Trang

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2016

Ai là người đầu tiên thám hiểm và tìm ra Đà Lạt?

1.1. Thành phố Đà Lạt khá khác xa Hà Nội và Huế. Đà Lạt trẻ đẹp, có dáng dấp một thành phố Âu châu, và phát triển trong giai đoạn Việt Nam mất chủ quyền về tay sai thực dân Pháp. Do đó tuy mới 100 năm mà lịch sử Đà Lạt khá mù mờ ở giai đoạn đầu. Nhiều người đều nghĩ rằng bác sĩ Yersin là người đầu tiên thám hiểm và tìm ra Đà Lạt. Nhưng thực tế lịch sử có phải như vậy không? 
1.2. Từ năm 1902, Đà Lạt được nhắc tên trong bài "Bình Thuận" trong tập san Viễn Đông Bác Cổ (B.E.F.E.O) của tác giả Aymonier. Đến năm 1953, năm xuất hiện Monographie de Dalat của Tòa thị chính Đà Lạt, hầu hết các tác giả viết về lịch sử Đà Lạt đều cho rằng bác sĩ Yersin là người đầu tiên thám hiểm cao nguyên Lang Bian và tìm ra Đà Lạt. Từ sau 1960 đến ngày nay, rải rác trên sách báo, có người cho rằng trước bác sĩ Yersin, có một người Việt Nam đã thám hiểm Lang Bian. Người đó là Nguyễn Thông. Gần đây nhất, tháng 8-1984, trên tạp chí Cộng sản số 8-1984, trang 66, Trương Quốc Minh xác định: "Nguyễn Thông thám hiểm cao nguyên Lâm Viên trước khi thực dân Pháp mò đến đây...". Dù có xác định như trên, các nhà nghiên cứu vẫn chưa trưng ra được bằng chứng khoa học. Bài viết chúng tôi tóm tắt chương trình nghiên cứu bước đầu về "Cao nguyên Lâm Viên, Đà Lạt với Yersin và Nguyễn Thông". Do số trang có giới hạn của bài báo, chúng tôi chỉ nêu một số điểm chính của công trình và nghĩ rằng vấn đề Nguyễn Thông là người đầu tiên thám hiểm Lang Bian và tìm ra Đà Lạt cần phải được nghiên cứu kỹ hơn nữa, cần được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội lưu tâm hơn nữa, bổ túc tài liệu nhiều hơn mới hy vọng giải quyết được ức thuyết. 
2.1. Những điểm phải hoài nghi trong các tài liệu viết bằng Pháp văn từ năm 1902 đến năm 1953 cho rằng bác sĩ Yersin là người đầu tiên thám hiểm cao nguyên Lang Bian và tìm ra Đà Lạt. Những bài viết thống nhất rằng "bác sĩ Yersin, người đầu tiên thám hiểm Lang Bian" có rất nhiều. Chúng tôi chỉ nêu những tác phẩm chính mà giới nghiên cứu lịch sử thường lưu ý như Bình Thuận của Aymonier trong BEFEO (2/1902), Le Lang Bian của JJ. Vassal trong Revue Indochinoise (52-54/1907). Từ năm 1941 đến 1944, vấn đề được thường xuyên nêu trên báo với các tác giả: P. Munier, N. Berland, Yersin, André Morval, J. Cassaigne, P. Andelle, A. Berjoan, Genevray, Baudrit, Henri Jacotot. Năm 1949, E. Tardiff viết một công trình lớn 500 trang về Đà Lạt xuất bản tại Vienne. Năm 1953, Noel Bernard viếtYersin - pionnier - savant - explorateur như là một tổng kết về Yersin là người duy nhất thám hiểm Lang Bian, tìm ra Đà Lạt như Monographie de Dalat cũng xuất hiện năm 1953 khẳng định. 
2.2. Các nhà nghiên cứu Việt Nam về sau viết về lịch sử Đà Lạt thường dịch hoặc rút ngắn các tài liệu Pháp văn nói trên. Chúng tôi cũng tìm hiểu các tư liệu trên và chú ý nghiên cứu kỹ bài viết của Linh mục Cassaigne và năm bài viết của chính bác sĩ Yersin đăng trên Revue Indochine từ số 99/1942 đến số 103/1942 và bài phát biểu cảm tưởng cũng của bác sĩ Yersin năm 1953 trong dịp khai giảng trường Lycée Yersin (nay là trường Cao đẳng Sư phạm) được Noel Bernard và Genevray ghi lại nên có nhiều chi tiết khác nhau. Trong bài "Rencontre avec les pirates sur le plateau Moi" (Cuộc gặp gỡ những tên cướp trên cao nguyên Mọi) Revue Indochine số 100, tháng 7-1942) bác sĩ Yersin cho biết tại cao nguyên Dran bấy giờ có một toán cướp hoạt động do thủ lĩnh Thouk cầm đầu. Đây là một nhóm chính trị phạm đông đến 80 người đều là An Nam (Việt). Như vậy trước khi Yersin lên Lang Bian thì tại đây đã có một tổ chức người Việt. Bài "Les Mois de la région Djiring" (Revue Indochine số 131 năm 1943) (Người Mọi Di Linh) của Linh mục Cassaigne cho biết bác sĩ Yersin thám hiểm Lang Bian với một số người trong đó có Linh mục Robert và lên cao nguyên được là nhờ dùng bản đồ của người An Nam đã đi Lang Bian thời trước ở Bình Thuận. Người An Nam (Việt) theo Linh mục Robert là một quan lại triều đình Huế. 
Hai tài liệu trên chứng nhận: 
1) Trước khi Yersin đến Lang Bian, tại đây đã có người Việt ở, có tổ chức. 
2) Bác sĩ Yersin nhờ dùng bản đồ của một người Việt đã lên Lang Bian mới đến được đỉnh từ con đường Bình Thuận và đạt được mục đích mà phái bộ Pavie yêu cầu (1). 
Đó là hai cơ sở mà chúng tôi tìm tài liệu xa hơn và chúng tôi bắt gặp Nguyễn Thông qua những bài thơ, bài văn chứng nhận ông đã thám hiểm cao nguyên Lang Bian. 
3.1 Những cơ sở để chúng tôi xác quyết rằng Nguyễn Thông đã thám hiểm cao nguyên Lang Bian và tìm ra Đà Lạt - Lâm Đồng trước bác sĩ Yersin 25 năm: 
- Tài liệu xưa nhất viết về Đà Lạt - Lâm Đồng chỉ phác họa vài nét địa lý, lịch sử như: Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An (thế kỷ 16), Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn (thế kỷ 18). Hai tác giả này thỉnh thoảng có viết vài dòng về Đà Lạt - Lâm Đồng với cái tên như Sơn Động, Man Động. Theo Nguyễn Hữu Tranh (2): trong bộ Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi trong quyển 12 (tỉnh Bình Thuận) vài chữ về địa phương Lâm Đồng và dành phần lớn trang 12 và một phần trong trang 13 để giới thiệu Di Dinh thổ phủ... Và trên "Đại Nam thống nhất toàn đồ" in năm 1834, trên địa phận Đà Lạt - Lâm Đồng hiện nay, Phan Huy Chú có vẽ vài ngọn núi và hai con sông. Với các tài liệu dù ít ỏi ấy, Nguyễn Thông, một sử gia, cũng biết được đất nước Đại Nam còn có vùng đất xa xôi, bỏ hoang như vậy nên về sau do yêu cầu chống Pháp, ông đã thực hiện cuộc thám hiểm vùng đất ấy. Đọc tiểu sử của Nguyễn Thông chúng ta có thể xác minh sự kiện này.
3.2. Nguyễn Thông (1827-1884) quê ở Tân Thạnh, tỉnh Gia Định, sinh năm Đinh Hợi (1827) và mất năm Giáp Thân (1884) có tên chữ là Hy Phần, hiệu là Kỳ Xuyên, bút hiệu là Độn Am. Nguyễn Thông thi đỗ cử nhân, làm huấn đạo 6 năm, có làm việc ở Nội các Huế. Năm 1859, Pháp đánh thành Gia Định, Nguyễn Thông tình nguyện tòng quân diệt Pháp. Đầu năm 1861, quân ta thua ở Chí Hòa rút về Biên Hòa, rồi Biên Hòa bị chiếm, Nguyễn Thông đi xuống Long Thành vòng về Tân An, Gò Công tìm cách chống giặc, giúp cậu là Trịnh Quang Nghi mộ quân miền Nam kháng Pháp. Từ 1862 đến 1867 ông bôn ba khắp nơi, liên lạc với những người yêu nước tìm kế  chống ngoại xâm lâu dài. Có thể Nguyễn Thông lên cao nguyên Lâm Viên trong thời gian này. Năm 1868, 6 tỉnh miền Nam vào tay Pháp, Phan Thanh Giản tự tử, Nguyễn Thông cùng một số nghĩa phu "tị địa" ra Bình Thuận. Tại đây ông cùng một số bạn bè lại tổ chức thám hiểm các vùng cao nguyên La Ngư, Bà Dần. Sau đó ông gởi sớ về triều đình Huế xin khai khẩn Sơn quốc. Triều đình Huế chuẩn y lời đề nghị ấy, ông bắt tay vào làm việc nhưng thống soái Nam kỳ biết, gởi thư ra Huế phản đối buộc Tự Đức phải bãi bỏ công việc khai hoang của Nguyễn Thông. Sau đó Nguyễn Thông xin về hưu và từ đó, thường bị bệnh. Trong khoảng thời gian này, ít tài liệu cho biết rõ hành trạng của ông. Ông mất năm 1884, để lại nhiều tác phẩm văn học, sử học mà hiện nay chưa được sưu tập đầy đủ. Một số bài thơ, bài văn có liên quan đến cuộc thám hiểm Sơn quốc, vẫn còn nhiều nghi vấn, nhưng nhìn chung khá thống nhất minh chứng Nguyễn Thông đã đến một số vùng trong Sơn quốc rộng lớn mà tác giả phỏng đoán.
3.3. Trong bài viết "Thử tìm lại dấu vết người Việt trên đất Lâm Đồng", tác giả Nguyễn Hữu Tranh viết: "Trong thời gian làm dinh điền sứ tỉnh Bình Thuận (từ năm 1877 - 1880), Nguyễn Thông (1827-1884) - một sĩ phu yêu nước - đã đến vùng ranh giới giữa Lâm Đồng và Thuận Hải và đã làm thơ... (tlđd)". Theo chúng tôi, Nguyễn Thông lên Lâm Đồng nhiều lần nhưng lần đầu khoảng thời gian từ 1862 đến 1867 vì thời gian này Nguyễn Thông tham mưu cho Trương Định tính kế chống Pháp lâu dài, phải tìm một căn cứ địa vững chắc như Lam Sơn của Lê Lợi - Nguyễn Trãi, như Tây Sơn của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ. Do quen với Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông biết lực lượng của Pháp, muốn đánh thắng chúng phải có kế hoạch lâu dài, phải có khu kháng chiến vững chắc. Sơn quốc (trong đó có Đà Lạt - Lâm Đồng) là nơi dự tính nuôi quân thích hợp thời ấy. Trong một đoạn thơ Nguyễn Thông đã bày tỏ:
 Tự phi hữu sở cầu 
Thùy khẳng lý hiểm gian? 
Ngũ bối Nam lai giả 
Hồ vi cầu tê phan? 
Huống văn la giang thượng 
Hoàn cư giai Chiêm Man 
Thiên hộ tấu lung tục 
Cư năng đắc sơ hoàn? 
Thực biện vi khả kỳ 
Hóa lậu thành diệc nan 
Cư di niệm thánh ngữ 
Vị nhiên phát tràng than. 
Dịch:
"... Nếu không điều cần thiết 
Vào chốn hiểm làm gì? 
Lần cây và vịn đá 
Rời miền Nam cùng đi 
Miền trên sông La ấy 
Chàm Thượng sống bao vi 
Làm sao vui lòng họ? 
Dù có nhạc cùng thi 
Biên cương chưa hứa vững 
Lạc hậu còn xiết chi! 
Bùi ngùi thầm than thở 
Nhớ lời dạy "cư di". 
Qua thơ Nguyễn Thông, chúng ta thấy ông nhắc nhiều lần sông La Ngư. Có nhà nghiên cứu cho đó là sông La Ngà ngày nay. Đọc những bài thơ, đoạn văn của Nguyễn Thông tả sông La Ngư chúng tôi thấy sông La Ngư là sông liên kết ba nhánh La Ngà, Đa Nhim, Đạ Đờn. Về dòng sông này, tác giả Nguyễn Hữu Tranh viết: "... Trong bộ Đại Nam Nhất Thống Chí, phần giới thiệu Di Dinh thổ phủ cho biết một dòng sông "Tây hữu Dã Dương giang bất thâm nhi quãng, trung đa ngạc ngư" (ở phía tây có sông Dã Dương không sâu mà rộng, trong đó có nhiều cá sấu). ở Lâm Đồng hiện không có con sông nào mang tên Dã Dương. Chắc chắn các soạn giả bộ địa lý muốn nói đến con sông Đạ Đờn vì trên một số bản đồ dòng sông này được viết là Đa Dung và trong quyển tự điển Sré (Kơho) - Pháp Jacques Dournes có định nghĩa: Daa: nước; Daa Dong: con sông" (tlđd). 
Ở một bài thơ khác Nguyễn Thông có viết: 
"Tịnh mã xuyên lam khích 
Lâm thâm đoạn nhân tích 
Dao văn, kê khuyến thanh 
Tư hữu thô man sách?" 
Dịch: 
"Cỡi ngựa lần cây thưa 
Rừng sau hút mịt mù 
Tiếng gà gáy chó sủa 
Làng thượng gần hay xa?" 
Nguyễn Thông tả những cơn mưa miền núi khá đặc biệt: khi ầm ầm kinh thiên địa, khi thì rả rích thâm canh: 
"Na tu đãn vũ man yên địa 
Thượng hữu giang hồ lão khách tinh" 
Dịch: 
"Ngờ đâu xứ thượng mù mây phủ 
Gặp bạn tâm tình, khách quý mong" 
Hoặc: 
"Tiên tiên đãn vũ mãn quan hà 
Phốc bị đồng quân thính dạ qua" 
Dịch: 
"Xứ thượng mây buồn giăng khắp nơi 
Kéo chăn cùng bạn thức đêm dài" 
Thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp một số câu thơ tác giả diễn đạt khá rõ ràng về con đường đi lên Sơn quốc: 
"Tam phan Tây khứ tiếp cùng hoang 
Tái thảo thê thê nhật sắc hoàng 
Đồng trụ kỹ thời tiêu Hán giới 
Khung gian tùng cổ hạn man phương" 
Dịch: 
"Tiếp xứ tam Phan theo hướng Tây 
Bờ hoang sắc cỏ trời vàng hây 
Sông Khung từ cổ miền Man thuộc 
Đồng trụ ngàn xưa nghiệp Hán gây"  
Trên đường lên Sơn quốc, Nguyễn Thông gặp một số tộc người lạ: "Vùng La Ngư thượng dân cư toàn man (thượng) còn có man tự xưng là giòng giống chim, giống Lạc, nguyên văn: điếu, Lạc và tác giả giải thích: các man nhận họ là giòng giống chim Lạc, tiếng nói trọ trẹ. Chim Lạc là thủy tổ của dân ta. Phải chăng họ là con cháu người Lạc Việt xa xưa lánh nạn Bắc thuộc (Tàu) mà trốn vào hang động lâu ngày nên không nhận ra nữa". Chúng ta không bàn đến giả thuyết của Nguyễn Thông đúng hay sai mà chúng ta chú ý hai tộc người mà Nguyễn Thông gọi là Chim, Lạc. Theo chúng tôi có lẽ Nguyễn Thông đã ghi âm theo tiếng nói của hai tộc người Chin, Lat ở Đà Lạt, Đơn Dương, Lạc Dương chăng: Về Lat thì bác sĩ Yersin ghi là Mlate. 
3.4 Như vậy, qua thơ văn Nguyễn Thông, chúng ta biết một phần Sơn quốc của Nguyễn Thông có các đặc tính sau: 
- Ban ngày thường lạnh, cỏ cây tốt tươi, mặt trời vàng, có những trận mưa đặc biệt mà tác giả thường hay dùng từ "đãn vũ" (mưa xứ thượng). 
- Ở Sơn quốc này có sông La Ngư, các dân thượng sống quây quần bên nhau ở một vùng có dân Chim (Chin), Lạc (Lạt). 
Với các đặc tính thiên nhiên khí hậu và con người ở một vùng của Sơn quốc như trình bày trên, chúng ta có cơ sở kết luận đó là Đà Lạt vì theo các nhà dân tộc học bộ tộc Lat chỉ có ở Đà Lạt mà thôi, các cao nguyên khác không có tộc người này. Và như vậy Nguyễn Thông đã có đến Đà Lạt. Còn như thật chính xác, vùng nào, phía nào của Đà Lạt mà Nguyễn Thông đã đặt chân đến thì còn trong vòng xác minh. 
4. Trong giới hạn một bài báo chúng tôi giới thiệu tóm tắt vấn đề như trên, có thể chưa thỏa mãn bạn đọc muốn biết sâu hơn.Và vì tóm tắt nên chúng tôi lược đi rất nhiều sự kiện củng cố giả thuyết. Mong bạn đọc thông cảm. Chúng ta có thể kết luận: Người đầu tiên thám hiểm Lang Bian và tìm ra Đà Lạt - Lâm Đồng là Nguyễn Thông. Cuộc thám hiểm của Nguyễn Thông đã xảy ra trước cuộc thám hiểm của bác sĩ Yersin trong vòng 25 năm. 
 Đà Lạt, tháng 8 năm 1985 
NGUYỄN DIỆP 
(1) Phái đoàn quân sự của Pháp. 
(2) Nguyễn Hữu Tranh: "Thử tìm lại dấu vết người Việt đầu tiên ở Lâm Đồng" (tài liệu đánh máy), 1983. 
(3) Tam Phan: Phan Lang (rang), Phan Lý (rí) và Phan Thiết.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1) Tạp chí Cộng sản số 8/84 
2) Dương Văn An, Ô châu cận lục, chữ Hán. 
3) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, chữ Hán. 
4) Nguyễn Thông, Ngọa du sào thi văn tập, chữ Hán. Kỳ xuyên văn sao, chữ Hán. Tạp văn, tạp chí, chữ Hán. 
5) Tạp chí "Revue Indochine" từ năm 1941-1942-19436.  
6) Noel Bernard: Yersin - pionnier - savant - explorateur 1863-1943, Paris, Colombe, 1953. 
7) Monographie de Dalat, 1953. 
8) Tập san Sử Địa số 23 - 24. Sài Gòn, 1972. 
9) Nguyễn Hữu Tranh, Thử tìm lại dấu vết người Việt trên đất Lâm Đồng, bản đánh máy, 1983. 
10) Cao Tự Thanh - Đoàn Lê Giang, Tác phẩm Nguyễn Thông, Long An, 1984.

Khi Tổng cục Thống kê bịa đặt các con số của nước khác

Hà Dương Tường


Nhờ anh bạn Nguyễn Hồng Kiên giới thiệu, tôi mới đọc bản tin về các doanh nghiệp giải thể trong năm 2015 trên báo Đầu tư Online. Nghe ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê mà giật mình :
Chuyện thành lập - giải thể là quy luật tất yếu của thị trường. Chúng tôi lấy số 71. 391 doanh nghiệp chia cho tổng số doanh nghiệp thì chỉ chiếm 12% - rất nhỏ so với các nước, kể cả các nước phát triển. Như New Zealand, số doanh nghiệp đóng cửa, giải thể của họ chiếm khoảng 30%, Anh thì gần 50%, nên con số 12% là tất yếu thôi. Khi mà thành lập, sản xuất không hiệu quả thì giải thể là chuyện bình thường của nền kinh tế, chúng ta không có gì đáng lo ngại cả”, ông Lâm đánh giá.
Chuyện bình thường, đúng thế, nhưng các con số 30% của New Zealand và gần 50% của Anh thì chẳng cần chuyên môn gì, người đọc báo « bình thường » chỉ cần thi thoảng đọc tin kinh tế quốc tế cũng phải giật nảy mình mà sao không thấy các nhà báo dự cuộc Họp báo công bố tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 của Tổng cục Thống Kê nói gì, khiến tôi không khỏi hoang mang ! Đành phải nhờ bác Gúc vậy.
Gõ mấy chữ Business, Statistics, « New Zealand » (hoặc « United Kingdom »), được những bảng sau (tệp Excel, tôi chụp lại) :
1/ New Zealand :
Nguồn: http://www.stats.govt.nz/browse_for_stats/businesses/business_characteristics/BusinessDemographyStatistics_HOTPFeb15.aspx

2/ Anh:
Nguồn: http://www.ons.gov.uk/ons/rel/bus-register/business-demography/2014/stb-business-demography-2014.html#tab-Business-births-and-deaths--2009-to-2014

Có cần bình thêm?

Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2016

Phác thảo cơ bản cho "đổi mới 2"?

Bài phát biểu gây tiếng vang của Bộ trưởng Bùi Quang Vinh có thể xem là phác thảo các điểm then chốt cho cuộc "đổi mới 2". Đó là nhất thiết phải xây dựng nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, hiện đại và chuẩn bị các hạng mục nền móng cho một xã hội dân sự. Tất cả những yếu tố cốt lõi đó chỉ có thể thực thi trong điều kiện phải có sự đổi mới về chính trị một cách tương ứng với phát triển kinh tế - xã hội.
Phát biểu của Bộ trưởng Pham Bình Minh về tìm kiếm một giải pháp lâu dài cho Biển Đông cũng nhấn mạnh về chính trị, VN phải tạo dựng được lòng tin của cộng đồng quốc tế và hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu quả trong việc thúc đẩy quan hệ, ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng và giải quyết các vấn đề nảy sinh, nhất là các vấn đề có thể tác động nghiêm trọng tới an ninh và phát triển của đất nước ta.
Về kinh tế đưa hội nhập đi vào chiều sâu cũng có nghĩa là phải tận dụng được chính hệ thống quy tắc và luật lệ của các tổ chức quốc tế để bảo vệ được các lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong quan hệ với đối tác nước ngoài.
Tóm lại, giải pháp lâu dài cho Biển Đông là phải xây dựng một VN hùng mạnh, cùng sánh vai các cường quốc năm châu. Cùng chia sẻ các giá trị cốt lõi của nhân loại văn minh.
Điều đó cho thấy đã tới lúc VN phải tự chủ thật sự về kinh tế, về chính trị trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, với các tiêu chuẩn, chất lượng cao và tôn trọng luật chơi chung. Đặc biệt với các nước phát triển, các nền kinh tế hùng mạnh.
Có lẽ đó cũng chính là thông điệp của những người có xu hướng cải cách, nhắm tới mục tiêu "đổi mới 2", thật sự phải thay đổi, thật sự thay đổi tất cả những gì cần thay đổi để đất nước phát triển một cách tích cực hơn.

Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2016

Hệ quả không định trước

Nguyễn Quang Duy
22-1-2016
“Quyền lực thường tha hóa và quyền lực tuyệt đối sẽ tha hóa tuyệt đối”. (Lord Acton)
 “Hệ quả không định trước” (unintended consequences) là một quy luật diễn ra trong nhiều lĩnh vưc, nhưng ít người để ý, lại càng ít người biết cách vận dụng để lý giải thực tế trái chiều hoặc tác động làm thay đổi hiện trạng. Có thể do vướng chấp nên người ta dễ bị “điểm mù” (blind spot) che khuất tầm nhìn, nên tuy mắt sáng nhưng không nhìn thấy, hoặc thấy nhưng không chịu thừa nhận. Vì thế mới có câu, “người mù nhất là người không chịu nhìn” (Hoặc người điếc nhất là người không chịu nghe).
Hãy thử tìm hiểu quy luật này để vận dụng nhằm lý giải một số thực tế hoặc tác động làm thay đổi dòng chảy của sự kiện, trong bối cảnh tranh giành quyền lực đang diễn ra hiện nay.  
Càng gần Đại hội, không khí càng nóng lên, tuy giữa Mùa Đông. Có nhà bình luận nói chưa thấy Đại hội Đảng nào lại căng thẳng, kịch tính và quyết liệt như lần này. Trong khi các phe nhóm phân hóa sâu sắc, choảng nhau quyết liệt một mất một còn, để tranh giành quyền lực (và lợi ích), thì giới trí thức đòi dân chủ và nhân quyền cũng như giới truyền thông cũng phân hóa không kém. Một số ngộ nhận, ủng hộ “ông này”, chống “ông kia” một cách quyết liệt, thâm chí thóa mạ nhau. Việt Nam chưa đa đảng nhưng đã “đa nguyên” một cách bất bình thường (như kinh tế thị trường định hướng XHCN). Vì truyền thông trực tuyến có vai trò ngày càng lớn, nên bị các phe nhóm thao túng (như công cụ của họ) trong cuộc chiến truyền thông, tung tin thật giả lẫn lôn, làm dư luận càng dễ ngộ nhận. Tuy chưa biết ai thắng ai thua, nhưng thấy rõ người Việt càng bị chia rẽ thì đất nước càng suy yếu, trước hiểm họa bành trướng của Trung Quốc.  
Xét theo khía cạnh này thì đó là một hệ quả đáng buồn và nguy hiểm (vì dễ mất nước). Nhưng xét theo khía cạnh khác, thì những gì tồi tệ đang diễn ra có thể dẫn đến một “hệ quả không định trước”, làm xuất hiện cơ hội thay đổi đột phá, biến điều không thể thành có thể. Nói cách khác (theo “quẻ biến”), thì “càng xấu xa lại càng tốt”, theo tư duy đột phá “ngoài cái hộp” (out-of- the- box thinking).     
Một vài dẫn chứng
Năm 1983, tại một hội nghị quốc tế về bệnh lý “erectile dysfunction” (liệt dương) ở Las Vegas, nhà nghiên cứu Giles Brindley đã bất ngờ tụt quần để trưng bày “của quý” đang cương cứng, trước khi thuyết trình về vấn đề này. Bằng một hành động gây ấn tượng mạnh, Brindley đã có công thức tỉnh cộng đồng y khoa về một vấn nạn của xã hội loài người mà lúc đó chưa có lời giải. Các hãng dược phẩm lớn đã nhận ra cơ hội thị trường tiềm năng và đổ xô vào nghiên cứu. Nhưng mãi đến năm 1995 hãng dược Pfizer mới nghiên cứu và bào chế thành công thuốc Viagra, làm cải thiện chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người trên thế giới bị bệnh lý ED (thiểu năng tình dục), và do đó họ thu được hàng tỷ đô-la lợi nhuận.
Nhưng ít người biết rằng Viagra là “hệ quả không định trước” của một dự án nghiên cứu của Pfizer (từ năm 1991) về hóa chất Sildenafil dùng để điều trị bệnh nhồi máu cơ tim (chứ không phải “cơ chim” đâu). Trong khi làm thí nghiệm lâm sàng, các nhà nghiên cứu đã tình cờ phát hiện ra một dược tính kỳ diệu khác của Sildenafil có thể làm cương dương. Và thế là trong mấy năm sau đó, Pfizer đã quyết định đầu tư lớn cho các trung tâm nghiên cứu về Sildenafil tại Anh, Mỹ và các nước khác, để tìm ra bằng được phương thuốc điều trị bệnh lý ED, và đến năm 1995 họ đã thành công, đáp ứng nhu cầu thị trường theo “Chỉ số Quốc tế về Chức năng Cương dương” (International Index of Erectile Function).  
Hãy lấy một ví dụ khác cho đỡ “nhạy cảm”. Ai cũng biết trong thế kỷ 18 và 19, những người Pháp thực dân đã đến Việt Nam (và Đông Dương) để chiếm và khai thác thuộc địa, gây nhiều đau khổ, oán hận cho người dân bản địa, dẫn đến cách mạng giải phóng dân tộc và chiến tranh khốc liệt (đến tận 1954). Đấy là một trang sử đau buồn về chế độ thực dân cũ (cho cả hai dân tộc). Nhưng bên cạnh những người Pháp thực dân tham lam, còn có những người Pháp tử tế đã làm nhiều việc tốt lành để khai minh cho người dân bản địa, đóng góp phát triển một đất nước còn lạc hậu. Đó là cha Alexandre de Rhodes (1591-1660) và những người khác, đã có công sáng tạo ra chữ quốc ngữ cho người Việt, một bước ngoặt về văn hóa. Đó là Louis Pasteur (1822-1895) và Alexandre Yersin (1863-1943) và những người khác, là những nhà khoa học và bác sỹ mà tên tuổi và việc làm của họ đã gắn bó với người dân bản địa như là ân nhân đã tìm cách cứu họ khỏi những nạn dịch. Đó là danh họa Victor Tardieu (1870-1937) và đồng nghiệp, đã sáng lập ra trường Mỹ thuật Đông dương (Ecole des Beaux Arts de l’Indochine, 1925), cái nôi của một thế hệ danh họa Việt Nam, đã để lại những kiệt tác bất tử cho đời sau. Đó là các kiến trúc sư C. Batteur và E. Hébrard và những người khác, đã thiết kế hầu hết các biệt thự và công sở tại Hà Nội (và Sài Gòn). Đó là vài dụ về “hệ quả không đinh trước” trong lịch sử quan hệ Pháp-Việt, đã để lại những di sản văn hóa, y học, hội họa, kiến trúc… như “sức mạnh mềm” kết nối hai dân dân tộc, bất chấp trang sử thực dân đau buồn.
Một ví dụ khác là Chiến tranh Việt Nam đẫm máu (kết thúc 1975) cũng để lại một trang sử đau buồn mà 40 năm sau vẫn còn ám ảnh người Mỹ và người Việt, như bóng ma của quá khứ. Mãi 20 năm sau (1995) hai nước mới bình thường hóa quan hệ, và cựu bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara mới thừa nhận sai lầm về Việt Nam. 40 năm sau, hai nước trở thành đối tác toàn diện (và đang trở thành đối tác chiến lược) để ngăn chăn sự trỗi dậy đầy hiếu chiến của Trung Quốc, đặc biệt là tại Biển Đông. Trước đây Mỹ đánh (Bắc) Việt Nam để ngăn chặn Trung Cộng. Sau đó họ lại bắt tay với Trung Cộng (bằng Shanghai Communique và “Constructive Engagement”) để chống Liên Xô và Việt Nam. Nay Mỹ lại “xoay trục”, hơp tác với Việt Nam để ngăn chặn Trung Cộng. Lịch sử đang lặp lại, với những “hệ quả không định trước”.
Bên cạnh những di họa của chiến tranh (như bom mìn, chất độc da cam), còn có những “hệ quả không định trước” như “sức mạnh mềm” gắn kết hai dân tộc. Đó là mối quan hệ “vừa yêu vừa ghét” (love hate) giữa hai cựu thù, nay trở thành đối tác chiến lược. Đó là thế hệ những cựu chiến binh của Vietnam War như thượng nghị sỹ John Kerry và John McCain, đại sứ Pete Peterson, và rất nhiều người khác (cả cựu binh và nhà báo, nhà văn và nhà buôn…) đã không quên được Việt Nam vì ám ảnh của quá khứ và lương tâm, làm chiếc cầu nối giữa hai dân tộc. Họ đã dũng cảm trong hòa bình (cũng như trong chiến tranh) để góp phần hòa giải hai dân tộc và hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng một thế giới tử tế hơn.
Một “hệ quả không định trước” khác của Vietnam War là sự hình thành cộng đồng người Viêt tại Mỹ, với gần 2 triệu người đã định cư vào các thời điểm khác nhau. Bên cạnh đặc điểm phức tạp do bị phân hóa sâu sắc (như bộ phim “Terror in Little Sai gon” đã phần nào phản ánh), cộng đồng người Viêt ở Mỹ đã đóng góp đáng kể vào xã hội đa sắc tộc của Mỹ (như “melting pot”) cũng như làm cầu nối để gắn kết hai quốc gia cựu thù, nay đang trở thành đồng minh chiến lược. Tại các nước khác (Canada, Úc, Anh, Pháp, Đức, v.v. ) cộng đồng người Việt tuy nhỏ hơn, nhưng cũng có vai trò tương tự. Có thể nói, công đồng người Việt tại Mỹ (và các nước khác) là một “hệ quả kép” của Vietnam War, là một tài sản tiềm năng làm cầu nối cho quan hệ hợp tác Mỹ-Việt. Bên cạnh đó, tính đến năm 2015 đã có khoảng 16.500 sinh viên Việt Nam sang Mỹ du học (đông nhất trong số các nước Đông Nam Á).  Dự án Đại học Fullbright (đã được ký kết) là một ví dụ khác về tiềm năng hợp tác xây dựng “sức mạnh mềm”, để gắn kết hai dân tộc. 
Liên hệ thực tiễn
Năm 1990-1991, Chủ nghĩa Cộng sản đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, cùng với bức tường Berlin, chủ yếu vì những nguyên nhân nội tại của hệ thống. Nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò lịch sử của Gorbachev như một tác nhân đã thúc đẩy quá trình sụp đổ đó, như một “hệ quả không định trước”. Ngày nay, tại Trung Quốc, Tập Cận Bình đang cố gắng làm ngược lại với Gorbachev, nhằm duy trì CNCS, bằng “Giấc mộng trung Hoa” (China Dream) và “Đả hổ Diệt ruồi” để thanh trừng các phe phái đối lập bằng lá cờ chống tham nhũng. Có lẽ Tập Cận Bình “đâm lao phải theo lao”. Nhưng càng cố làm ngược lại, thì Tập Cận Bình càng đẩy nhanh quá trình sụp đổ không thể tránh khỏi, mà kết cục của nó không khác những gì Gorbachev đã làm. Đó là một nghịch lý, như một “hệ quả không định trước”.
Nói cách khác, “màn chót của chế độ cộng sản Trung Quốc đã bắt đầu, và các biện pháp mạnh tay của Tập Cận Bình chỉ đưa đất nước đến đến gần hơn sự đổ vỡ” (David Shambaugh, “the Coming China Crackup”, Wall Street Journal, March 6, 2015:).  Kết luận của David Shambaugh trùng hợp với nhận xét của Paul Krugman (và nhiều học giả khác) là Trung Quốc đã “đến điểm giới hạn” (Paul Krugman, “Hitting China’s Wall”, New York Times, July 18, 2013).  Tại sao tỷ Phú Lý Gia Thành phải “bỏ chạy” khỏi Trung Quốc?  Tại sao 64% người giàu Trung Quốc (có tài sản trên 1.6 triệu USD) đã hoặc đang di cư khỏi Trung Quốc? (Elizabeth Economy at Council on Foreign Relations). Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hay CNXH mang màu sắc Trung Quốc, hay “Giấc mộng Trung Hoa” cũng không ngăn được người Trung Quốc đang “bỏ phiếu bằng chân” hàng loạt (en masse). Đó là “gót chân Asin” của gã khổng lồ Trung Quốc.     
Để đối phó với những mâu thuẫn nội tại, nhằm duy trì nguyên trạng (bên trong), Tập Cận Bình gây căng thẳng để thay đổi nguyên trạng (bên ngoài). Với Nhật thì Trung Quốc tranh chấp đảo Điếu Ngư (Senkaku), với Việt Nam và ASEAN thì tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sa, để kiểm soát Biển Đông. Trung Quốc muốn khuấy động tinh thần dân tộc cực đoan của người Trung Quốc, bành trướng ra ngoài để đánh lạc hướng sức ép bên trong. So với các hướng bành trướng khác, hướng Biển Đông là dễ thôn tính nhất. Trung quốc đã âm mưu chiếm đoạt Biển Đông từ lâu, nhưng nay mới có cơ hội. Tháng 5/2014, Trung Quốc cho rằng cơ hội đã đến nên quyết định đưa dàn khoan HD981 vào vùng biển tranh chấp với Việt Nam, gây ra khủng hoảng quan hệ Trung-Việt, tạo ra một bước ngoặt làm thay đổi cuộc chơi (game changer).  
Sự kiện dàn khoan HD981, cũng như việc Trung Quốc ráo riết san lấp đảo và xây dựng hạ tầng quân sự (sân bay và cảng) trên các đảo nhân tạo, đã làm cho phái thân Trung Quốc ở Việt Nam bị mất uy tín và suy yếu trong cuộc khủng hoảng lãnh đạo, đã xô đẩy Việt Nam xích lại gần Mỹ. Mỹ buộc phải xoay trục, ngày càng cứng rắn hơn trong việc tuần tra Biển Đông để đảm bảo tự do hàng hải (FONOP) và tăng cường hợp tác quân sự với Việt Nam như một đối tác chiến lược (bỏ dần lệnh cấm bán vũ khí sát thương). Đó cũng là một “hệ quả không định trước”. Trung Quốc càng hung hăng, càng chơi xấu với Việt Nam, thì họ càng xô đẩy Việt Nam vào vòng tay người Mỹ. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam tuy xích lại gần Mỹ nhưng không dám quá gần, tuy tách xa Trung Quốc nhưng không dám quá xa. Việt nam tuy đang xoay trục thân Phương Tây hơn, nhưng không dám quá thân. Tóm lại, chừng nào cái bóng của Trung Quốc còn quá lớn, bàn tay của Trung Quốc còn quá dài, trong khi Mỹ vẫn tiếp tục “tiếng kèn ngập ngừng”, thì lãnh đạo Hà Nội vẫn lo sợ cả hai (bên ngoài), và lo sợ lẫn nhau (bên trong). Lo sợ là một căn bệnh tâm thần khó chữa. 
Đáng lẽ Việt Nam phải mạnh lên để “Thoát Trung”, thì gần mười năm qua Viêt Nam đã “phát triển giật lùi”, xóa sổ gần hết những thành quả cải cách kinh tế trước đó. Tham nhũng tràn lan và quản trị vĩ mô yếu kém đã dẫn đến thua lỗ lớn và nợ công chồng chất. Những “quả đấm thép” (như Vinashin và Vinalines) đã tan chảy thành bùn, đẩy nền kinh tế vào vòng xoáy suy thoái và cái “bẫy thu nhập trung bình”. Kinh tế và chính trị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Quá trình thay đổi thể chế và chuyển đổi cơ cấu diễn ra quá chậm, đến bây giờ vẫn còn giữ “định hướng XHCN”, lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo, mặc dù các tập đoàn nhà nước đã trở thành thảm họa. Chẳng ai muốn thế, nhưng đó là hệ quả của một tầm nhìn sai. Nó vừa là lỗi của Chính phủ (đứng đầu là Thủ tướng), vừa là lỗi của hệ thống (do Đảng độc quyền lãnh đạo). Những gì đang diễn ra sẽ tiếp tục làm vô hiệu hóa mọi cố gắng cải cách (do tham nhũng và quản trị yếu kém), làm người dân càng bất mãn (do bị chiếm đất, bóp nghẹt dân chủ và nhân quyền), đẩy chế độ đến gần hơn sự đổ vỡ (crackup) chẳng khác gì Trung Quốc. Vậy “thoát Trung” thế nào?
Trong bối cảnh đó, chỉ có hai kịch bản. Kịch bản xấu nhất (worst case scenario) là trì hoãn cải cách thể chế, tiếp tục lệ thuộc vào Trung Quốc (cả kinh tế và chính trị), mất dần chủ quyền và lãnh hải, dẫn đến “Bắc thuộc Kiểu mới”. Kịch bản tốt nhất (best case scenario) là đẩy nhanh cải cách thể chế và dân chủ hóa, thoát khỏi định hướng XHCN (theo kinh tế thị trường), từng bước “Thoát trung” bằng cách xoay trục để hợp tác chiến lược với Mỹ và đồng minh (qua TPP). Giữa hai kịch bản trên là một vùng xám (grey area), nơi có thể xảy ra bất cứ điều gì, với “hệ quả không định trước” (hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn). Trong vùng xám đó, nếu các phe nhóm (hay cá nhân) tranh giành quyền lực một cách cực đoan, bất chấp luật chơi (lawless), chỉ vì lợi ích cá nhân, không vì lợi ích quốc gia, thì họ chỉ phục vụ ý đồ của Trung Quốc.        
Tranh giành quyền lực ở VN (cũng như ở Trung Quốc) là một trò chơi cực đoan và bạo liệt, vì họ không từ một thủ đoạn nào để triệt hạ lẫn nhau. Nhà thơ Nguyễn Duy nói, “phe nào thắng thì nhân dân đều thua”. Nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị dồn vào tình huống xấu nhất, không phải chỉ mất cơ hội làm Tổng Bí Thư mà còn có thể mất tất cả, chẳng lẽ Nguyễn Tấn Dũng lại khoanh tay chịu chết, mà không có đòn cuối tại Đại Hội này (như tại Đại hội XI và Hội nghị TƯ 6), có thể đem lại một kết cục bất ngờ (không theo kịch bản), vượt ra khỏi tính toán của các bên, như một “hệ quả không định trước”. Đến giờ phút này, khi mọi thông tin về Đại hội XII vẫn bị bưng bít trong màn sương mù bí mật, thì mọi khả năng đều có thể (như lời đồn đoán).   
Những yếu tố làm thay đổi cuộc chơi
Thứ nhất, ai kiểm soát được luật chơi (thủ tục) người đó có lợi thế quyết định cuộc chơi. Trong trường hợp này, Tổng Bí thư và Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã nắm quyền chủ động cuộc chơi và giành được thế thượng phong, làm cho đối phương bất ngờ (nếu chủ quan, mất cảnh giác). Luật chơi (thủ tục bầu cử) có ý nghĩa quyết định trong việc sắp xếp nhân sự (Bộ Chính trị, các vị trí chủ chốt (như “tứ trụ”), Ban Chấp hành Trung ương, Đại biểu dự Đại hội) có lợi cho phe cánh của mình (để giành phiếu). Nhưng thay đổi luật chơi quá mức lộ liễu (Quyết định 244-QĐ/TW ngày 9/6/2014) có thể vi phạm điều lệ Đảng (luật chơi cơ bản), gây phản ứng ngược lại. Quy định Tổng Bí Thư phải là người “Miền Bắc và có lý luận”, sẽ gây phản cảm và phản ứng, dẫn đến “hệ quả không định trước”. Thư của cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh có thể tác động đến thái độ của nhiều người tham gia cuộc chơi, trong trận chiến cuối cùng.  
Thứ hai, ai nắm được quân đội và an ninh (nhất là Quân khu Thủ đô) người đó có lợi thế quyết định cuộc chơi (như “quyền lực cứng” có tác dụng răn đe trong trường hợp có bạo động). Việc Chủ tịch Quốc hội đột ngột sang thăm Trung Quốc trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội, và khi Trung Quốc có những động thái mới như ra luật chống khủng bố (có thể điều quân can thiệp vào nước khác), tăng cường các chuyến bay vi phạm không phận VN, điều tàu và giàn khoan HD981 vào hải phận VN, là những biện pháp răn đe để tác động vào kết quả Đại hội. Nhưng các động thái này có thể tác động ngược lại đến thái độ của những người VN tham gia cuộc chơi (vẫn còn ý thức dân tộc), như một “hệ quả không định trước”.    
Thứ ba, ai có nhiều tiền hơn và nắm được thế giới ngầm (underworld) người đó có lợi thế trong cuộc chiến  quyết liệt, để giành giật phiếu và thế thượng phong. Điều này đã từng xảy ra (không có gì lạ), vì tham lam và lo sợ luôn là huyệt yếu của con người trong các xã hội lạc hậu và độc tài.
Thứ tư, ai nắm được công cụ truyền thông, người đó có lợi thế lớn trong cuộc chiến giành phiếu hiện nay, có thể trực tiếp hay gián tiếp tác động đến thái độ những người tham gia (như “quyền lực mềm”). Nhưng vì báo chí “lề phải” dường như mất tác dụng trong trò chơi này, nên báo chí “lề trái” (social media và blogosphere) đã trở thành những kênh thông tin hiệu quả mà các phe phái thao túng trong cuộc chiến truyền thông quyết liệt hiện nay. Nhiều thông tin rò gỉ không thể kiểm chứng được vì các phe phái tung ra nhằm triệt hạ lẫn nhau, làm cho môi trường thông tin bị ô nhiễm. Những nhà báo (hay bloggers) thiếu bản lĩnh và sáng suốt có thể bị phân hóa, trở thành công cụ của các phe nhóm (như bồi bút). Sự phát triển của thế giới mạng và truyền thông kỹ thuật số cũng là một “hệ quả không định trước”. 
Thứ năm, trong khi giới truyền thông bị phân hóa, thì giới trí thức đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền cũng bị phân hóa theo. Có lẽ người Việt Nam có truyền thống dễ bị phân hóa (?) Một số nhảy vào tham gia cuộc chơi, ủng hộ “ông này” chống “ông kia” vì nhiều lý do khác nhau (không nhất thiết vì ông này tôt, hay ông kia xấu). Một số khác thì đứng ngoài cuộc (như vô can), quan sát như xem đá bóng, chờ kết quả trận đấu. Người ta nói chính trị là bẩn thỉu (ở đâu cũng vậy), nhưng đứng ngoài hay tham gia thế nào là một chuyện không dễ, đòi hỏi một tầm nhìn. Người ta nói im lặng hay phản kháng đều là chính trị. “Ngay cả khi bạn không làm chính trị, thì chính trị sẽ đến với bạn” (Aung San Suu Kyi).
Thay cho lời kết  
Robert Merton đã liệt kê năm nguyên nhân chủ yếu thường dẫn đến “hệ quả không định trước”: (1) Do ngu dốt nên không dự báo được trước, không phân tích và phán đoán được tình thế; (2) Do sai sót khi phân tích vấn đề, dựa vào thói quen cũ nên không phù hợp với tình thế mới; (3) Chỉ nhìn thấy lợi ích trước mắt mà không nhìn thấy lợi ích lâu dài; (4) Những giá trị cơ bản có thể tác động làm thay đổi tình thế vào lúc cuối; (5) Do quá lo ngại về hậu quả, mà người ta hay vội vã tìm giải pháp trước khi vấn đề xảy ra, nên không có vấn đề lại trở thành vấn đề. (Tại sao điều 5200 quân bảo vệ Đại hội).
Con người dễ bị nhầm lẫn, và bệnh nhầm lẫn (hay lú lẫn) là một tai họa. Khi nhầm lẫn thì những người tài giỏi và ngu dốt cũng nguy hiểm như nhau. Hệ quả của ngộ nhận không phải chỉ do ngu dốt mà còn do chấp và ngã, do quá lo sợ, làm tầm mắt bị che khuất bởi điểm mù (blind spot). Những người cực đoan và bảo thủ thường hay nhầm lẫn, vì chấp và ngã của họ quá lớn và quá lâu. Vì luôn cho mình là đúng, nên họ thường không chịu lắng nghe, nên không nhìn thấy và không chịu thừa nhận những cái khác bên ngoài cái hộp tư duy kín mít của họ. Cực đoan và bảo thủ gây ách tắc cho đổi mới (bottleneck).    
Có lẽ lúc này Việt Nam đang trong tình thế hiểm nghèo nhất (từ sau chiến tranh lạnh), đứng trước một “hiểm họa kép” (double danger) rất khó hóa giải. Đó là hệ quả của suy thoái kinh tế và thể chế (bên trong) đồng thời với đe dọa chủ quyền (bên ngoài). Nhưng dường như lãnh đạo Việt Nam vẫn đang lúng túng và nhầm lẫn trong việc tìm lối thoát. Muốn thoát hiểm, để trở thành một nền kinh tế “rồng bay” tại Đông Á, vấn đề không phải chỉ phụ thuộc vào lựa chọn lãnh đạo nào (ông X hay ông Y), chọn lối đi nào (TPP hay “Giấc mộng Trung Hoa), mà còn tùy thuộc vào hệ quả của cuộc chiến giành quyền lực đang diễn ra tại Hà Nội. Thay đổi lãnh đạo mà không thay đổi tầm nhìn thì vẫn là bi kịch.  
NQD. 21/1/2016


Tác giả gửi cho viet-studies ngày 21-1-16