Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

Quyền và lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông có bị ảnh hưởng bởi vụ kiện PCA Phi-Trung Quốc ?

Quyền và lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông có bị ảnh hưởng bởi vụ kiện PCA Phi-Trung Quốc ?
Bài viết trên BBC có tựa đề « Vụ kiện Phi-Trung và quyền lợi của Việt Nam » cho rằng vụ xử ở Tòa PCA sẽ đưa VN vào thế « tiến thoái lưỡng nan » và « mâu thuẩn quyền lợi ».
Theo tôi, trước khi kết luận VN như vậy, một số điều cơ bản cần được minh bạch : Thẩm quyền của Tòa PCA là gì ? Nội dung những yêu cầu của Phi là gì ? Nội dung những bảo lưu của VN trước Tòa là gì ?
Tùy theo nội dung các việc này mà « quyền » và « lợi ích » của VN ở Biển Đông, như vùng biển (lãnh hải, hải phận kinh tế độc quyền EEZ), thềm lục địa, (nếu có) của các đảo (mà Việt Nam có yêu sách hoặc đang chiếm đóng), hay các việc khai thác khoáng sản, ngư sản… của phía VN trong khu vực các đảo này có thể bị ảnh hưởng bới vụ xử hay không.
Bài viết trên BBC, tác giả không nói đến những giới hạn về thẩm quyền của Tòa, cũng không nhắc đến những bảo lưu của VN gởi đến Tòa qua Tuyên bố của Bộ Ngoại giao ngày 5-12-2014. Trong khi tình trạng pháp lý của các thực thể địa lý của những chủ thể liên quan (đá Tốc Tan, đá Núi Le, đá Tiên nữ) là nguồn sinh ra các « quyền » cũng không được tác giả nhắc đến.
Lập luận của tác giả vì vậy thiếu sót, do đó kết luận không thuyết phục.
1/ Về thẩm quyền của Tòa PCA, thông cáo báo chí của Tòa PCA ngày 13-7-2015 ghi rõ :
« Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII có thẩm quyền xem xét một tranh chấp giữa các Quốc gia Thành viên Công ước trong phạm vi tranh chấp đó liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước. »
Ngoài ra Tòa PCA còn nhìn nhận những hạn chế thẩm quyền xét xử của Tòa, đến từ việc bảo lưu của Trung Quốc. Gồm các việc : chủ quyền lãnh thổ và phân định ranh giới biển.
Tức là, thẩm quyền của Tòa chỉ giới hạn trong các việc « giải thích và cách áp dụng công ước » với điều kiện việc này không thuộc về, hay không liên quan đến những « tranh chấp chủ quyền » hay quá trình « phân định ranh giới biển ».
Thẩm quyền của Tòa vì vậy rất hạn hẹp, khó có thể có những phán quyết làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của VN ở khu vực.
2/ Bảo lưu của VN trước Tòa sơ lược lại. (Theo nội dung Phán quyết Sơ thẩm của Tòa ngày 29-10-2015, từ đoạn 47 đến đoạn 67).
Ngày 12-4-2014 Bộ Ngoại giao Việt Nam viết công hàm gởi Tòa PCA cho rằng « quyền và lợi ích hợp pháp của VN có thể bị ảnh hưởng » bởi vụ xử, do đó yêu cầu Tòa cho phép VN tham khảo mọi đơn từ và tất cả những hồ sơ, tài liệu đính kèm của các bên liên quan đến vụ án. Ngày 24-4, Phi chấp nhận yêu cầu của VN (trong khi phía TQ thì im lặng). Kể từ đó Tòa cho phép VN tham khảo những hồ sơ liên quan đến vụ án.
Ngày 5-12-2014, Bộ Ngoại giao VN gởi đến Tòa bản Tuyên Bố của Việt Nam. Nội dung gồm một số điều : a) VN chủ trương tôn trọng và áp dụng các thủ tục và qui tắc của công ước. VN nhấn mạnh lập trường cho rằng Tòa có thẩm quyền xét xử. b) bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của VN. c) ghi nhận rằng Phi không có yêu cầu Tòa xét xử những điều không thuộc thẩm quyền của mình (điều 288, liên quan đến chủ quyền và phân định biển). e) kiên quyết phản đối và bác bỏ mọi yêu sách của Trung Quốc trên bản đồ 9 đoạn. f) Hỗ trợ thẩm quyền của Tòa để giải thích các điều 60, 80, 194, 206, 293 của Công ước và các công cụ khác liên quan. Việt Nam bảo lưu quyền (đề nghị) được can thiệp nếu thấy thích nghi và phù hợp với các nguyên tắc về luật quốc tế, cũng như các qui định liên quan của Công ước.
Yêu cầu của VN qua bản Tuyên bố được Phi nhìn nhận. Ý kiến của Phi là Tòa có thẩm quyền can thiệp và chấp nhận các tuyên bố của Việt Nam cũng như lấy những quyết định cần thiết về các thông tin mà VN đã yêu cầu.
Như vậy những bảo lưu của VN được Tòa chấp thuận. Điều quan trọng là VN bảo lưu quyền « được can thiệp » khi thấy có liên quan, nếu việc này không trái với luật lệ.
Tức là, giả sử Tòa quyết định một phán quyết có thể làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của mình, Việt Nam có thể xin « được can thiệp » để các quyền và lợi ích đó được các bên tôn trọng.
3/ Tác giả nói lên sự lo ngại nếu Tòa tuyên bố cho Phi thắng ở các yêu cầu 4 và 5 :
« Mặc dù Philippines không kiện Việt Nam và không đề cập đến những thực thể này, nếu chúng đúng là bãi lúc nổi lúc chìm và nếu Philippines thắng Trung Quốc ở điểm 4 và 5, hệ quả lô gíc sẽ là không nước nào được đòi chủ quyền trên những thực thể này, chúng sẽ thuộc về EEZ của họ, và khi đó nếu họ muốn thì Việt Nam sẽ phải bàn giao lại cho họ. Việt Nam có sẵn sàng chấp nhận hệ quả này không? »
Các « thực thể này », theo ý của tác giả, gồm các đá Đá Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Đá Xu Bi, đá Tiên Nữ, đá Núi Le và đá Tốc Tan.
Nội dung hai điều yêu cầu 4 và 5 là :
« Điểm 4 của hồ sơ Philippines cho rằng Đá Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Đá Xu Bi là những bãi lúc nổi lúc chìm, do đó không những không có lãnh hải mà còn không nước nào có thể đòi chủ quyền. Điểm 5 cho rằng Đá Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây là thuộc EEZ và thềm lục địa của Philippines. »
Theo nội dung Phán quyết Sơ thẩm của Tòa ngày 29-10-2015, điểm 4 Tòa tuyên bố có thẩm quyền xét xử, còn điều 5 thì bảo lưu.
Điều 4 gồm hai phần : 1/ Đá Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Đá Xu Bi là những bãi lúc nổi lúc chìm 2/ không nước nào có thể đòi chủ quyền.
Phần 1 Tòa hoàn toàn có thẩm quyền phân xử, vì nội dung không quan hệ đến « chủ quyền » và « phân định ranh giới biển ».
Nhưng phần 2, theo tôi Tòa không có thẩm quyền xét xử, hay ít nhứt Tòa chỉ có thể tuyên bố « không có ý kiến », vì nội dung yêu cầu có liên quan đến « chủ quyền ».
Cũng thử giả sử Tòa có thẩm quyền xét xử. Thì cũng sẽ không có luật lệ, án lệ hay tập quán quốc tế nào cho phép Tòa tuyên bố rằng các thực thể lúc nổi lúc chìm, được hay không được quyền chiếm hữu.
Một số án lệ, như vụ Tòa CIJ năm 2008 xử Mã Lai- Singapour về tranh chấp chủ quyền các đảo, hay vụ Tòa CIJ năm 2001 xử Qatar và Bahreïn, ý kiến của Tòa :
« Luật quốc tế im lặng về vấn đề các thực thể lúc chìm lúc nổi có phải là « lãnh thổ » hay không. Tòa cũng nhìn nhận là không hiện hữu một thể thức hành sử quốc gia có tính đại chúng để trở thành một tập quán quốc tế, theo đó cho phép hay loại trừ việc chiếm hữu những thực thể địa lý lúc chìm lúc nổi ».
Có thể nào Tòa PCA trong vụ xử Phi-Trung Quốc kỳ này lại ra một phán quyết xác định các bãi lúc chìm lúc nổi là (hay không là) « một lãnh thổ » ?
Thẩm quyền của Tòa đã nói trên, rất hạn hẹp. Theo tôi, Tòa chỉ nhắc lại các phán lệ của các phiên Tòa trước, xem đó là ý kiến của mình.
Điểm 5, Phi yêu cầu Tòa phán rằng Đá Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây là thuộc EEZ và thềm lục địa của Philippines.
Theo nội dung Phán quyết sơ thẩm 29-10-2015, Tòa tuyên bố « bảo lưu » ở yêu cầu số 5.
Thử đặt giả thuyết rằng Tòa có thẩm quyền xét xử.
Thì không hề hiện hữu một điều luật nào, hay một án lệ, một phán lệ nào, Tòa có thể qui chiếu vào đó để phán rằng các thực thể địa lý mang tên Đá Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Đá Xu Bi thuộc về vùng Kinh tế Độc quyền (EEZ) của Phi (tức các cấu trúc này thuộc quyền tài phán của Phi).
Tình trạng pháp lý các thực thể địa lý lúc chìm lúc nổi được qui định ở điều 13 bộ Luật Biển 1982. Theo đó, nếu các thực thể này thuộc lãnh hải của quốc gia thì chúng có thể sử dụng để làm điểm cơ bản để tính bề rộng lãnh hải. Luật Biển 1982 không hề nói đến trường hợp khi các thực thể này nằm trong vùng EEZ.
Đá Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây, Đá Xu Bi, đá Tóc Tan, đá Tiên Nũ, đá Núi Le không nằm trong lãnh hải (12 hải lý) của bất kỳ một vùng lãnh thổ nào của Phi.
Luật quốc tế không cấm, mà cũng không cho phép, việc chiếm hữu các thực thể lúc chìm lúc nổi.
Luật không cấm, VN có thể xây dựng trên các Đá Tốc Tan, Đá Núi Le và Đá Tiên Nữ những công trình như đen pha, trạm thời tiết hay trạm quan sát. Cũng không có luật nào cấm VN yêu sách chủ quyền tại các Đá Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Đá Xu Bi.
Lo ngại của tác giả, VN phải trả các thực thể như Đá Tốc Tan, Đá Núi Le và Đá Tiên Nữ cho Phi là không có cơ sở.
4/ Tác giả nêu lo ngại :
« Điểm 9 của hồ sơ Philippines khiếu nại rằng Trung Quốc đã, một cách bất hợp pháp, không ngăn chặn công dân của mình khai thác thủy sản trong EEZ của Philippines. Mặc dù Philippines chỉ kiện Trung Quốc, không kiện Việt Nam, nếu Tòa công nhận rằng một khu vực nào đó là EEZ của Philippines, và việc công dân Trung Quốc khai thác hải sản trong khu vực đó là bất hợp pháp, hệ quả lô gíc của phán quyết đó sẽ là việc Việt Nam đơn phương khai thác hải sản trong khu vực đó cũng sẽ là bất hợp pháp. »
Điểm 9 Tòa tuyên bố bảo lưu, vì lý do có thể có những vùng chồng lấn đến từ hiệu lực của một đảo mà TQ yêu sách chủ quyền.
Tòa chỉ có thể phân xử yêu cầu số 9 của Phi nếu Phi chứng minh được rằng các đảo trong khu vực mà TQ yêu sách không phải là đảo theo nội dung điều 121 của Bộ Luật Biển 1982. Tức là phải chứng minh được điều : các đảo (mà TQ yêu sách) không có đảo nào có thể tạo được một đời sống tự tại.
Mà điều này không dễ.
Trong khi dó VN còn bảo lưu quyền can thiệp nếu thấy lợi ích của mình bị xâm phạm.
Nhưng cũng giả sử rằng Tòa phán các đảo ở TS đều là « đá », không có hiệu lực EEZ.
Trong trường hợp này VN có lý do gì để yêu sách các quyền (khai thác) trong vùng biển kinh tế độc quyền của Phi ?
Không có lý do nào hết cả.
Lo ngại mà tác giả nêu ra rõ ràng là không hợp lý.

Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2015

Vụ kiện Phi-Trung và quyền lợi Việt Nam


Bộ Ngoại giao Philippines đưa thông tin Tòa Trọng Tài tại Den Haag tiến hành phiên điều trần chính phân xử vụ kiện Phi-Trung về Biển Đông ngày 24/11/2015.
Trước đó, ngày 29/10/2015 Tòa đã phán quyết về phiên điều trần sơ khởi của vụ kiện.
Phiên điều trần đó là bước đầu, qua đó Tòa xác định mình có thẩm quyền hay không, và hồ sơ của Philippines có thể thụ lý được hay không.
Trung Quốc cho rằng trả lời cho hai câu hỏi này đều là “Không”. Nếu trả lời đó đúng, hồ sơ của Philippines sẽ bị loại ngay từ bước này.
Nhưng, kết luận về phiên điều trần sơ khởi, Tòa đã bác bỏ quan điểm của Bắc Kinh và tuyên bố rằng trong 15 điểm Philippines đưa ra, Tòa có thẩm quyền để xử 7 điểm, trong đó có 2 điểm với điều kiện không có sự chồng lấn vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) hay thềm lục địa, tương đương với điều kiện không có thực thể địa lý nào trong quần đảo Trường Sa được hưởng hai quy chế này.
Tòa cũng cho rằng vấn đề thẩm quyền của 7 điểm khác có thể có những yếu tố nằm ngoài phạm trù sơ khởi, do đó Tòa phải xem xét các điểm này trong phiên điều trần chính mới có thể kết luận về thẩm quyền.
Như vậy, Philippines đã chiến thắng gần như hoàn toàn trong bước đầu: Tòa sẽ tiến hành phiên điều trần chính để xét ít nhất 14 điểm trong hồ sơ của Manila. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa Philippines sẽ thắng tất cả những điểm này trong phiên điều trần chinh, đặc biệt là những điểm phụ thuộc vào điều kiện có thực thể địa lý nào trong quần đảo Trường Sa được hưởng quy chế EEZ hay không.
Theo ghi nhận của Tòa, Việt Nam đã khẳng định rằng Tòa có thẩm quyền để phân xử, và, thêm vào đó, trong 7 thực thể địa lý được nêu ra trong hồ sơ của Philippines, không thực thể nào được hưởng quy chế EEZ.
Nhưng Việt Nam không cho biết quan điểm của mình về có thực thể nào khác được hưởng quy chế này hay không. Việt Nam cũng tuyên bố bảo lưu các quyền lợi và quyền pháp lý của mình, nhưng không cho biết quyền lợi của mình cụ thể là gì.
Áp phích Image copyright
Image captionÁp phích của người biểu tình ở Philippines phản đối Trung Quốc trên Biển Đông.
Sự ủng hộ của Việt Nam cho Philippines tuy mạnh mẽ về nguyên tắc nhưng dè dặt về chi tiết. Việt Nam đã thể hiện muốn Tòa phân xử vụ kiện này, và chắc chắn là Việt Nam muốn Tòa bác bỏ đường lưỡi bò Trung Quốc, nhưng có lẽ các nhà hoạch định chính sách Việt Nam vẫn quan ngại rằng phán quyết của Tòa về một số điểm trong hồ sơ của Philippines có thể đi ngược với quyền lợi của Việt Nam.
Dư luận người Việt phần lớn ủng hộ việc Philippines kiện Trung Quốc. Có không ít sự ngưỡng mộ, thậm chí ca ngợi, cho động thái của Philippines, và có cả ý kiến cho rằng Việt Nam nên tham gia vụ kiện hoặc khởi tự khởi kiện Trung Quốc.

Mâu thuẫn quyền lợi

Nhưng có vấn đề quan trọng vẫn ít được phân tích trước công luận. Đó là mặc dù hồ sơ của Philippines có nhiều điểm có lợi cho Việt Nam qua việc bác bỏ yêu sách biển quá lố của Trung Quốc, hồ sơ này cũng có một số điểm có thể mâu thuẫn với quyền lợi của chúng ta (Việt Nam), tùy chúng ta xác định quyền lợi này bao gồm những gì.
Điểm 4 của hồ sơ Philippines cho rằng Đá Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Đá Xu Bi là những bãi lúc nổi lúc chìm, do đó không những không có lãnh hải mà còn không nước nào có thể đòi chủ quyền. Điểm 5 cho rằng Đá Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây là thuộc EEZ và thềm lục địa của Philippines.
Câu hỏi người Việt cần trả lời là hai điểm này có mâu thuẫn với quyền lợi của Việt Nam hay không? Việt Nam có đòi quyền lợi gì với Đá Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây không? Nên phản đối hay chấp nhận điểm 4 và 5? Hay là Việt Nam không tự khẳng định, và phó thác cho Philippines, Trung Quốc và Tòa tranh cãi với nhau về hai điểm này?
Hai điểm 4 và 5 còn ảnh hưởng cả đến một số thực thể Việt Nam đang chiếm giữ, thí dụ như Đá Tốc Tan, Đá Núi Le và Đá Tiên Nữ.
Mặc dù Philippines không kiện Việt Nam và không đề cập đến những thực thể này, nếu chúng đúng là bãi lúc nổi lúc chìm và nếu Philippines thắng Trung Quốc ở điểm 4 và 5, hệ quả lô gíc sẽ là không nước nào được đòi chủ quyền trên những thực thể này, chúng sẽ thuộc về EEZ của họ, và khi đó nếu họ muốn thì Việt Nam sẽ phải bàn giao lại cho họ. Việt Nam có sẵn sàng chấp nhận hệ quả này không?
Điểm 9 của hồ sơ Philippines khiếu nại rằng Trung Quốc đã, một cách bất hợp pháp, không ngăn chặn công dân của mình khai thác thủy sản trong EEZ của Philippines. Mặc dù Philippines chỉ kiện Trung Quốc, không kiện Việt Nam, nếu Tòa công nhận rằng một khu vực nào đó là EEZ của Philippines, và việc công dân Trung Quốc khai thác hải sản trong khu vực đó là bất hợp pháp, hệ quả lô gíc của phán quyết đó sẽ là việc Việt Nam đơn phương khai thác hải sản trong khu vực đó cũng sẽ là bất hợp pháp.
Image captionPhilippines kiên quyết phản đối các tuyên bố của Trung Quốc trên Biển Đông và đồng thời khẳng định chủ quyền của họ ở các vùng biển tranh chấp.
Khu vực này có thể là 200 hải lý tính từ đường cơ sở quần đảo của Philippines, chỉ ngoại trừ lãnh hải 12 hải lý của các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Trong trường hợp đó, ngư dân Việt Nam sẽ không được đánh bắt trong khu vực cách các đảo Trường Sa hơn 12 hải lý và cách Philippines dưới 200 hải lý. Việt Nam có sẵn sàng chấp nhận hệ quả này không?
Tóm lại, nếu Việt Nam chỉ đòi chủ quyền với các đảo (tức là những thực thể cao hơn mức thủy triều cao) và lãnh hải 12 hải lý thì sẽ không có mâu thuẫn gì giữa ba điểm này và quyền lợi của Việt Nam.
Nhưng nếu Việt Nam có đòi những bãi lúc nổi lúc chìm cách các đảo này hơn 12 hải lý và cách Philippines dưới 200 hải lý, thí dụ như Đá Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây, Đá Tốc Tan, Đá Núi Le và Đá Tiên Nữ, thì sẽ có mâu thuẫn.
Việc Việt Nam đóng quân ở một số thực thể hữu quan có nghĩa Việt Nam có đòi những thực thể đó, tức là có mâu thuẫn. Nếu ViệtNam đòi quyền tài phán cách đảo hơn 12 hải lý và cách Philippines dưới 200 hải lý thì cũng sẽ có mâu thuẫn.

Tiến thoái lưỡng nan

Ba điểm 4, 5 và 9 đặt Việt Nam vào thế tiến thoái lưỡng nan. Phản đối hay phản biện với Tòa thì sẽ vô hình trung giúp Trung Quốc và có thể gây phương hại cho EEZ và thềm lục địa của mình dọc bờ biển đất liền.
Không phản đối và không phản biện, nếu Tòa công nhận ba điểm này, Việt Nam sẽ khó có cơ sở pháp lý để có yêu sách với một số bãi lúc nổi lúc chìm như Đá Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây, Đá Tốc Tan, Đá Núi Le và Đá Tiên Nữ.
Không những thế, Việt Nam sẽ khó có cơ sở pháp lý cho việc khai thác kinh tế trong một phần của khu vực Trường Sa. Phải làm gì để cân bằng một bên là việc chống Trung Quốc và bảo vệ EEZ và thềm lục địa dọc bờ biển đất liền, và bên kia là quyền lợi trong khu vực Trường Sa?
Thực chất, vụ kiện Phi-Trung đã đẩy Việt Nam tới điểm phải giải hai bài toán khắc nghiệt. Bài toán thứ nhất là quyền lợi của Việt Nam ở Trường Sa là gì: Việt Nam đòi chủ quyền với những thực thể nào, quyền tài phán ra cách các thực thể này bao xa? Giải đáp cho bài toán này sẽ cho biết hồ sơ kiện của Philippines có mâu thuẫn với quyền lợi của Việt Nam hay không, nếu có thì mâu thuẫn thế nào?
Biển ĐôngImage copyrightReuters
Image captionHoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông gây quan ngại cho nhiều quốc gia và chủ thể có lợi ích liên quan ở khu vực.
Nếu bản thân mình chưa biết quyền lợi của mình là gì thì việc yêu cầu Tòa tính đến quyền lợi của mình, tuy là điều vẫn phải làm, nhưng thiếu đi một phần giá trị.
Bài toán kế tới là nếu có mâu thuẫn với quyền lợi của mình thì Việt Nam phải ứng phó thế nào? Nếu Việt Nam phản đối và phản biện hồ sơ của Philippines để bảo vệ quyền lợi của mình thì sẽ vô hình trung giúp Trung Quốc. Đây là hai bài toán khắc nghiệt, nhưng dường như Việt Nam còn chưa giải được bài thứ nhất.
Mục đích của bài viết này không phải là đề nghị Việt Nam nên chấp nhận hay phản đối điểm nào trong hồ sơ kiện của Philippines, đặc biệt là các điểm 4, 5 và 9, cũng không phải là đề nghị Việt Nam nên chọn những gì là quyền lợi của mình.
Mục đích đó là để cho thấy trong khi vụ kiện Phi-Trung buộc Việt Nam phải đối diện với hai bài toán khó liên quan đến quyền lợi đất nước, dường như các cơ quan có chức năng của nhà nước, các chuyên gia và giới trí thức chưa có phân tích đáng kể trước công luận để giúp người dân cũng như các đại biểu của họ suy nghĩ về hai bài toán này.

Bài viết thể hiện văn phong và phản ánh quan điểm riêng của tác giả, một thành viên sáng lập Quỹ Nghiên cứu Biển Đông, tác giả cảm ơn các ông Phan Văn Song, Hoàng Việt và Lê Trung Tĩnh đã góp ý cho bài viết.

Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

CÔNG LÝ KHÔNG CÓ CHỖ CHO NHỮNG KẺ DỐI TRÁ VÀ NHẪN TÂM CHÀ ĐẠP ĐỒNG LOẠI

Nhà báo Từ Khôi vừa được TAND quận Hoàn Kiếm tuyên thắng kiện trong vụ kiện báo Đại Đoàn Kết lúc 16 giờ chiều nay.

Vậy là cả 3 nhà báo đấu tranh chống tiêu cực và từng bị trù dập, bị đuổi ra đường phố tại báo Đại Đoàn Kết nhiều năm qua nay đã đòi lại được công lý. Không chỉ cho chính mình, sự chiến thắng của công lý và lẽ phải qua 3 vụ án này còn cho mọi người nhận ra một điều lớn hơn: CÔNG LÝ KHÔNG CÓ CHỖ CHO NHỮNG KẺ DỐI TRÁ VÀ NHẪN TÂM CHÀ ĐẠP ĐỒNG LOẠI.

Đâu đó trong cuộc sống này vẫn còn đang có không ít người vẫn phải loanh quanh đi tìm kiếm công lý và đôi khi tuyệt vọng, đánh mất niềm tin vào cuộc đấu tranh cho lẽ phải. Thậm chí, đánh mất cả niềm tin vào chính bản thân mình. Tuy nhiên, từng cuộc đấu tranh tuy nhỏ, từng chiến thắng tuy không lớn nhưng nếu mỗi cuộc đấu tranh đều kiên trì hướng tới mục tiêu cuối cùng. Vượt lên đau khổ và tuyệt vọng để tìm ra ánh sáng công lý dù chỉ le lói cuối đường hầm cũng sẽ là sự bắt đầu cho một niềm tin đang dần lớn lên.

Những ai còn do dự, những kẻ a dua với cái xấu, thậm chí từng nhúng mình vào trong vũng bùn nhơ nhớp nay chắc không khỏi phải tự vấn với lương tri khi ánh sáng công lý đã soi rõ chính tà.

Rõ ràng, không chỉ một vụ mà ít nhất là ba vụ án liên tiếp trong cùng gần như là một thời điểm đã cho thấy một điều không thể chối cãi: công lý không có chỗ cho những kẻ dối trá, những kẻ nhẫn tâm chà đạp lên lương tri và đồng loại. Như những con thiêu thân, sống gấp cùng bóng tối, chúng sẽ phải tan chảy thành khói bụi khi có ánh mặt trời soi sáng.

Sự kiện này còn là một hồi chuông cảnh báo hết sức thực tiễn và thời sự cho những nhà quản lý, cần phải tỉnh táo, công tâm và hành xử cân nhắc tuân theo pháp luật và đạo đức xã hội trước mọi vấn đề phức tạp. Đặc biệt là trước những vấn đề có liên quan tới số phận con người. Cần tỉnh táo trước những kẻ dối trên, lừa dưới, sống bằng những chiêu trò bẩn thỉu, tham lam, nhũng nhiễu, bằng mọi giá, bất chấp lương trị và hậu quả chỉ để thực hiện tham vọng đê hèn và lợi ích cá nhân. Đáng tiếc thay, hiện chúng lại đang là "một bộ phận không nhỏ" trong bộ máy quyền lực.

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015

Nguyễn Đức Sơn - Lão quái dị trên đồi Phương Bối

Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp cỏ hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô.
(Nguyễn Đức Sơn - Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi)

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn được người đời phong hiệu là ba kỳ nhân trong làng văn nghệ Miền Nam trước năm 1975 cùng với Bùi Giáng và Phạm Công Thiện. Cuộc đời của ông dị thường giống như những nhân vật quái dị trong kiếm hiệp Kim Dung. Họ quái dị không phải chỉ ở ngoại hình, động tác mà chủ yếu là ở cách sống và hành xử không giống ai, đi ngược lại lẽ thường của cuộc sống.
Nếu như trong Tiếu ngạo giang hồ nhân vật Tiêu tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, thân là chưởng môn phái Hành Sơn, nhưng luôn xuất hiện với bộ dạng một người ăn mày gầy gò đau khổ, chơi một cây dao cầm cũ kỹ và miệng luôn hát bài Tiêu tương dạ vũ, ông được xưng tụng là “cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm âm” (Trong đàn giấu kiếm, kiếm phát tiếng đàn), võ công lợi hại nơi chốn giang hồ. Nói như nhà văn Vũ Đức Sao Biển “Con người quái dị ấy thoạt ẩn thoạt hiện, mang phong cách của một đạo gia Lão Trang, ung dung tiêu sái giữa cuộc đời. Duy có tiếng đàn và điệu ca Tiêu Tương dạ vũ của tiên sinh luôn luôn trĩu nặng nỗi u buồn, chưa thoát khỏi vòng hệ luỵ của cuộc sống, như dòng nước có đi mà không bao giờ có lại. Mạc Đại là hình ảnh tiêu biểu của một thứ trích tiên bị đoạ”. (1)
Cuộc đời nhà văn Nguyễn Đức Sơn cũng kỳ dị tương tự như vậy. Ông sinh năm 1937 tại làng Dư Khánh, tỉnh Ninh Thuận. Từng theo học Đại học Văn khoa Sài Gòn nhưng nửa chừng bỏ học, làm thơ sớm với bút hiệu Sao Trên Rừng, còn trẻ nhưng chớm hoài nghi và thắc mắc những câu hỏi siêu hình. Trước năm 1975 ông mưu sinh bằng nghề dạy kèm ngoại ngữ, ở trong chùa Tây Tạng, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Kết hôn với cô Nguyễn Thị Phượng, cháu của sư trụ trì chùa, Phượng là cháu mồ côi đẹp như Đầm Lai, nên bạn bè thường gọi là Phượng lai.
Sau năm 1975, ông thất nghiệp, không thể dạy kèm tiếng Anh vì không ai học, thời gian ấy tiếng Nga đang là mốt thời thượng, ngự trị tất cả các trường trung học, đại học, tôi nhớ hầu như các giáo sư dạy tiếng Anh và tiếng Pháp chính qui đều bị thất sủng, giảm biên chế hay chuyển sang các công việc khác, như làm văn phòng, thư viện thì thầy giáo dạy kèm tiếng Anh như ông thất nghiệp là việc đương nhiên. Sống lây lất mấy năm tại Bình Dương, đến năm 1979 ông dẫn cả nhà lên ngọn núi Phương Bối, Lâm Đồng, sinh sống. Thời ấy, sống trên dãy núi Đại Lào hẳn nhiên mưu sinh bằng nghề làm nương làm rẫy. Hãy tưởng tượng một người đàn ông ốm yếu với chiếc xe đạp cọc cạch, hàng ngày thồ đống củi gần 10 cây số đến chợ làng bán để nuôi đàn con nheo nhóc 9 đứa và một người vợ ốm yếu thì cuộc sống của ông cùng quẫn và nhếch nhác đến mức nào. Nhiều người, lên án ông đã để con mình thất học. Theo tôi, có lẽ vì một lý do nào đó nên một thầy giáo, một nhà thơ như ông lại chủ động không cho con mình đi học, không cho con mình bén máng đến chốn bụi trần, sống xa lánh tách biệt với xã hội, đi ngược lẽ thường của cuộc sống là một lý do chẳng đặng đừng, nhưng cái thế bắt buộc phải vậy. Từ đó, gia đình ông ăn chay trường, con ông hầu như đều tu tại gia, trong các am thất trên núi, giai đoạn đói khát một người con trai của ông hái trúng nấm độc, ăn và chết, gây cho ông một cú sốc.
Nhà thơ Nguyễn Đức SơnDân trong vùng Đại Lào đồn thổi ông là người quái dị, ham đọc sách nhưng lại đối xử hà khắc, gia trưởng với vợ con, đêm về nghe tiếng ông hò hét vang xa khắp rừng thông. Tính ông ngông cuồng, nói chuyện chửi bới, văng tục một cách tự nhiên trước mọi người, không kể bất cứ ai, còn thích làm trò khỉ, banh mồm, nhăn răng, trợn mắt. Ông sống riêng một mình trong một tịnh thất nhỏ làm bằng gỗ, chưa có bất cứ người nào bước chân vào, vì ông đái chung quanh góc nhà nói là để diệt mối. Những chi tiết này, làm tôi nhớ đến những dị nhân sống trong các tịnh cốc kiếm hiệp Kim Dung. Thực hư cuộc đời của ông ra sao tôi không biết, nhưng với riêng tôi, người có tâm hồn nâng niu từng bước chân con đi, dõi theo từng bước con lật tập phải là người có tình cảm sâu lắng, tuy bên ngoài bao giờ ông cũng hành xử trái ngược với lòng mình, tâm hồn ông là một trời mâu thuẫn, hãy xem ông nhìn con tập lật:
Nắm tay lật úp đi con
Co thân tròn trịa như hòn đá lăn
Muốn cho đời sống không cằn
Tập cho quen mất thăng bằng từ đây
(Nhìn con tập lật)

Xem cha đốt cỏ ngoài rừng
Nâng niu mẹ ẵm theo mừng không con
Có vài chiếc lá còn non
Gió xua lửa khói nổ giòn trên không
Nắng tà trãi xuống mênh mông
Bước theo chân mẹ cha bồng hư vô
(Đốt cỏ ngoài rừng)

Ngày xưa, trong bài Mai kia ông từng viết
Mai kia tan biến hận thù
Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông
Cha về ôm cả biển sông
Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho con cha hứa một lời
Đuổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu nào tóc bạc òa bay
Có con chỉ trỏ mới hay tuổi già
Cúi hôn trời đất đậm đà
Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên

Thời thế đổi thay, ông có biết rằng ngày sau, con ông sẽ nghĩ về ông như thế nào khi cho con hình hài và cuộc sống như vậy.
Trong Mùa hạ, về Phương Bối, Hàm Anh viết:
(Phương Bối Am là một vùng đồi rộng ở Bảo Lộc từ Sài Gòn đi quốc lộ 20 lên Đà Lạt, qua cầu Đại Lào, bên tay trái, đi sâu vào xã Lộc Châu tới con dốc dẫn lên một vùng đồi rộng là Phương Bối Am. Thầy Nhất Hạnh đã xây một thiền thất giữa đồi thông mênh mông, thơ mộng ấy. Sau năm 1975, ngôi nhà bị sập, cả vùng đồi tan hoang, chỉ còn lại cái bể cạn lớn, khô nước, trơ bốn vách tường xi măng). Sơn đã đưa gia đình lên đó, che cái mái tranh, vách ván, cả nhà chui vào ở. Sơn, Phượng vợ Sơn cùng chín đứa con, bảy trai hai gái: Thạch, Vân, Thảo, Thủy, Không, Lão, Yên, Phương Bối, Tiểu Khê...” Những đứa trẻ lớn lên cũng hoang dại như núi rừng, không cách chi sinh sống được, nên tất cả đều lần lượt được gửi vào nương náu nơi cửa chùa. Ngoại trừ Thạch đã có cuộc sống riêng và cắt đứt liên hệ với gia đình, Thảo nằm kia từ lâu lắm, nấm mồ chơ vơ trên ngọn đồi yên ả mây bay. Vân từ chối cơ hội sang Pháp tu học, tạm quay về để gom tất cả bốn người em trai, nuôi ăn học lại dưới một mái nhà tại chân Phương Bối, trong đó Thủy đang theo học cao cấp Phật học tại Sài Gòn. Yên, Không, Lão rời chùa về nhà theo thế học”. (2)

Và Phượng, người đàn bà đẹp một thời, nay tiều tụy xanh xao vẫn một lòng lặng lẽ bên ông như một cái bóng, chấp nhận cùng ông đi suốt cuộc đời cơ cực.
một ngày đau khổ chín trong tôi
tôi đến bên cây lẳng lặng ngồi
cây thả trái sầu trên nước lắng
mặt hồ tan vỡ ánh sao trôi

thôi nhé ngàn năm em đi qua
hồn tôi cô tịch bóng trăng tà
trời sinh ra để chiều hôm đó
tôi thấy mây rừng bay rất xa
(Tôi Thấy Mây Rừng)

Một đêm trăng mờ ảo
anh tìm về thăm em
phố buồn như hoang đảo
gió ngừng ru bên thềm
ánh đèn sao le lói
căn phòng sao đìu hiu
anh lặng người thầm hỏi
kiếp người sao tiêu điều

anh đi vòng sau nhà
một mình như bóng ma
giật mình anh nghe thấy
có tiếng gì bay xa

rồi đêm trăng mờ ảo
anh lại về thăm em
như lá vàng lảo đảo
anh lui về trong đêm
(Đêm Thu)


Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn là bậc tiền bối, tôi là kẻ hậu sinh không cùng thế hệ, lại chưa đọc hết những sáng tác của ông, nên không dám bình luận, chỉ biết rằng ngày xưa ông được làng văn sắp xếp là một trong tứ trụ thi ca của miền Nam cùng với Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên chắc chắn phải có được sự cảm phục của nhiều người trong văn giới, vì ngày ấy nếu không có thực tài thì không ai công nhận.
Nhà văn Võ Phiến, đã có nhận xét độc đáo về Nguyễn Đức Sơn:
"Hầu hết những ai bắt đầu xun xoe vào làng văn đều muốn tỏ ra khác người, nghĩa là ngông nghênh. Để có thể tha thứ những bậy bạ hư hỏng ở một kẻ nào, ta tắc lưỡi kêu: hắn trót có tí "máu văn nghệ" trong người. Trong đám văn nghệ với nhau thì nhố nhăng nhất phải thú thật là những chàng thi sĩ. Một nhà nho như ông Tản Đà mà để xứng danh thi sĩ ông cũng làm trò con nít: gửi thư lên chị Hằng, gánh thơ đi bán chợ trời v.v..Còn Chế Lan Viên thì thấy trăng sáng vội kêu: "Ta cởi truồng ra, ta cởi truồng ra " Nguyễn Đức Sơn không cần phải làm như thế. Hãy xem cốt cách của ông: điềm nhiên giản dị hơn biết bao:

đầu tiên tôi thở cái phào
bao nhiêu phiền não như trào ra theo
nín hơi tôi thở cái phèo
bao nhiêu mộng ảo bay vèo hư không...
(Một mình nằm thở đủ kiểu trên bờ biển )

Cứ thế ông thở "đủ kiểu. Rồi qua một bài thơ khác ông lại "khoái trí nằm thở nữa". Một đằng cố gắng làm ra lạ đời nên phải cởi truồng, phải chọc trời ghẹo trăng cho to chuyện; một đằng vốn có bản lĩnh tự nhiên, nên chỉ nằm mà thở thong thả cũng đủ độc đáo chán. Trong thơ, ta đã mấy ai nghe những tiếng thở cái phào cái phèo ngang tàng như vậy? (Nhất là đọc cho đến hết bài "thở đủ kiểu" ta giật mình thấy không phải đó là cái ngông vô cớ, ta không ngờ những hơi thở ấy lại đưa ta đi xa đến thế.) Khi Chế lan Viên muốn cho khác thường, ông đòi: "Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh", còn Nguyễn Đức Sơn thì chẳng xin một tinh cầu nào, cứ việc nằm ngay trên bờ biển mà vọc c... Khi Chế Lan Viên muốn tỏ ra ngông, ông đòi cởi truồng để tắm trăng; còn Nguyễn đức Sơn thì lại lăn cù trên bờ biển, rồi ngủ quên trên bờ biển, nửa khuya bị mưa ướt, thức dậy tự hỏi mình: "đã đời chưa con?” (3)
Thời trẻ, ông kiêu hãnh, xác định thế đứng của mình bằng cách tự chủ trương tờ “Mặt Đất”, trên trang 1 số 1, tháng 11-1965 ông viết :” Đấu trường của bọn trẻ tự động và ý thức nhất. Chủ trương biên tập Nguyễn Đức Sơn, vô gia cư, vô nghề nghiệp, vô địa táng. Tòa soạn lưu động tất hữu, và trường kỳ. Hiện tại không có địa chỉ liên lạc”. (4)
Với những lời thơ cao ngạo:
Tao viết văn làm thơ
Cho tụi bây quăng viết
Mặc dù tao không đời nào thèm giết
Những cái thứ cà rơ
(Thì ra)

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn là tổng hợp của những nghịch lý, nơi ông không chỉ có những vần thơ ngông, với lối viết trịch thượng mà ông còn là một nhà thơ xuất thần với những vần thơ đẹp
rồi mai huyệt lạnh anh về
ru nhau gió thổi bốn bề biển xưa
trăng tà đổ bóng cây thưa
mộng trần gian đã hái vừa chưa em
(Tịch Mạc)

Một lần tình cờ xem phóng sự trên tivi về người trồng thông trên Đại Lào - Lộc Châu - Lâm Đồng, hình ảnh một ông già gầy gò nhanh nhẹn chống gậy đi trên đồi thông, ngày ấy, tôi không biết đó là nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, vì người ta chỉ giới thiệu là người gìn giữ những đồi thông và tự mình trồng ngàn cây thông trên Đại Lào. Nghe nói, ông đã từng bị thương khi bảo vệ tới cùng một tổ chim trên cây rừng Phương Bối do đám người có hung khí tới phá phách.
Nếu không có quỷ ma
Khó bề thấy được Phật
Đó là sự thật của trái đất
Nhưng nghĩ cho cùng tất cả đều trật lất
(Tất Cả Đều Trật Lất)

Hơn ba năm trước, trong một lần tôi đi Đà Lạt tham dự triễn lãm phòng tranh của họa sĩ Đinh Cường, ngày ấy đến tham dự có Bửu Ý ở Huế, vợ chồng anh Nguyên Minh - chị Lan, anh Trương Văn Dân - Elêna ở Sài Gòn, anh chị Lữ Kiều - Thanh Hằng, trong căn nhà trên đỉnh dốc cheo leo giữa rừng chiều, lần đầu tiên tôi biết đến tên nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, khi các anh bàn đi thăm Sơn Núi ở Bảo Lộc, lúc đó tôi chỉ biết ông là một người bạn của các anh, một nhà thơ trước năm 1975 lập dị sống xa lánh mọi người, không muốn tiếp xúc xã hội, thoát tục như Lão Trang.
Những bài thơ ông viết mang mang chất thiền :
một đêm sao ở trên rừng
đua nhau rụng xuống chào mừng nhân gian
hồn tôi cây cối liên hoan
rưng rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ
tuổi vàng suối mộng trời thơ
lớn lên tôi chết trên bờ hư không.

(Trên bờ hư không)
Lão du sĩ trên núi Phương Bối ngày này vẫn sống trong mộng, canh giữ rừng thông, như ngày xưa trong một bức thư viết cho cha (5)
Sáng mênh mông
Ta đi thơ thẩn trong vườn hồng
Ô bông, ồ mộng, ồ không.

Bây giờ lão vẫn mộng, nhưng là mộng trên đồi thông với tình yêu màu xanh bất diệt.
Trên những con đường xinh tươi nhất
Tôi đi và hát một mình
Rừng cây xanh và rừng cây xanh
Trời trong xanh và mây trong xanh
Trên đồi cây xanh dưới đồi cây xanh
Tôi dừng lại để nghe chim hót
Và theo điệu riêng tôi lại hát
Cho rừng thêm xanh cho ngày thêm xanh
...
Tôi thấy đời như đang bé dại...

Mặc người đời đua nhau nơi chốn phồn hoa, thêu dệt nhiều giai thoại, xem ông như một “con quỷ làm thơ” (6), Nguyễn Đức Sơn, lão quái dị trên rừng Phương Bối, ngày ngày vẫn thong dong với trời thơ của riêng mình, một mình một cõi ta bà.
-------------------
(1) Vũ Đức Sao Biển, “ Kim Dung giữa đời tôi”
(2) Đinh Cường, “Nguyễn Đức Sơn - ngọn lửa tịch mịch” tr45, TC Quán văn số 24
(3) Tràng Thiên. “Nguyễn Đức Sơn “, tr 81-82, SĐD
(4) Trần Hoài Thư, “Có một thời... trích 1 đoạn về Nguyễn Đức Sơn”, tr 51, SĐD
(5) Đinh Cường, tr 44 SĐD
(6) Cách nói của nhà văn ĐPP

*Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Ban Mai


Tiểu sử:
Ban Mai, bút  hiệu của thạc sĩ văn chương Nguyễn Thị Thanh Thúy, hiện làm việc tại trường Đại học Quy Nhơn.
Đã có bài viết trên các tạp chí Văn học, Hợp lưu, Quán Văn; các trang web talawas, damau, hopluu, baotre, vanchuongviet…
Đã xuất bản tập chuyên luận Trịnh Công Sơn Vết Chân Dã Tràng, NXB Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ ĐôngTây; Hà Nội 2008; Tái bản tại Hoa Kỳ năm 2010.

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

Bản Hiến chương các nhà giáo – The Teachers’ Charter

HM Blog. Bản dịch của bạn đọc Trạch Văn Đoành. Xin cảm ơn tác giả của bản dịch rất nhiều. Thú nhận là tôi lần đầu đọc Hiến chương này. Giống như CN Mác Lê, nhiều bà con cứ nghe nói trên đài, tivi oang oang nhưng chẳng biết có nội dung như thế nào.

Lời nói đầu của người dịch. Bác Ly có gợi ý Đoành sau khi dịch bản hiến chương các nhà giáo nên post lên Hang cua. Lúc đầu Đoành định đăng bản dịch này như một còm nhưng thấy rằng tài liệu này khá lớn, lại có rất nhiều chuyện có thể bàn được nên gửi thẳng cho Tổng Cua để xem xét làm một entry.
Cứ theo hiến chương này thì ta sai toét, sai từ đầu tới cuối, từ trường chuyên lớp chọn, đến sách giáo khoa, từ kỷ cương học đường đến lương bổng. Có những điều có lẽ phải đợi 100 năm nữa sau khi có CNXH phát triển (như bác Tổng Trọng hy vọng) may ra mới làm được ví dụ như giáo viên có quyền đi nước ngoài tham quan trao đổi hay được đãi ngộ thỏa đáng để không bao giờ phải lo về cơm áo gạo tiền.
Có những chuyện rất “phản động” ví dụ quyền tự do tư tưởng của các nhà giáo quá lớn. Có lẽ phải gửi cho  đồng chí 3D một bản  để đ/c biết và chỉ đạo Bộ học thi hành cái điều mà họ long trọng ký từ 1957.
Lưu ý rằng bản hiến chương này được ký tại Liên Xô năm 1954 nên thời ấy, nước Đại Việt ta không thể không ký dù biết nhiều thứ không thể làm được. Có phải vì thế mà mấy chục năm nay ta cứ im ỉm không công bố nội dung hiến chương này?
Có nhiều điều từ bản hiến chương này nên đưa vào thành lời thề của các nhà giáo giống như lời thề Hippocrates.
Tôi phải gõ lại cả bản tiếng Anh từ bản in roneo của UNESCO để các còm sỹ đối chiếu vì một vài chỗ tôi cũng tự cảm thấy chưa thật ổn.

The Teachers’ Charter – Hiến chương các nhà giáo

Moscow, 9-11 August 1954
The Joint Committee of  International Teachers Federations, at its nineteenth meeting held in Moscow on 9, 10 August 1954, unanimously adopted the Teachers’ Charter and the following resolution:
Maxcova, ngay 9-11 tháng 8 năm 1954
Ủy ban hỗn hợp Liên đoàn quốc tế các nhà giáo, tại cuộc họp thứ XIX được tổ chức tại Maxcova vào ngày 9, 10 tháng 8 năm 1954, đã nhất trí thông qua Hiến chương Nhà giáo với nội dung như sau:
————————————————————
PREAMBLE
Teachers have an important function to perform in society since the education of children is vital, not only for development of the individual, but also for the progress of society. The teaching profession imposes upon its members responsibilities which should carry corresponding rights. Teachers are entitled to exercise freely full civic and profession rights.
Accepting as their aim the development of the child’s individual personality, teachers must respect their pupil right to freedom of thought and encourage in them the development of independent judgment.
LỜI MỞ ĐẦU
Các nhà giáo phải thực hiện một chức trách quan trọng trong xã hội vì giáo dục trẻ em là một vấn đề cốt tử,  không chỉ cần cho sự phát triển cá nhân, mà còn cho sự tiến bộ của toàn xã hội. Nghề giảng dạy đặt cho người thày những trách nhiệm, mà những trách nhiệm này đòi hỏi có những quyền tương ứng. Các giáo viên cần có quyền dân sự một cách đầy đủ và quyền tự do hành nghề.
Chấp nhận việc phát triển tính cách cá nhân của trẻ như mục tiêu của giáo dục, giáo viên phải tôn trọng quyền tự do tư tưởng của học sinh và khuyến khích học sinh phát triển tư duy độc lập .
————————————————————
Article 1. The essential duties of the teacher are to respect the individuality of the child,  discover and develop his abilities, to care for his education and training , to aim constantly at shaping the moral consciousness of the future  man and citizen, and to educate him in a spirit of democracy, peace, and friendship between peoples.
Điều 1. Nhiệm vụ thiết yếu của giáo viên là phải tôn trọng tính cá nhân của trẻ em,  khám phá và phát triển khả năng của trẻ em, chăm lo sự nghiệp giáo dục và đào tạo, luôn luôn hướng tới việc hình thành ý thức đạo đức của con người và công dân tương lai, giáo dục trẻ trong một tinh thần dân chủ, hòa bình và hữu nghị.
———————————————————————-
Article 2. The right of the teacher are independent of sex, race and colour, and of his personal beliefs and opinion, provided always that he does not impose his beliefs and opinion upon the child.
No teacher should be penalized for educating his pupils in accordance with his duties as defined in Article 1.
Điều 2 . Quyền của giáo viên không phụ thuộc vào giới tính, chủng tộc, màu da, không phụ thuộc vào niềm tin và ý kiến cá nhân, miễn là giáo viên không áp đặt niềm tin và ý kiến ​​của mình cho trẻ em.
Giáo viên không bị phạt nếu việc giáo dục học sinh tuân thủ các quy định ở Điều 1.
———————————————————————–
Article 3. Teachers are entitled to have agreements embodying safeguards against arbitrary decision affecting their tenure of office, and their professional life. In particular safeguards should be provided against arbitrary decisions on recruitment, probation, appointment, promotion, disciplinary measures dismissal.
Điều 3. Giáo viên có quyền có các thỏa thuận về các biện pháp bảo vệ họ chống lại quyết định tùy tiện ảnh hưởng đến nhiệm kỳ làm việc và cuộc sống nghề nghiệp. Cụ thể, các biện pháp bảo vệ cần được đảm bảo để chống lại các quyết định tùy tiện về tuyển dụng, quản chế, bổ nhiệm, đề bạt, hay các biện pháp kỷ luật đuổi việc.
————————————————————————
Article 4. In matters which concern the school curriculum and educational practice, the pedagogical and professional liberty of teacher must be respected and their initiative encouraged, particularly in the choice of teaching methods and textbooks, and through the participation of their representatives in the study of pedagogical and professional problems.
Điều 4. Liên quan đến chương trình học và thực hành giáo dục, sự tự do sư phạm và tự do chuyên môn của giáo viên phải được tôn trọng, các sáng kiến ​​cần được khuyến khích, đặc biệt là lựa chọn phương pháp giảng dạy và sách giáo khoa thông qua sự tham gia của đại diện giáo viên trong việc nghiên cứu các vấn đề sư phạm và chuyên môn.
—————————————————————–
Article 5. Teachers should have the right freely to join professional bodies, and such bodies should be entitles to represent them on all occasions.
Điều 5. Giáo viên phải có quyền tự do tham gia tổ chức nghề nghiệp và các tổ chức như vậy nên làm đại diện cho giáo viên trong mọi hoàn cảnh.
—————————————————————–
Article 6. All Teacher should have the right to academic and professional training of the highest possible standard, the educational requirement for university entrance being included. Social and financial circumstances should not debar a student from training for teaching.
Điều 6. Tất cả các giáo viên phải có quyền được nâng cao trình độ về mặt học thuật và chuyên môn theo các  tiêu chuẩn cao nhất có thể, kể cả yêu cầu được học để có thể vào học ở bậc đại học. Hoàn cảnh xã hội và tài chính không được trở thành một rào cản để ngăn cấm một sinh viên được học để trở thành giáo viên.
—————————————————————–
Article 7. Teachers should have the opportunity to continue their professional education. They should have the right to take part in supplementary course, and have the necessary financial assistance to do so; in particular special facilities for travel and foreign exchange should be available to enable them to get first-hand knowledge of the life of their own and of other countries.
Điều 7. Giáo viên cần được tạo cơ hội để tiếp tục học nâng cao trình độ chuyên môn. Họ có quyền tham gia các khóa học bổ trợ với sự hỗ trợ tài chính ở mức cần thiết, kể cả việc  tạo điều kiện đặc biệt để giáo viên có thể tham quan, trao đổi ở nước ngoài giúp họ có kiến ​​thức thực tế trong cuộc sống riêng (trong nước) và ở nước ngoài.
—————————————————————–
Article 8. Teachers are entitled to salaries corresponding to the importance of their social and educational function and such as to enable them to devote themselves entirely to their profession without financial anxiety.
For teacher with equal qualifications and length of service, the principle of equal pay for equal work should be recognized without discrimination.
Điều 8. Giáo viên được hưởng tiền lương phù hợp với tầm quan trọng của chức năng xã hội và giáo dục để có thể cống hiến hoàn toàn cho nghề nghiệp mà không phải lo lắng về tài chính.
Đối với giáo viên có trình độ ngang nhau và thời gian làm việc ngang nhau, nguyên tắc trả lương công bằng cho công việc như nhau cần được công nhận, không phân biệt đối xử.
—————————————————————–
Article 9. Teachers are entitled to holidays with pay for a period corresponding to the full school holidays, sick leave with pay and adequate pension scheme, which includes provision for widow, children and dependants.
Điều 9. Giáo viên được nghỉ có lương trong toàn bộ thời gian nghỉ của trường học, được nghỉ ốm có lương và hưởng chế độ trợ cấp đầy đủ, kể cả trợ cấp cho góa phụ, trẻ em và người phụ thuộc.
—————————————————————–
Article 10. Teacher are entitled to carry on their work in suitable premises, equipped with the necessary apparatus and materials, and in classes small enough for effective teaching.
Điều 10. Giáo viên có quyền được làm việc trong điều kiện thích hợp, với các trang thiết bị cần thiết và quy mô các lớp học đủ nhỏ để giảng dạy hiệu quả.
—————————————————————–
Article 11. The equipment of a school should not depend upon the social status of the pupils, nor on the type of school, but upon educational needs.
All school should be provided with suitable accommodation to enable qualified staff to carry out the special services entrusted to them, e.g. medical and dental care, school meals and physical education. They should also be provided with laboratories, workshops and libraries.
Điều 11. Việc trang bị cho trường học không nên phụ thuộc vào địa vị xã hội của học sinh, cũng không phụ thuộc vào loại trường học, mà chỉ phụ thuộc vào nhu cầu giáo dục.
Tất cả các trường học cần được cung cấp phương tiện ăn ở thích hợp để tạo điều kiện có đội ngũ nhân viên tốt, có thể đảm nhiệm được các dịch vụ chuyên biệt được giao như chăm sóc y tế và nha khoa, cung cấp bữa ăn tại trường và giáo dục thể chất. Trường học cũng cần có các phòng thí nghiệm, phòng hội thảo và thư viện.
—————————————————————–
Article 12. The school should contribute to the development of character. A humane discipline in keeping with the self-respect of both pupil and teacher, should exclude coercion and violence.
Điều 12 . Nhà trường cần đóng góp vào sự phát triển nhân cách. Một nguyên tắc nhân đạo,  phù hợp với lòng tự trọng của cả học sinh và giáo viên, là phải loại trừ áp bức và bạo lực.
—————————————————————–
Article 13. Maladjusted children should be taught in special classes with a view to fitting them as soon as possible to enter ordinary classes and normal life.
Children whose physical handicaps prevent them from participating in ordinary school life should be educated in special schools by method suited to their special needs and disabilities.
Điều 13 . Trẻ em lệch lạc về hành vi (trẻ em cá biệt) cần được giảng dạy trong các lớp học đặc biệt nhằm điều chỉnh càng sớm càng tốt để các em có thể vào lớp học bình thường và có cuộc sống bình thường.
Trẻ em khuyết tật về thể chất không thể tham gia vào hoạt động học đường bình thường cần được giáo dục trong các trường đặc biệt, bằng các phương pháp phù hợp với nhu cầu đặc biệt và tình trạng khuyết tật của họ.
—————————————————————–
Article 14. Provision should be made for educational research in classes or schools where experiments in methods may be tried under suitable conditions, so that the progress of educational practice and theory may be advanced. An information service should be available to make the results of research known.
Điều 14. Phải cung cấp các nguồn lực để tiến hành nghiên cứu giáo dục tại các cơ sở giáo dục, nơi mà việc thực nghiệm khoa học khả dĩ tiến hành được trong các điều kiện thích hợp, sao cho có thể đẩy mạnh các tiến bộ của lý thuyết và thực hành về giáo dục. Cần có dịch vụ thông tin để công bố các kết quả nghiên cứu.
—————————————————————–
Article 15. Through their chosen representatives teachers should have the opportunity of shaping policy to improve the administration of schools and the practice of their profession.
Điều 15 . Thông qua đại diện được chọn, giáo viên cần có cơ hội để xây dựng các chính sách để cải thiện hoạt động quản lý các trường học và hành nghề.
—————————————————————–
(Unanimously adopted)
Delegates of the constituent Federations of the Joint Committee of International Teachers’ Federation.
(Đã nhất trí thông qua)
Đại biểu của Liên đoàn thành viên của Ủy ban hỗn hợp Liên đoàn Quốc tế các nhà giáo
Tài liệu gốc tại đây. Cảm ơn Xôi Thịt đã sưu tầm và giới thiệu.


Xin các bác 5 sao (*) trong phần đánh giá để cảm ơn bác Trạch Văn Đoành, tên nghe như súng liên thanh, dù đọc văn dịch, đoán ngoài đời, ông này chắc cũng…hiền và sợ vợ :)