hạ đầu hàng Lưu Bị cho nên quân lực của Lưu Bị càng mạnh hơn. Lưu Bị cử Gia Cát Lượng, Trương Phi, Triệu Vân dẫn binh ngược dòng sông bình định các huyện quanh Miên Trúc. Mùa hạ năm 213, Lưu Bị tiến quân vây hãm Lạc Thành (nay thuộc phía bắc Quảng Hán, Tứ Xuyên) do Lưu Tuần, con của Lưu Chương trấn giữ và gần một năm sau quân Lưu Bị mới hạ được. Năm 214, Lưu Bị tiến quân vào Thành Đô, Lưu Chương đầu hàng vô điều kiện. Lưu Bị làm chủ toàn bộ Ích Châu, tự xưng là Ích Châu Mục và phong Pháp Chính làm Thái thú quận Thục, trực tiếp quản lý Thành Đô.
Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa (Hồi 63), để đánh chiếm Lạc Thành, quân Kinh Châu chia làm hai đường: Bàng Thống cùng Ngụy Diên đi tiên phong tiến theo con đường nhỏ phía nam dẫn tới cửa tây Lạc Thành; còn Lưu Bị và Hoàng Trung tiến quân theo con đường lớn dẫn tới cửa đông Lạc Thành. Riêng Bàng Thống vì chủ quan khinh địch, ông lọt vào ổ phục kích của Trương Nhiệm nên cả người lẫn ngựa đều chết dưới chân đồi Lạc Phượng (29).
Sau trận chiến Xích Bích, Chu Du mất gần một năm nữa mới đánh đuổi được quân Tào ra khỏi Giang Lăng. Sau đó giữa Lưu Bị và Tôn Quyền xảy ra vụ tranh chấp Kinh Châu. Lưu Bị cho rằng Kinh Châu vốn của Lưu Biểu, người anh em đồng tộc với mình. Lưu Biểu chết, người thừa kế phải là Lưu Bị. Nhưng Tôn Quyền quan niệm: Kinh Châu do chính ông đánh chiếm được từ tay Tào Tháo nên Kinh Châu phải thuộc về Đông Ngô. Trước kia Chu Du đã giao cho Lưu Bị cai quản vùng đất phía hữu ngạn Trường Giang nhưng Lưu Bị cảm thấy vùng đất này còn nhỏ hẹp nên rất không vừa ý. Theo chú dẫn Giang Biểu Truyện của Bùi Tùng Chi trong Tam Quốc Chí – Tiên chủ truyện:” Lưu Bị thấy Chu Du nhường ít đất, không đủ để an dân, nên mới đề nghị Tôn Quyền cho mượn mấy quận ở Kinh Châu”. Sau khi Chu Du chết, Lỗ Túc thuyết phục Tôn Quyền giao Giang Lăng cho Lưu Bị (Lịch sử gọi là cho mượn Kinh Châu). Đất mượn của người khác không phải là biện pháp lâu dài vì vậy Lưu Bị tìm cách mở rộng địa bàn và cuối cùng Lưu Bị đã chiếm được Ích Châu.
Lưu Bị lấy xong Ích Châu, Tôn Quyền biết ngay việc lớn của mình đã hỏng. Tôn Quyền cho Lưu Bị là người bội tín, bội nghĩa và cử người đến đòi lại Kinh Châu (Thực tế chỉ là Nam quận và một phần Nam quận là Giang Lăng).  Năm Kiến An thứ XX (năm 215), Tôn Quyền cử Gia Cát Cẩn (anh Gia Cát Lượng) đến gặp Lưu Bị đòi lại Kinh Châu. Lưu Bị không trả, nói:” Hiện ta đang chuẩn bị đánh phá Lương Châu. Chờ khi lấy được Lương Châu, ta sẽ trả lại tất cả các vùng đất Kinh Châu cho các vị”. Tôn Quyền biết Lưu Bị không muốn trả hay không bao giờ trả nữa, nên cử các quan viên đến 3 quận Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng để làm việc nhưng bị Quan Vũ lúc đó là Tổng Đốc Kinh Châu đuổi các quan viên đó ra khỏi biên cảnh. Tôn Quyền tức giận cử Lã Mông tức khắc đem 20 ngàn quân đi lấy 3 quận Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng; đồng thời ra lệnh Lỗ Túc đưa mười ngàn quân vào giữ Ba Khâu(thị trấn Nhạc Dương, Hồ Nam ngày nay) còn mình đóng quân tại Lục Khẩu để chỉ huy. Được tin, Lưu Bị cử Gia Cát Lượng ở lại giữ Thành Đô, còn mình đem 50 ngàn quân về đóng tại Công An; Quan Vũ thống lĩnh 30 ngàn quân đến đóng tại Ích Dương, quyết tử chiến với Tôn Quyền. Trước khi vào trận hai bên có cuộc hội đàm giữa Lỗ Túc và Quan Vũ nhưng không có kết quả. Tháng ba cùng năm, Tào Tháo mang quân tây chinh Trương Lỗ, tháng bảy quân Tào tiến vào Hán Trung, trực tiếp uy hiếp Ích Châu. Lưu Bị hiểu rằng lúc này không phải là lúc trở mặt với Tôn Quyền nên ông cử người đến cầu hòa với Tôn Quyền. Kết quả hai bên đi đến thỏa thuận chia Kinh Châu làm hai phần, lấy sông Tương làm ranh giới: phía đông thuộc về Đông Ngô, phía tây thuộc về Thục Hán. Nam Dương và Tương Dương, Nam Quận vẫn thuộc về Tào Tháo. Như vậy Lưu Bị mất khu vực phía đông sông Tương.
Tóm lại lần tranh chấp này, Tôn Quyền không đòi được Kinh Châu chỉ đón được em gái về nước và tất nhiên Tôn Quyền cùng các tướng dưới quyền ông không hài lòng.
Bản đồ địa danh Ngụy, Ngô Thục thời Tam Quốc.
Bản đồ địa danh Ngụy, Ngô Thục thời Tam Quốc.
Tôn Quyền sau đó tiếp tục muốn củng cố tình thân hữu với Lưu Bị nên sai sứ giả đến xin cầu hôn con gái Quan Vũ cho con trai mình. Quan Vũ không nhận thức được tầm quan trọng của liên minh Tôn – Lưu trong chiến lược dựng và giữ nước của Gia Cát Lượng ở Long Trung; chẳng những ông từ chối mà còn nhục mạ Tôn Quyền. Quan Vũ nói với sứ giả:” Ông về nói với Tôn Quyền, con gái một hổ tướng sao lại gả cho loài chó hèn hạ được!” (Lịch sử Trung Quốc 5000 năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dư Chương, sách dẫn, Tập 2 tr. 33). Từ đó quan hệ giữa Đông Ngô và Lưu Bị trở nên căng thẳng hơn trước. Người duy nhất chủ trương liên minh với Lưu Bị là Lỗ Túc đã qua đời (năm 217). Lã Mông, người chủ trương tiêu diệt Quan Vũ lên thay Lỗ Túc; kể từ đó, Tôn Quyền chủ trương liên hợp với Tào Tháo để diệt nhà Thục Hán.
LÊN NGÔI HÁN TRUNG VƯƠNG
Lưu Bị giải quyết xong vụ tranh chấp Kinh Châu, ông cử Gia Cát Lượng ở lại giữ Thành Đô còn mình và mưu sĩ Pháp Chính đem quân tiến đánh Hán Trung. Tào Tháo nghe tin lập tức ra quân chống trả Lưu Bị. Tào Tháo đích thân đóng quân tại Trường An để chỉ huy mặt trận Hán Trung. Hai bên đánh nhau suốt một năm nhưng không phân thắng bại.  Qua năm thứ hai, trong trận đánh lớn ở Dương Bình Quang, chủ tướng Ngụy,  Hạ Hầu Uyên bị quân Thục giết. Tào Tháo buộc phải rút khỏi Hán Trung, lui quân về Trường An. Năm 219, các tướng tá văn võ Ích Châu tôn Lưu Bị lên làm Hán Trung Vương. Ông phong bốn viên thượng tướng với quân hàm: Tiền tướng quân Quan Vũ, Hữu tướng quân Trương Phi, Tả tướng quân Mã Siêu và Hậu tướng quân Hoàng Trung; Triệu Vân không được phong và ông vẫn giữ quân hàm Dực quân tướng quân (Khi viết Tam Quốc Chí, Trần Thọ đã đưa cả Triệu Vân và Quan Trương Mã Hoàng vào trong một truyện nên có sự ngộ nhận là “Ngũ hổ thượng tướng.”(PHẨM TAM QUỐC của Dịch Trung Thiên, Tập 2, sách dẫn tr. 195).
VÂY HÃM TƯƠNG DƯƠNG và PHÀN THÀNH
Trên đà chiến thắng, Quan Vũ lúc đó đang trấn thủ Kinh Châu tự ý  mang quân Bắc phạt vớingầm ý đồng tình của Lưu Bị.  Tháng 7 năm 219, Quan Vũ giao cho My Phương trấn giữ Giang Lăng; Phó Sĩ Nhân giữ thành Công An còn ông dẫn đại quân tấn công Tương Dương và Phàn Thành (mặt trận Tương Phàn). Ông cho quân vây hãm thành Tương Dương, sau đó vây đánh Phàn Thành. Tào Nhân, tướng giữ Phàn Thành vội cầu cứu Tào Tháo. Ông liền cử hai danh tướng Vu Cấm và Bàng Đức dẫn bảy đạo quân đi cứu viện. Tào Nhân bố trí hai tướng Vu Cấm và Bàng Đức đóng quân ở vùng đất bằng phía bắc Phàn Thành để hỗ trợ chặt chẽ cho cánh quân trong thành, khiến Quan Vũ không cách nào đánh vào thành được.
Tháng tám năm đó, trời mưa bất thường nhiều ngày không dứt, nước sông Hán Thủy dâng cao, tràn ra ngoài đê; Phàn Thành bị nước lũ vây kín, các trại quân Vu Cấm bị dìm trong nước. Quan Vũ thừa cơ dẫn thủy quân tấn công, kết quả Vu Cấm bị bắt và đầu hàng; Bàng Đức bị bắt nhưng không chịu hàng mặc dù Quan Vũ hết lời khuyên. Cuối cùng, Quan Vũ đành phải ra lệnh giết Bàng Đức.
Theo Tam Quốc Chí – Tưởng Tế truyện, lúc Tào Tháo bàn chuyện dời đô cùng các quan thuộc quyền để tránh mũi tấn công của Quan Vũ. Mưu sĩ Tư Mã Ý và Tưởng Tế góp ý với Tào Tháo:” Lưu Bị và Tôn Quyền tuy bề ngoài thân mật nhưng bên trong vẫn ngờ vực lẫn nhau. Lần này Quan Vũ thắng trận, Tôn Quyền chắc chắn không vui. Chúng ta nên cử người đến du thuyết với Tôn Quyền, phong cho ông ta chính thức cai trị miền Giang Đông và hẹn với ông ta cùng đánh Quan Vũ. Như vậy Phàn Thành sẽ được giải vây, khỏi phải bàn tới việc dời đô”.
Tào Tháo thực hiện ý đó, liền phái sứ giả xuống Giang Đông thương lượng với Tôn Quyền. Tôn Quyền bằng lòng ngay và ông viết thư bảo đảm với Tào Tháo sẽ đưa quân đến miền tây tập kích Quan Vũ. Ông còn yêu cầu phía Tào Tháo giữ kín chuyện đó vì sợ Quan Vũ kịp thời chống đỡ. Đổng Chiêu chủ trương phải để lộ “mật tin tập kích Kinh Châu” vì bảo mật có lợi cho phía Tôn Quyền nhưng để lộ mật tin có lợi cho phía Tào Tháo (Tam Quốc Chí – Đổng Chiêu truyện).
Lúc đó Tào Tháo đã phái Từ Hoảng điều viện binh đến Phàn Thành. Ông lệnh cho Từ Hoảng sao thư của Tôn Quyền thành nhiều bản với nội dung:  “Quân Tào và quân Tôn Quyền đánh kẹp từ hai phía: quân Quan Vũ trước sau đều có địch” rồi cho quân buộc thư vào tên, bắn vô doanh trại quân Quan Vũ đồng thời bắn tin vào Phàn Thành để quân thủ thành biết tin tức.
Việc làm này khiến Quan Vũ do dự mặc dầu ông không hoàn toàn tin vào tính xác thực của bức thư. Về phía quân thủ thành, khi nghe tin, tinh thần quyết tâm giữ thành của quân sĩ tăng cao, đúng như Đổng Chiêu dự đoán. 
QUÂN TÔN QUYỀN TẬP KÍCH NAM QUẬN
Tào Tháo dự liệu tình hình hoàn toàn chính xác. Quan Vũ do dự. Tôn Quyền không những không do dự mà hành động mau lẹ, dứt khoát và có kế hoạch tỉ mỉ. Theo Tam Quốc Chí – Lã Mông truyện: Sau khi Lã Mông phụng mệnh đến Tầm Dương (nay ở tây nam Hoàng Mai, Hồ Bắc) nhằm đánh lừa Quan Vũ. Ông cho ngụy trang toàn bộ thuyền chiến thành thuyền buôn, chọn binh sĩ tinh nhuệ giấu trong khoan thuyền và binh lính chèo thuyền đều mặc quần áo trắng giả thương nhân rồi cho thuyền tiến sang bờ bắc. Đến nơi, quân canh của Thục tưởng là thuyền buôn nên cho phép họ ghé vào bờ. Khi màn đêm buông xuống, quân ẩn bên trong khoang thuyền bí mật tiến chiếm các lầu canh, bắt giữ gần như toàn bộ quân của Quan Vũ ở bờ bắc.                       
Quan Vũ vốn yêu quí binh sĩ nhưng lại coi thường các sĩ phu. Do vậy hai tướng My Phương và Phó Sĩ Nhân bất mãn Quan Vũ. Ông ra trận, yêu cầu hai tướng phải cung cấp quân lương kịp thời và đầy đủ, nhưng vì nhiều lý do khách quan, họ không thể hoàn thành nhiệm vụ nên bị Quan Vũ nhục mạ và hăm dọa sẽ trừng trị. Nhân cơ hội Lã Mông bất ngờ kéo quân đánh chiếm Nam Quận, cả hai tướng vừa bất mãn vừa khiếp sợ sẽ bị Quan Vũ trách phạt nên hai ông đầu hàng, dâng Giang Lăng và thành Công An cho Tôn Quyền.
THUA TRẬN MẠCH THÀNH.
Quan Vũ nhận được tin Nam Quận thất thủ, ông bàng hoàng…định quay về nhưng tất cả đều đã muộn; Lã Mông đã giành được lòng người Nam Quận. Lúc đó, Từ Hoảng thay đổi chiến thuật, dương đông kích tây; Quan Vũ mắc mưu nên bị thua trận. Ông hạ lệnh giải vây Phàn Thành, quân sĩ rút lui trong tình trạng hoảng loạn, rơi xuống sông Hán Thủy chết rất nhiều. Quan Vũ chạy về hướng Mạch Thành. Đến nơi ông mới biết tin tướng Đông Ngô là Lục Tốn đã đánh chiếm Nghi Đô (Thái thú Phàn Hữu bỏ chạy). Trong lúc ở Mạch Thành, Quan Vũ chờ viện binh thì Mạnh Đạt và Lưu Phong án binh bất động không đến cứu. Tháng chạp năm 219, Tôn Quyền sai người dụ hàng. Trong tình thế bị quân Ngô truy kích, một mặt Quan Vũ cho quân lính trong thành Mạch Thành treo cờ trắng giả hàng, một mặt ông dẫn quân chạy lên phía tây bắc hướng đến Ích Châu hoặc Hán Trung (địa bàn của Lưu Bị). Trên đường tháo chạy, quân sĩ bỏ trốn rất nhiều. Cuối cùng còn lại hơn mười quân khinh kỵ cùng ông chạy tới Chương Hương (phía đông bắc huyện Đương Dương, Hồ Bắc ngày nay) thì bị bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung chặn đường bắt (Tam Quốc Chí – Ngô chủ truyện). Vì không chịu khuất phục Tôn Quyền nên Quan Vũ và con là Quan Bình cùng Đô đốc Triệu Lụy bị hành quyết tại Lâm Thư (tây bắc huyện Viễn An, Hồ Bắc ngày nay). Tôn Quyền sai người mang đầu Quan Vũ nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo không mang đầu của Quan Vũ đi bêu mà ra lệnh làm lễ tang rất trọng thể, theo đúng nghi thức an táng chư hầu.
“Các nhà nghiên cứu cho rằng: Tào Tháo đã từng phụ nhiều người nhưng chưa một lần phụ Quan Vũ (30). Mặt khác việc làm của Tào Tháo còn mang một ý nghĩa chính trị nữa: Tôn Quyền nộp đầu Quan Vũ cho Tào Tháo là muốn thiên hạ biết rằng ông giết Quan Vũ chẳng qua theo lệnh của Tào Tháo và việc làm này khiến Lưu Bị sẽ chĩa mũi nhọn về phía Tào; nhưng Tào Tháo đã ra lệnh an táng thủ cấp của Quan Vũ rất trọng thể và như vậy ông đã gởi một thông điệp ngược lại: “Tôn Quyền tự ý giết Quan Vũ”. Do đó Tào Tháo đã giải tỏa được mối hiềm nghi của mọi người và dễ dàng lái được mũi nhọn của Lưu Bị quay về phía Tôn Quyền” (31).

Như chúng ta biết, bất luận vì lí do gì Quan Vũ mất tất nhiên Kinh Châu mất. Đây là tổn thất vô cùng lớn lao bên phía Lưu Bị. Vậy ai là người chịu trách nhiệm cho lần thất bại này? Mặc dầu không có tài liệu nào khẳng định Lưu Bị phát động cuộc chiến Tương Phàn nhưng ở địa vị của ông phải gánh lấy trách nhiệm chủ yếu bởi vì trong cuộc chiến, chính ông và Gia Cát Lượng không có một biện pháp ứng cứu kịp thời nào khi Quan Vũ thua trận.
Theo sử gia Hà Tư Toàn:” Quan Vũ tấn công Tương Dương, Phàn Thành gần như không bàn bạc trước với Lưu Bị và Gia Cát Lượng”(32)Thực vậy, trong Tam Quốc Chí không hề thấy có một gợi ý hay một mệnh lệnh nào của Lưu Bị để Quan Vũ tấn công Tương Dương và Phàn Thành. Sử sách cũng không ghi lại bất cứ một phản đối nào của Lưu Bị về trận chiến này. Cho nên chỉ có thể giải thích là Quan Vũ tự ý  phát động cuộc chiến Tương Phàn với ngầm ý tán thành của Lưu Bị. 
Tóm lại trong cuộc chiến Tương Phàn, Quan Vũ chịu trách nhiệm trực tiếp; Lưu Bị chịu trách nhiệm của người lãnh đạo. Gia Cát lượng không chịu trách nhiệm vì nhiệm vụ chính của ông là hành chánh, không liên quan đến quân sự.
DI LĂNG: TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH 
                      
Mùa hạ năm CN 221, vừa lên ngôi hoàng đế, Lưu Bị nôn nóng muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm này, để rửa mối thù cho Quan Vũ, vị tướng yêu quý nhất của Lưu Bị bị quân Đông Ngô sát hại; ông tuyên bố tuyệt giao với Đông Ngô, dồn mọi nỗ lực cho cuộc chiến báo thù và đích thân mang 75.000 quân sang đánh Đông Ngô. 
Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược “Liên minh chống Tào” của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng ở cương vị Thừa tướng, ông không can ngăn được Lưu Bị nên đã dẫn đến kết quả thua trận Di Lăng, Khiếu Đình (gọi tắt: trận chiến Di Lăng).Vài ngày trước khi Lưu Bị cất quân, một vị tướng yêu quý khác của Lưu Bị là Trương Phi bị tùy tướng của mình sát hại rồi cắt lấy thủ cấp chạy sang hàng Đông Ngô. Hai sự kiện quá đau lòng khiến ông mất hết tự chủ và quyết tâm hơn khi quyết định mang đại quân tiến đánh Đông Ngô. Tất cả các tướng lãnh và binh lính của nhà Thục được động viên cho cuộc chiến báo thù, ngoại trừ Gia Cát Lượng và Triệu Vân (33) cùng những người phản đối cuộc chiến đều bị Lưu Bị ra lệnh bỏ lại hậu phương.
Tôn Quyền thấy Lưu Bị ra quân lần này thế lực rất mạnh, nên ông cử sứ giả sang gặp Lưu Bị xin hòa nhưng Lưu Bị thẳng thừng cự tuyệt (CN năm 222). Tôn Quyền biết không còn hy vọng giảng hoà, liền cử tướng trẻ Lục Tốn làm Đại đô đốc thống lãnh 50.000 quân chống lại quân Thục.
Chỉ sau mấy tháng ra quân, Lưu Bị đã tiến sâu vào lãnh thổ của Đông Ngô. Trong khi Đại đô đốc Lục Tốn ra lệnh toàn quân lùi sâu về phía sau, nhường hàng mấy trăm dặm sườn núi cao ngất cho Lưu Bị. Từ Tỉ Qui, Lưu Bị tiếp tục đánh gấp về hướng đôngBiên tướng quânHoàng Quyền vội can Lưu Bị: “Quân Đông Ngô xưa nay chiến đấu rất dũng mãnh, xin hoàng thượng chớ coi thường chúng. Quân ta thuận dòng sông, tiến quân dễ nhưng lui quân rất khó. Vậy xin để tiểu tướng đi trước mở đường, hoàng thượng ở phía sau tiếp ứng. Như vậy cuộc hành quân sẽ thuận lợi và an toàn hơn.” Lưu Bị nhất định không chịu nghe theo đề nghị của Hoàng Quyền. Ông ra lệnh Hoàng Quyền đóng quân giữ Giang Bắc để phòng quân Tào; còn mình dẫn quân dọc theo bờ nam, vượt suối băng rừng  tiến đến Khiếu Đình (Tam Quốc Chí – Hoàng Quyền truyện). Đến đây bị phòng tuyến vững chắc của quân Đông Ngô ngăn chặn, Lưu Bị không tiến quân được nữa. Suốt trong nhiều tháng trời, quân Thục không có cơ hội giao chiến với quân Đông Ngô. Thêm vào đó, đường vận chuyển lương thực khó khăn, lại thêm thời tiết nóng bức, quân sĩ mệt mỏi, thiếu lương thực; do vậy tinh thần chiến đấu của quân Thục ngày càng sa sút… Lúc bấy giờ Lục Tốn mới hạ lệnh phản công. Biết Lưu Bị không có kinh nghiệm dùng binh: thay vì cho thủy quân và lục quân cùng tiến đánh, ông bỏ qua điều kiện thuận lợi này, lại cho đóng quân nơi tử địa (Lưu Bị cho thủy quân lên bờ lập vô số những doanh trại san sát bên nhau hàng bảy trăm dặm xuyên qua rừng núi từ huyện Vu đến Di Lăng), nên Lục Tốn dùng chiến thuật hỏa công thiêu rụi hơn bốn mươi doanh trại của Lưu Bị. Không kịp ứng phó trước tình thế bất lợi của quân Thục, Lưu Bị cùng quân sĩ tháo chạy lên núi Mã Yên. Lục Tốn ra lệnh các cánh quân Đông Ngô áp sát từ bốn phía rồi xông lên tấn công mãnh liệt. Quân Thục “như băng tan, núi lở, quân chết hàng mấy vạn”(34). Dưới đồng bằng và trên mặt sông, thi thể quân lính nằm la liệt và trôi nổi thật khủng khiếp. Đến đêm, Lưu Bị dẫn tàn binh bại tướng mở đường máu, phá vòng vây chạy về phía tây. Quân Đông Ngô đuổi sát phía sau. Nhờ các kho trạm dọc đường, quân Thục đem hết xe cộ, khôi giáp ra làm vật cản đường truy kích của quân Đông Ngô, Lưu Bị và bại tướng mới chạy thoát được về huyện Vu, sau đó chạy về thành Bạch Đế (Tam Quốc Chí – Lục Tốn truyện). 
Trận chiến này, quân Thục gần như bị quân Đông Ngô tiêu diệt hoàn toàn. Toàn bộ thuyền bè, vật tư, quân trang quân dụng phút chốc rơi vào tay quân Đông Ngô.
Sau thất bại thảm hại tại mặt trận Di Lăng, tháng tư năm sau (CN năm 223), Lưu Bị bị bệnh và qua đời tại cung Vĩnh An, thành Bạch Đế (phía đông Phụng Tiết, Trùng Khánh ngày nay), hưởng thọ 62 tuổi. Ông được truy tôn: Hán Chiêu Liệt Hoàng Đế. Thế tử Lưu Thiện nối ngôi năm 16 tuổi (Hán Hậu Chủ); Thừa tướng Gia Cát Lượng phụ chính, Thượng thư lệnh Lý Nghiêm làm phó.
“Vì sao Lưu Bị phải đông chinh? Một số người nói vì muốn báo thù cho Quan Vũ. Tam Quốc Chí – Pháp Chính truyện cũng nói “Rửa nhục cho Quan Vũ” hoặc vì tức giận. Nói vậy là không đúng. Tam Quốc sử thoại của ngài Lã Tư Miễn nói: “Báo thù thay cho nghĩa đệ” rõ ràng là nói đùa và “đoàn quân Lưu Bị là đoàn quân phẫn nộ”. Cũng chưa hẳn là vậy. Tôi (tác giả PHẨM TAM QUỐC) thấy ngài Lã nói có lý. Vì sao?
 1.- Con người kiên định, khó lay chuyển như Lưu Bị sẽ không làm việc theo cảm tính.
 2.- Sau khi Quan Vũ bị hại, Lưu Bị không tỏ ra đau đớn lắm hoặc đập bàn tức giận mà đang mãi mê với việc xưng đế của mình, cũng không kịp phong hầu cho Quan Vũ. Năm Cảnh Diệu thứ III (năm 260), Hậu chủ Lưu Thiền mới truy phong Quan Vũ là Tráng Mâu Hầu.
 3.- Lúc Lưu Bị ra quân chừng nửa năm sau khi Quan Vũ mất, như vậy đâu phải là sự rung động của tình cảm? Chỉ có thể nói là ông đã hành động theo phương châm đã định” (PHẨM TAM QUỐC của Dịch Trung Thiên Tập 2, sách dẫn tr.197 – 198 ).
Quan Vũ tự ý mang quân đánh Tương Phàn, Lưu Bị chinh phạt Đông Ngô; cả hai trận chiến đều không theo quy hoạch chiến lược (Long Trung đối) của Gia Cát Lượng nhưng tại sao ông không nói một lời nào?  Theo Dịch Trung Thiên:“Có thể Gia Cát Lượng không muốn mất Kinh Châu hoặc mang tâm lý may rủi trong trận chiến Khiếu Đình. Nhưng cũng không thể loại bỏ một khả năng nữa: biết nhưng không nói vì có nói cũng chẳng có tác dụng gì, chi bằng không nói” (Dịch Trung Thiên, sách dẫn tr. 223). 
Thực vậy, theo Tam Quốc Chí – Pháp Chính truyện: Sau khi Lưu Bị bại trận ở Di Lăng, Gia Cát Lượng thở dài nói:” Nếu Pháp Chính còn, chắc chắn ông sẽ ngăn được hoàng thượng đông chinh…” Điều đó chứng tỏ rằng Lưu Bị chỉ nghe theo lời Pháp Chính (cả hai phương diện: mưu trí và tình cảm); cho nên nếu Gia Cát Lượng có khuyên cũng vô ích. 
Dưới ngòi bút của La Quán Trung, Lưu Bị là một vị vua nhân từ, tính tình điềm đạm ít nói; luôn lấy nhân nghĩa làm trọng. Mọi công việc liên quan đến quân sự, phần lớn tùy thuộc vào các tướng thân cận quyết định. Nhưng thực ra, qua bao nhiêu trận đánh giành thắng lợi(thắng ít, bại nhiều) đều do Lưu Bị quyết đoán và tự ông cầm quân ra chiến trường giao tranh với địch. Mặc dầu có nhiều quân sư đại tài như Gia Cát Lượng, Bàng Thống, Pháp Chính bày mưu tính kế nhưng ông mới là người quyết định sau cùng. Ông không vội vã chấp thuận một sách lược nào cho dù sách lược đó mang lại cho ông kết quả tốt nhưng trái với đạo đức và lương tâm. Đó là bản chất cố hữu của Lưu Bị mà chính Tào Tháo cũng phải nễ phục.
Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của Lưu Bị theo chính sử, ta thấy ông là nhà lãnh đạo chính trị khôn ngoan sáng suốt. Tào Tháo là người có nhận xét về ông rất chính xác:” Nay anh hùng trong thiên hạ chỉ có sứ quân và Tháo này!”  Câu nói trên đã được ghi vào sử sách. 
Quách Gia, mưu sĩ xuất sắc nhất của Tào Tháo và là một thiên tài quân sự (lúc làm quân sư cho Tào Tháo, ông mới 27 tuổi và đã giúp Tào Tháo thống nhất Miền Bắc Trung Quốc). Ông hết mực trung thành, tận tụy phục vụ cho Tào Tháo đến cuối cuộc đời (chết năm 37 tuổi). Quách Gia xuất sắc nhìn người không chỉ nhìn rõ kẻ thù mà ông còn nhìn rõ người mà mình phục vụ nữa. Với Lưu Bị trong thời gian sống bên Tào Tháo, dù có che đậy khéo đến đâu cũng không thể qua mặt được Quách Gia. Thực vậy, Ngụy thư viết: Có người thưa với Tào Tháo:“Lưu Bị có chí anh hùng, nên sớm giết đi để trừ hậu họa.” Tào Tháo hỏi ý kiến Quách Gia, ông nói ngay:“Nay minh công cầm bảo kiếm khởi nghĩa để trừ bạo yên dân, tất nhiên minh công phải nhờ vào sự trung thành và tín nghĩa. Được như vậy vẫn còn sợ không mời được anh hùng hào kiệt trong thiên hạ đến với chúng ta. Lúc này Lưu Bị là anh hùng trong thiên hạ hết đường lui, đến nhờ minh công lại bị minh công giết. Vậy còn ai muốn theo minh công để bình định thiên hạ nữa đây? Giết một người để mất hết hy vọng của bốn biển, điều đó nên suy nghĩ kỷ.” Nói tóm lại, Quách Gia chủ trương không nên giết Lưu Bị. Không lâu sau đó, Tào Tháo cử Lưu Bị cùng với Quan Vũ và Trương Phi mang 1.000 quân chặn đánh Viên Thuật ở Từ Châu. Ông cùng Trình Dục đi tìm Tào Tháo để ngăn chặn không cho Lưu Bị ra quân bởi ông biết Lưu Bị lần này ra đi không bao giờ trở lại. Ý của Quách Gia là Tào Tháo phải giam lỏng Lưu Bị nhưng không hiểu vì lý do gì, Tào Tháo lại không hiểu ý Quách Gia. Có thể đây là vấn đề quá nhạy cảm nên Quách Gia không nói rõ ý của mình. Đến khi biết Lưu Bị công khai phản bội, Tào Tháo mới nói:“Hận là ta đã không nghe theo lời khuyên của Quách Gia!” 

Lưu Bị còn là nhà lãnh đạo quân sự tầm cỡ. Tài cầm quân của ông tuy không xuất sắc bằng Tào Tháo nhưng cũng đủ làm cho đối phương phải kiêng dè; hơn nữa chính ông đã trực tiếp chỉ huy ngoài mặt trận nên có nhiều trải nghiệm về trận mạc. Lưu Bị đã tập hợp được nhiều tướng tài ba cùng với sự cống hiến không mệt mỏi của hai vị quân sư lừng danh Gia Cát Lượng, Bàng Thống và nhà chính khách tài danh Pháp Chính đã giúp ông chiếm được Kinh Châu và vùng đất rộng lớn Ích Châu (Ba Thục) để có một vị thế khá vững chắc vào thời đại Tam Quốc. Lưu Bị còn là nhà chính trị nhạy cảm, biết phân biệt đâu là chiến lược đúng phải theo đuổi để hoàn thành hoài bão mà ông đã ấp ủ từ thời còn trẻ (Chiến lược do KhổngMinh Gia Cát Lượng đề nghị ở Long Trung) và đâu là chiến thuật cần phải tránh  cho dùchiến thuật đó nhanh chóng mang đến cho ông nhiều điều lợi (từ chối giết Lưu Chương và tập kích Ích Châu theo đề nghị của Pháp Chính và Bàng Thống).
Với tài chinh phục lòng người, Lưu Bị đã thu nạp nhiều người tài giỏi: Quan Vũ, Trương Phi, Khổng Minh Gia Cát Lượng, Bàng Thống, Pháp Chính, rồi sau này có Khương Duy, học trò của Gia Cát Lượng và những người này đã trung thành, tận tụy và hết lòng sống vì ông cho cho đến cuối cuộc đời. Ngược lại nhà Tào Ngụy hiếm có những trung thần như vậy và thay vào đó là những người chống đối (Khổng Dung, Tuân Úc, Thôi Diễm, Dương Tu…), những cuộc bạo loạn xảy ra sau khi Tào Tháo qua đời; tiêu biểu là cuộc nổi loạn của cha con Tư Mã Ý giết vua Ngụy tiếm ngôi.
Nhiều ý kiến cho rằng Lưu Bị là nhà lãnh đạo biết nắm lấy thời cơ để hoàn thành tham vọng của mình cho dù nhiều sự kiện ông đã hành xử không thích hợp với thái độ của một nhà lãnh đạo gương mẫu.  
Sau khi Lã Bố bị Tào Tháo đánh đuổi, ông chạy qua nương  nhờ Lưu Bị và được Lưu Bị cử Lã Bố đóng quân ở Tiểu Bái. Không lâu sau đó, Lã Bố đánh úp Từ Châu, Lưu Bị chống trả không nổi phải bỏ Từ Châu chạy về Quảng Lăng lại bị Viên Thiệu truy kích; cùng đường Lưu Bị phải quay lại Từ Châu đầu hàng Lã Bố. Lưu Bị được Lã Bố dung nạp và cứu mạng ít nhất một lần nhưng khi Lã Bố ở bước đường cùng, Lưu Bị lại đứng về phe Tào Tháo và dùng lời trái với đạo đức và lẽ phải (vì Lã Bố đã xin đầu hàng) để giết chết ân nhân mình (!) hay đó chỉ là lời của một vị lãnh đạo vương quyền muốn trừ mối họa về sau? Có thể đúng, vì tất cả chính quyền dưới thời Tam Quốc đều là chính quyền chuyên chế mà chính quyền chuyên chế thì không kể đến đạo lý. Lịch sử đã chứng minh điều đó; cho nên yếu tố an toàn cho chế độ vẫn phải được tính trước.
Về sau, Lưu Bị ly khai Tào Tháo theo Viên Thiệu rồi lại bỏ Viên Thiệu đầu quân Lưu Biểu. Sau trận đại thắng ở mặt trận Xích Bích, nắm lấy cơ hội, Lưu Bị bất ngờ đánh chiếm Kinh Châu rồi phong Lưu Kỳ làm Thứ sử bù nhìn Kinh Châu. Ông còn quay lưng với Lưu Chương, đánh chiếm khu vực rộng lớn Ích Châu (Ba Thục) rồi tự xưng đế và lập ra nhà Thục Hán. Những hành động đó đâu phải người tài trí nào cũng làm được mà phải công nhận rằng Lưu Bị là một chính trị gia có thực tài và ông đã xây dựng một vương quốc độc lập từ hai bàn tay trắng.
Nhưng xét cho cùng về đức độ, Lưu Bị cũng không hơn Tào Tháo bởi cả hai đều là những nhân vật cường quyền, không muốn người khác đưa ra những ý kiến ngăn cản chính sách, đường lối chính trị, cương lĩnh chính trị của mình cho dù cách thực hiện các sách lược đó không đưa đến kết quả tốt. Nhiều sự kiện lịch sử sau khi Lưu Bị lên ngôi đã chứng minh nhận định đó: Chiến dịch Đông chinh do ông phát động bị Triệu Vân và Tần Mật phản đối, việcxưng đế của Lưu Bị cũng có nhiều người không tán thành như Phí Thi, Ung Mậu, Lưu Ba. Hậu quả: Đại tướng Triệu Vân không còn được Lưu Bị tín nhiệm nữa (Triệu Vân không được tham gia chiến dịch Đông chinh), Tần Mật bị nhốt vào ngục (về sau được tha), Phí Thi bị giáng chức, Ung Mậu bị giết. Riêng Thượng thư lệnh Lưu Ba sợ bị nghi ngờ, ông luôn giữ thái độ im lặng, không dám gặp riêng ai hoặc nói điều gì nếu không phải việc công.
Lại có thức giả cho rằng:” Lưu Bị lấy nhân nghĩa làm trọng chỉ là chiêu bài mị dân và qua thân phận của người em kết nghĩa Quan Vũ, hậu thế thấy rõ ngọn cờ giả nhân giả nghĩa của Lưu Bị và nhất là sau khi lên ngôi, ông có thực lòng còn coi Quan Vũ là người em kết nghĩa ngày nào nữa không?”
Đây là một cuộc khủng hoảng thầm lặng. Lý do chủ yếu là vì nền chính trị cổ đại Trung Quốc không để lại đầy đủ hoặc cố tình che giấu những sự kiện lịch sử cơ bản đã xảy ra dưới vương triều Thục Hán, bởi vậy hậu thế không thể căn cứ vào đó để nhận xét vấn đề một cách chuẩn xác và công bằng mà chỉ suy đoán cho dù những suy đoán có sức thuyết phục nhất cũng khó thuyết phục được nhiều người chấp nhận. Do đó đã gây ra những xung đột ngấm ngầm hay ít nữa cũng tiềm ẩn trong tư tưởng của mỗi người khi đọc tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, nhất là những mẫu chuyện hư cấu không có trong chính sử, đôi lúc còn làm người đọc hiểu sai về chính sử. Do vậy vào những dịp cuối tuần nhàn rỗi, ta thử phân tích nhận xét trên có quá nghiêm khắc lắm không?
                                                     
                                          Đặng Thành, mùa thu 2008
Chú thích:
(1) Tào Phi cướp ngôi nhà Hán xưng đế ở Lạc Dương năm 220 lập ra nhà Tào Ngụy.
(2) Tôn Hạo hay Đông Ngô Mạt Đế là vị vua cuối cùng của nhà Đông Ngô bị Tấn Vũ Đế bắt sống năm 280.
(3) Trần Thọ (233 – 297) người ở quận Ba Tây (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc), trước làm quan trong triều đình Thục Hán, sau khi Thục Hán diệt vong, ông sang làm quan cho nhà Tây Tấn. Ông là tác giả của bộ chính sử Tam Quốc Chí, một trong 24 bộ chính sử nổi tiếng của Trung Quốc. Khi viết Tam Quốc Chí, ông đã căn cứ vào nhiều sử liệu như Ngụy Thư của Vương Thẩm, Ngụy Lược của Ngư Hoạn, Ngô Thư của Vi Chiêu…
Lúc đầu gồm 3 tác phẩm: Ngụy Quốc Chí, Thục Quốc Chí và Ngô Quốc Chí, đến năm Hàm Bình thứ 6 thời Bắc Tống (năm 1003) hợp lại thành một tác phẩm duy nhất lấy tên Tam Quốc Chí.
(4) Bộ Nhị Thập Tứ Sử là tuyển tập các cuốn sách sử Trung Quốc bao quát giai đoạn lịch sử từ năm 3000 TCN tới thời nhà Minh vào thế kỷ 17. Toàn bộ có 3. 213 tập và khoảng 40 triệu chữ. Bộ Nhị Thập Tứ Sử này được coi là một nguồn dữ liệu chính xác về truyền thống lịch sử và văn hóa Trung Quốc; và đã được sử dụng trong nghiên cứu về văn học, nghệ thuật, âm nhạc, khoa học, quân sự, địa lý, dân tộc và nhiều chủ đề khác (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Phần Nhị Thập Tứ Sử).
(5) Tư Trị Thông Giám là một tác phẩm sử liệu quan trọng của Trung Quốc được viết theo thứ tự sự kiện lịch sử đã xảy ra trong một giai đoạn lịch sử dài 1362 năm từ năm 403 TCN (thời Chiến Quốc) đến năm 959 (hết thời Hậu Chu). Toàn bộ tác phẩm có 294 quyển với khoảng 3 triệu từ.
Tư Mã Quang (chủ biên) và nhiều tác giả viết Tư Trị Thông Giám nhằm mục đích phục vụ sự thống trị của triều đình nhà Tống nên nội dung mang màu sắc chính trị. Do vậy Tư Trị Thông Giám có thể được gọi làsử chính trị. Tác phẩm cũng đề cập đến nhiều lãnh vực: xã hội, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Ngoài công việc chủ yếu ghi chép các sự kiện lịch sử, Tư Mã Quang còn đưa ra những bình luận về các sự kiện đó. Về giá trị, tác phẩm được đánh giá rất cao và coi Tư Trị Thông Giám là một kiệt tác của nền sử học Trung Quốc.
(6) Theo thống kê của một số học giả, thì số tư liệu mà Bùi Tùng Chi dùng để chú giải Tam Quốc Chí có khoảng 240 loại, gấp 3 lần so với nguyên bản Tam Quốc Chí của Trần Thọ. Tuy nhiên theo học giả Mã Niệm Tổ thì số tư liệu mà Bùi Tùng Chi sử dụng chỉ có 203 loại. Hiện nay, theo thống kê bản hiệu đính Tam Quốc Chí tại Trung Hoa thư cục đã phát hiện phần chính văn của Trần Thọ có 366.657 chữ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi có 320.799 chữ.Tống Văn Đế đương thời gọi công việc chú thích của Bùi Tùng Chi là “bất hủ”. Các sử gia đời sau như Tư Mã Quang (thời Bắc Tống) khi biên soạn Tự Trị Thông Giám đã tổng hợp các truyện ký trong Tam quốc chí của Trần Thọ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi để miêu tảtrận chiến Xích Bích. Bản Tam quốc chí do Bùi Tùng Chi chú thích là bản thông dụng nhất hiện nay, còn gọi là Trần chí, Bùi chú.
(7) Lưu Thắng là con của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. 
(8) Thiên hạ tức đế quốc Trung Hoa cổ gồm 9 châu: Thanh Châu, U Châu, Từ Châu, Ký Châu, Kinh Châu, Dương Châu, Duyện Châu, Dự Châu và Ích Châu. Dưới mỗi châu có quận và huyện.
(9)Quan Vũ (關羽, ? – 220), cũng được gọi là Quan Công (關公), tự là Vân Trường hay Trường Sinh (長生), là một vị tướng quân đội trong thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán với vị hoàng đế đầu tiên là Lưu Bị. Ông cũng là người đứng đầu trong số 4 thượng tướng của nhà Thục Hán, gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Hoàng Trung và Mã Siêu.

(10) An Hỷ úy là huyện úy huyện An Hỷ (nay là thị trấn Định Châu, Hà Bắc) tương đương với chức Phó Cục Trưởng cục công an ở huyện. (“Phẩm Tam Quốc” của Dịch Trung Thiên, tập 1, NXB Công an Nhân dân 2010, tr. 243).
(11)”Kể chuyện Tam Quốc” của Lê Đông Phương. NXB Đà Nẳng 2007, tr.87 – 88.
(12) Thực ra Đào Khiêm chỉ giao du để lừa Khuyết Tuyên. Sau này Đào Khiêm mang quân đánh và giết chết Khuyết Tuyên. (“Kể chuyện Tần Hán” của Lê Đông Phương và Vương Tử Kim. NXB Đà Nẳng 2007, tr. 367)
(13) “Kể chuyện Tần Hán” sách dẫn tr. 368
(14) “Kể chuyện Tam Quốc” sách dẫn tr. 88
(15) Khổng Dung (153 – 208) là cháu đời thứ 20 của Đức Khổng Tử, con quan Đô úy Thái Sơn Khổng Trụ. Ông là một học giả uyên thâm, tài ba lỗi lạc giữ chức Thái thú quận Bắc Hải. Thuở thiếu thời, Khổng Dung ứng xử rất thông minh. Một hôm có người khách đến nhà ông biếu một giỏ lê. Người nhà bảo Khổng Dung chọn cho mình một quả. Cậu bé Khổng Dung chọn một quả nhỏ nhất. Người khách lấy làm lạ hỏi:” Sao cháu không chọn quả lớn?” Khổng Dung đáp:”Thưa, vì cháu nhỏ hơn các anh cháu nên cháu chọn quả nhỏ nhất. Vả lại, cháu lớn hơn em cháu nên cháu nhường cho em quả lớn hơn”. Lúc đó Khổng Dung mới bốn tuổi và câu chuyện trên trở thành bài học luân lý cho trẻ em Trung Quốc. 
Khi làm quan, ông bất đồng chính kiến với Tào Tháo và đại diện cho thế lực chống đối trong triều; cho nên ông luôn tìm những sơ hở của Tào Tháo để chỉ trích. Ông còn công kích vào đường lối chính trị của Tào Tháo nữa. Mỗi khi Tào Tháo đưa ra một quyết sách lớn lao, Khổng Dung đều phản đối. Thí dụ trận đại chiến Quan Độ giữa Tào Tháo và Viên Thiệu có tính cách sống còn của thể chế: Tào Tháo chỉ có một con đường thắng, không được bại; nhưng Khổng Dung lại rêu rao trong triều rằng Tào Tháo không thể dành được phần thắng. Kết quả trận chiến: Viên Thiệu đại bại. 
Năm 208, Tào Tháo cải cách chế độ quan lại và đề cử Si Lự vào chức vụ Ngự sử Đại phu. Si Lự vốn có mối bất hòa với Khổng Dung nên ông hiểu ý của Tào Tháo ngay. Si Lự cho thu thập những tội chứng của Khổng Dung trong đó có những lời mưu phản. Khổng Dung bị nhốt vào ngục và sau đó bị xử tử vì tội danh bất hiếu:” Cha và con có ân tình gì? Chẳng qua do tình dục phát tác một lúc mà thôi. Còn mẹ và con có nghĩa tình gì? Chỉ như vật dụng để tạm trong vại, sau lấy ra dùng là hết quan hệ.” Thật ra không có chứng cớ để buộc tội Khổng Dung nói những lời bất nhân bất nghĩa đó; chỉ biết bố cáo (bản thông báo cho mọi người biết về tội trạng của tội phạm) viết là nghe Nễ Hành nói lại nhưng Nễ Hành đã chết không có người chứng. Cuối cùng Khổng Dung bị xử tội chết lúc ông 55 tuổi; vợ và con ông đều bị giết sạch (Phẩm Tam Quốc của Dịch Trung Thiên, Tập 2, sách dẫn tr. 73, 74, 75 và 76).   
(16) Theo chú giải của Bùi Tùng Chi trong Anh Hùng Ký: Vì bất hòa, Trương Phi muốn giết tướng cũ của Đào Khiêm ở Hạ Bì là Tào Báo. Tào Báo tử thủ tại quân doanh rồi sai các tướng dưới quyền đến gặp Lã Bố khuyên ông nhân lúc đêm tối bất ngờ tập kích Hạ Bì. Tào Báo ra lệnh mở cửa thành cho Lã Bố chiếm Hạ Bì. Trương Phi thua trận bỏ chạy.
(17) Dự Châu có 6 quận nhưng trên thực tế Lưu Bị chỉ có 1 quận Tiểu Bái để đóng quân.
(18) Tào Tháo gởi thơ dụ hàng; Lã Bố muốn đầu hàng Tào Tháo nhưng Trần Cung khuyên ông không nên hàng và hiến kế chia quân chống lại. Lữ Bố chấp thuận nhưng sau ông lại đổi ý và sai Hứa Dĩ cùng Vương Khải đi cầu cứu viện binh của Viên Thuật. Viên Thuật ra điều kiện: Lã Bố phải mang con gái tới Thọ Xuân theo lời hứa hôn trước đây rồi ông mới gởi quân cứu viện đến giúp. Lã Bố liền lấy bông và áo giáp quấn quanh người con gái yêu của ông rồi sai kỵ binh nhân lúc đêm tối vượt vòng vây đến chỗ Viên Thuật (“Kể chuyện Tần Hán” của Lê Đông Phương và Vương Tử Kim, sd tr. 377). 
(19) “Kể chuyện Tần Hán” của Lê Đông Phương và Vương Tử Kim, NXB Đà Nẳng 2007 tr. 377.
(20) Theo Tam Quốc Chí, Lã Bố truyện và Hậu Hán thư Lã Bố truyện: Tại lầu Bạch Môn, lúc đó Lã Bố tuy là tù binh của Tào Tháo nhưng ông vẫn bình tĩnh nói với Tào Tháo:”Tốt rồi, Thôi chuyện cũ coi như hết, thiên hạ yên định!” Tào Tháo hỏi lại:” Ông nói vậy có nghĩa là gì? Lã Bố đáp:” Cái họa trong lòng Minh công chẳng phải là Lã Bố này sao? Giờ đây Lã Bố đã thuần phục ngài rồi! Nếu ngài để Lã Bố thống lĩnh kỵ binh, Minh công thống lĩnh bộ binh thì thiên hạ còn ai ngăn cản nổi?” Rồi ông quay sang nói với Lưu Bị:” Huyền Đức công à! Ngài là thượng khách còn tôi là tù nhân ở dưới thềm, dây buộc quá chặt, ngài không thể nói giúp tôi một câu sao?” Tào Tháo cười khà khà: “Trói hổ không thể không trói chặt hơn!” và ông định hạ lệnh cởi trói cho Lã Bố nhưng Lưu Bị ngồi cạnh Tào Tháo, buông giọng lạnh lùng:” Minh công không thấy Lã Bố đối xử với Đình Nguyên, Đổng Trác như thế nào sao?” và ngay sau đó Tào Tháo đổi ý, nghe lời Lưu Bị, ra lệnh hành hình Lã Bố (Phẩm Tam Quốc của Dịch Trung Thiên, Tập 1, sách dẫn tr. 209 – 210).
(21) Từ Thứ (徐庶) tự Nguyên Trực (元直), nguyên trước kia là một Quân sư của Lưu Bị lúc Lưu Bị đóng quân ở Tân Dã.
Một hôm, Tào Tháo mời mẹ của Từ Thứ đến để thuyết phục bà viết thư gọi Từ Thứ về Hứa Đô làm quan nhưng bà lão từ chối và ném lọ mực vào người Tào Tháo. Ông rất giận bà lão và suýt sai quân đem bà ra chém. Nhờ Trình Dục dâng kế, ông sai dọn cho bà lão một ngôi nhà khang trang, cho người nuôi dưỡng và chăm sóc bà rất chu đáo. Trình Dục thường đem quà đến biếu. Mỗi lần nhận quà, bà lão đều viết thiệp cám ơn. Nhờ vậy,  Trình Dục học được nét bút của mẹ Từ Thứ rồi ông viết một bức thư giả gọi Từ Thứ từ Tân Dã trở về Hứa Đô.
Nhận được thư đúng nét bút của mẹ, Từ Thứ xin Lưu Bị Trở về Tào. Trước khi lên đường sang Tào, ông cam kết với Lưu Bị suốt đời không giúp cho Tào Tháo bất cứ một kế gì và đề nghị Lưu Bị mời Gia Cát Lượng ra làm Quân sư. Từ Thứ trở về Hứa Đô gặp mẹ và cho biết ông đã nhận được bức thư của mẹ gọi về. Bà lão giận dữ, trách mắng ông rồi lặng lẽ vào trong nhà treo cổ tự tử.
Trong thời gian làm quan cho Tào Tháo, Từ Thứ chỉ quan tâm đến việc quan văn, chứ không đóng góp gì đáng kể cho Tào Tháo về mặt quân sự.
Tam Quốc Diễn Nghĩa có kể chuyện Từ Thứ khi ở Xích Bích biết Bàng Thống bày kế liên hoàn là để lừa Tào Tháo, nhưng ông không nói mà giả vờ xin Tào Tháo cho về lại phương Bắc để giữ hậu phương. Nhờ đó ông thoát khỏi trách nhiệm của trận chiến Xích Bích, nơi quân Tào đại bại (Wapedia – Wiki: Từ Thứ).
Sự thực: khi Gia Cát Lượng đến với Lưu Bị, Từ Thứ vẫn còn ở với Lưu Bị và cả 2 người cùng làm mưu sĩ chống Tào. Khi Lưu Bị bị thua ở Đương Dương – Tràng Bản, chẳng những 2 con gái Lưu Bị bị bắt mà mẹ Từ Thứ cũng bị bắt tại đây. Tào Tháo sai mẹ Từ Thứ viết thư dụ con. Bà không cự tuyệt Tào Tháo như trong Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả. Từ Thứ lúc đó mới sang Tào (“Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện” của Trần Văn Đức, NXB Văn Học 2008, tr.116).

(22) Gia Cát Lượng (181- 234) là Quân Sư của Lưu Bị và là đại thần của nước Thục thời Hậu Hán. Ông là một chính trị gia đại tài, một nhà quân sự lỗi lạc, một học giả uyên thâm. Theo Dâng biểu Gia Cát Lượng tập của Trần Thọ: “Ít có nhân tài nào như vậy, thân cao 8 thước (1,84m), dung mạo khôi ngô tuấn tú, khác hẳn người thường”. Trong trận Xích Bích, Gia Cát Lượng đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng để đem lại chiến thắng cuối cùng cho liên quân Ngô – Thục. 
(23) Cũng theo Tam Quốc Chí của Trần Thọ, phần Quách Gia truyện và Ngô chủ truyện kể, chính Tào Tháo đã tự đốt thuyền trước khi ra lệnh lui quân. Chú dẫn của Bùi Tùng Chi trong Giang Biểu truyện thậm chí còn kể: Sau đó Tào Tháo viết thư cho Tôn Quyền, “Chiến dịch Xích Bích, xảy ra dịch bệnh, ta (Tào Tháo) tự đốt thuyền và lui quân, Chu Du mới có hư danh!” (Phẩm Tam Quốc của Dịch Trung Thiên, Tập 1, sd tr. 428 – 429).
(24) Lúc đó Tôn Quyền mới 29 tuổi, em gái tên Tôn Nhân chừng 19 tuổi và Lưu Bị đã 49 tuổi. Tôn Nhân xuất thân từ gia đình Tôn thị là tiểu thư số 1 Giang Đông. Theo Tam Quốc Chí – Pháp Chính truyện: Tôn tiểu thư tài năng dũng mãnh như 4 người anh: Tôn Sách, Tôn Quyền, Tôn Dực và Tôn Khung. Người hầu hạ bên cạnh có hơn 100 người, tất cả đều được trang bị vũ khí (dao) để bảo vệ tiểu thư. Cho nên mỗi lần Lưu Bị vào phòng của đệ nhất phu nhân Kinh Châu, tâm trạng của ông hết sức lo lắng nếu không muốn nói là kinh hãi (sợ bị người khác giết: chú dẫn Tự trị Thông giám của Hồ Tam Tỉnh). Theo Tam Quốc Chí – Pháp Chính truyện, về điểm này Gia Cát Lượng và Lưu Bị đều biết rõ. Về sau khi nhớ lại đoạn lịch sử này, Gia Cát Lượng nói:” Sợ Tôn Phu nhân sinh biến ngay bên cạnh”; nên Lưu Bị để Triệu Vân ở gần mình để đề phòng bất trắc. Cũng theo chú dẫn Vân Biệt truyện của Bùi Tùng Chi trong Tam Quốc Chí – Triệu Vân truyện: Tiểu thư ỷ mình là em gái Tôn Quyền nên vô cùng kiêu ngạo. Phu nhân đem theo nhiều quan viên và tướng lãnh cùng quân lính Đông Ngô để bảo vệ mình. Lưu Bị chẳng còn biện pháp nào khác đành để Triệu Vân, một người nghiêm chỉnh giúp mình và trông coi Tôn phu nhân. Không biết người em gái họ Tôn tự mình làm vậy hay do Tôn Quyền chỉ dẫn? Nếu ý sau đúng thì cuộc hôn nhân này là “một cuộc hôn nhân chính trị” còn nếu ý trước đúng thì chúng ta không thể không khâm phục Tôn phu nhân là bậc “nữ nhi anh hùng”.

Trong tác phẩm Đại trí đại dũng Tôn phu nhân của ngài Chúc Tú Hiệp viết:” Nữ nhân tài trong ba nước, Tôn phu nhân là số 1. Tuy nhiệm vụ chưa hoàn thành, nhưng tiến thoái tùy ý; lấy chồng nước khác như đến chỗ không người, dễ gì một người con gái bình thường làm được?” Đúng như vậy. Nhưng tôi cảm thấy một người con gái như vậy là bất hạnh: Lấy chồng không tự nguyện, ly dị cũng không phải tự ý mình. Trong lịch sử không thấy nói tới Tôn phu nhân ra sao trong khoảng thời gian sau khi trở về Đông Ngô? Hiển nhiên Tôn phu nhân và Lưu Bị không còn cơ hội để gặp lại nhau”.
(Theo PHẨM TAM QUỐC của Dịch Trung Thiên, Tập 2, sách dẫn tr. 137, 138, 139 và tr. 140).

(25) Sự thực, Tào Tháo muốn điều quân diệt hai tướng Mã Siêu và Hàn Toại vì ông nghi hai tướng này sẽ làm phản. Để thực hiện cuộc hành quân này, Chung Do và Hạ Hầu Uyên phải đưa quân đi qua địa phận của Mã Siêu, Hàn Toại và như vậy hai tướng này buộc phải làm phản. Từ đó Tào Tháo mới có cớ tiến quân diệt Mã Siêu và Hàn Toại được. Đúng như dự đoán của Tào Tháo: Chung Do vừa xuất quân, mười lộ Quan Tây của Mã Siêu, Hàn Toại nổi dậy làm phản. Mười vạn quân hợp lại chiếm Đồng Quan chuẩn bị chiến đấu với quân Tào và Tào Tháo đã có cớ tiến quân đánh họ. Ông đích thân dẫn quân dẹp loạn. Kết quả gần mấy chục ngàn người chết mới dẹp yên được.
(26) Lưu Chương là một tướng thời Hậu Hán, ông là người thuộc dòng dõi hoàng tộc. Ông được nhà vua giao cai quản một vùng đất rộng lớn và có địa thế khá hiểm trở: khu vực Ích Châu hay còn gọi là Ba Thục mà sau này Lưu Bị đánh chiếm rồi lập ra nhà Thục Hán.
(27) Sau khi kế vị cha (Lưu Yên), Lưu Chương vẫn tiếp tục trấn áp nội loạn nên ông mới nghe theo kế của Trương Tùng. Ông sợ nếu không có cớ mời Lưu Bị vào Hán Trung sẽ bị nhiều người sinh nghi chống đối dẫn đến hậu qủa khó lường nên ông mượn cớ nhờ Lưu Bị đi đánh Trương Lỗ. Lưu Chương nghĩ: khi Lưu Bị thắng trận, Lưu Bị sẽ ở lại Hán Trung và sẽ cùng ông hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau hình thành một lực lượng khả dĩ uy hiếp được các thế lực tiềm ẩn bên trong (các tướng lãnh Thục “có ý khác”) và bên ngoài (Tào Tháo). Còn nữa, Hán Trung và Thục quận tuy cùng một châu nhưng lại có chính quyền riêng biệt, do đó làm gì có chuyện “một nước không thể có hai vua” như Hoàng Quyền can gián. Nhưng ông không ngờ khi Lưu Bị vào được Hán Trung rồi, Lưu Bị không những không giúp đỡ cho Lưu Chương mà còn chiếm đoạt luôn cả giang sơn của ông nữa. 
(28) Theo chú dẫn Ngô thư của Bùi Tùng Chi trong Tam Quốc Chí – Tiên chủ truyện thì Trương Tùng là người dâng bản đồ, nhưng các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng những điều ghi trong Ngô thư không đáng tin. Tư trị thông giám của Tư Mã Quang xác nhận Trương Tùng không hề gặp Lưu Bị. Vậy có thể trong chuyến công du lần này, Pháp Chính đã dâng bản đồ Ích Châu cho Lưu Bị (Phẩm Tam Quốc của Dịch Trung Thiên, Tập 2, sd tr. 125).
(29) Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc Bàng Thống chết ở chân đồi Lạc Phượng rồi Khổng Minh Gia Cát Lượng mới vào Tây Xuyên và việc Bàng Thống bị tướng Tây Xuyên là Trương Nhiệm mai phục ở chân đồi Lạc Phượng bắn chết. Lưu Bị không có người phụ tá phải gọi Khổng Minh từ Kinh Châu vào Tây Xuyên; Khổng Minh lừa bắt được Trương Nhiệm.
Sự thực không phải vậy: Khi đánh Tây Xuyên khó khăn, Lưu Bị đã gọi Khổng Minh Gia Cát Lượng vào tham chiến tại chiến trường này rồi. Gia Cát Lượng cùng Trương Phi và Triệu Vân vào Tây Xuyên nửa năm sau Bàng Thống mới chết tại Lạc Thành (không phải chết tại chân đồi Lạc Phượng) khi đụng độ với Trương Nhiệm. Trận này Lưu Bị và Bàng Thống tác chiến độc lập, không có Gia Cát Lượng và các tướng khác tham gia nhưng vẫn thắng được Trương Nhiệm ở Lạc Thành. Bàng Thống thắng trận nhưng bị tên lạc chết. Trương Nhiệm bị Lưu Bị bắt sống, ông không chịu qui hàng nên bị giết (Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr. 116)
(30) Lê Đông Phương “Kể chuyện Tam Quốc”, NXB Đà Nẳng 2007,tr.281.
(31) Nguyễn Tử Quang”Tam Quốc bình giảng”, NXB Tổng hợp An Giang 1989 tr. 223
(32) Dịch Trung Thiên “Phẩm Tam Quốc”, Tập 2, NXB CAND 2010 tr. 177.
(33) Theo chú dẫn Vân biệt truyện của Bùi Tùng Chi trong Tam Quốc Chí – Triệu Vân truyện, Đại tướng Triệu Vân can:”Kẻ cướp ngôi vua là Tào Phi chứ không phải Tôn Quyền. Nếu diệt được Tào Ngụy, Đông Ngô tự nhiên phải khuất phục; không  nên bỏ qua Tào Ngụy mà đánh Đông Ngô”.
(34) Phẩm Tam Quốc của Dịch Trung Thiên, Tập 2, sd tr. 204.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
* Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
* Lịch sử Trung Quốc 5000 năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dư Chương (Tập 1 và 2), NXB Văn hóa Thông tin 1997.
* Kể chuyện Tam Quốc của Lê Đông Phương, NXB Đà Nẳng 2007.
* Kể chuyện Tần Hán của Lê Đông Phương và Vương Tử Kim, NXB Đà Nẳng 2007.
* Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện của Trần Văn Đức, NXB Văn học 2008.
* Tam Quốc bình giảng của Nguyễn Tử Quang, NXB Tổng hợp An Giang 1989.
* Phẩm Tam Quốc của Dịch Trung Thiên (Tập 1 và 2) NXB Công an Nhân dân, 2010.
*Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung,Việt Nam Thư Quán – Thư viện Online.
*10 đại thừa tướng Trung Quốc, Phần Gia Cát Lượng, NXB Thanh niên 2002.