Trang
Thứ Ba, 14 tháng 12, 2021
TUỆ SỸ: THỜI KỲ HỐT TẤT LIỆT VÀ PHẬT GIÁO TRUNG NGUYÊN
Thích Tuệ Sỹ
Ý đồ của Hốt-tất-liệt, dựa trên Phật giáo Tây Tạng để thống trị Trung Quốc không chỉ bằng vũ lực mà còn cả về tư tưởng, tôn giáo, chính trị xã hội; nếu suy luận này của chúng ta không lạc hướng, thế thì lịch sử chứng tỏ ý đồ này đã thất bại. Ý nghĩa của sự thất bại này thuộc phạm vi nghiên cứu của các nhà văn hóa và sử học.
Truyền thuyết nói Phật giáo du nhập Trung Quốc dưới thời Hán Minh đế năm Vĩnh Bình thứ 10 (67 Tl) do Thái Hâm gặp Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp Lan ở nước Trung Thiên Trúc Đại Nhục Chi (Nguyệt Thị) rước về; Hán đế bèn khiến lập chùa Bạch Mã và ở đó Ma-đằng dịch kinh Tứ thập nhị chương. Năm Vĩnh Bình 14 (70 Tl), tháng Giêng, ngày 11, đạo sĩ Chử Thiện Tín dẫn đầu 690 người từ “năm non tám núi” dâng biểu cầu được tỉ thí cao thấp với Phật đạo Tây vực. Vua chuẩn tấu, cho tổ chức thi đấu tại chùa Bạch Mã. Kinh điển của hai bên được mang ra đốt. Kinh sách Đạo giáo bị cháy thành tro hết. Kinh Phật không những không cháy mà còn phát hào quang rực rỡ. Đạo sĩ Phí Thúc Tài xấu hổ tự vẫn. Sau đó, quan Tư không Dương thành hầu Lưu Tuấn cùng với 260 người, Trương Tử Thượng cùng các sĩ tử ở kinh thành có đến 390 người; Hậu cung Ấm Phu nhân, và cung nhân Vương Tiệp dư cùng với 190 người; Ngũ Nhạc đạo sĩ Lữ Huệ Thông cùng với 620 người; thảy đều tâu vua xin xuất gia. Vua hứa khả, ra lệnh dựng 10 ngôi chùa ở Lạc Dương, và 7 chùa ngoại thành cho tăng ở; 3 chùa thành nội cho ni.
Truyền thuyết hoang đường này được chép lại hầu hết trong các bộ sử Phật giáo Trung Quốc như Quảng hoằng minh tập, Phật Tổ thống kỷ, Tăng sử lược, v.v…
Thế nhưng, những người được kể là đầu tiên xuất gia và thọ giới đúng pháp thức, được ghi nhận trong Tăng sử lược như sau: “Nguyên lai những người được gọi là tăng trong thời Hán-Ngụy, tuy cạo đầu khoác y mà có hình tướng, nhưng giới pháp chưa đủ. Lúc bấy giờ hai chúng (tăng và ni) chỉ thọ Tam quy. Từ Hán Vĩnh Bình cho đến niên hiệu Hoàng Sơ thời Ngụy (220-226 Tl), chưa có sự phân biệt đại tăng với sa-di. Sau đó, có Tam tạng Đàm-ma-ca-la (Dharmakāla), và Trúc Luật-viêm, Duy-kì-nan v.v… mới có sự truyền Luật đúng nghĩa. Đàm-ma-ca-la, trong khoảng niên hiệu Gia Bình – Chính Nguyên (249-256), cùng với Đàm-đế, cho ra Tăng-kì giới tâm, lập pháp yết-ma của đại tăng. Đàn thọ Cụ túc ở Đông thổ bắt đầu từ đây vậy… Người thọ giới đầu tiên là Chu Sỹ Hành vậy.”[1]
Cho đến đời Dao Tần, Hoằng Thỉ 10 (408 Tl), Phật-đà-da-xá (Buddhayasās) đến Trường An, và ngay năm sau tập hợp trên 300 sư tăng khởi sự phiên dịch Tứ phần luật. Dễ thấy rằng sau khi bản dịch lưu hành, Tứ phần luật nhanh chóng gây ảnh hưởng do bởi tác phong đạo đức của Phật-đà-da-xá rất được trọng vọng, có thể trên cả Cưu-ma-la-thập về phương diện này. Cho đến chừng 60 năm sau, sau khi Huệ Quang viết “Tứ phần luật sớ” với quan điểm rằng Luật Tứ phần thuộc về Luật Đại thừa; do xu hướng tư tưởng Đại thừa, nên tăng-già Trung Quốc nhận hệ Tứ phần là luật chính truyền. Cho đến đời Đường, với công trình của Đạo Tuyên, hệ Tứ phần được hình thành có quy củ phù hợp với truyền thống xã hội Trung Quốc. Đây chỉ nói về mặt học thuật và hành trì tự giác tự nguyện. Chính thức mà nói, phải kể từ khi Luật sư Thích Đạo Ngạn du thuyết vua Đường Trung Tông, niên hiệu Cảnh Long thứ 3 (709), bấy giờ có chiếu chỉ xuống lệnh các tự viện trong thiên hạ phải chấp hành duy nhất luật Tứ phần. Từ đó, hệ Luật Tứ phần trở thành độc chiếm tại Trung Quốc.
Chúng ta biết rằng Luật Căn bản Hữu bộ là hệ chính truyền Tây Tạng. Khi người Mông Cổ thống trị Trung Quốc, hệ Luật này suốt trong triều Nguyên có thể nói là hệ chính truyền. Bởi vì người Mông Cổ tiếp thu Phật giáo từ truyền thống Tây Tạng. Chủ xướng lập hệ Luật Căn bản Hữu bộ như là hệ chính thống cho toàn thể tăng-già Trung Quốc được đề xuất bởi Bát-tư-ba và được Nguyên đế Hốt-tất-liệt tán thành.
Trong lịch sử chinh phục và bình định Trung nguyên của Nguyên đế Hốt-tất-liệt, có hai nhà sư trợ giúp ông đắc lực qua chính sách đối với Phật giáo Trung Hoa, là Bát-tư-ba và Lưu Bỉnh Trung.
Bát-tư-ba là dịch âm từ Tạng ngữ ‘Phags-pa: “Thánh giả”, tước hiệu tôn xưng ‘Phags-pa Blo-grosr Gyal-mtshan (Thánh giả Huệ Tràng). Bát-tư-ba, sinh năm 1235 và tịch 1280 Tl, là một lạt-ma thuộc phái Śakya (Tát-ca phái), kế thừa Śakya Paṇḍita thành vị Tổ thứ năm của phái này.
Năm 1240, Gödön (Khoát-đoan vương), con thứ hai của Ögödei (Oa-khoát-đài) điều quân chinh phục Tây Tạng. Tướng Dorda Darkhan dẫn 30000 quân tấn công vào Vệ Tạng, khu vực đông và trung bộ Tây Tạng, đốt cháy nhiều tự viện và sát hại các lạt-ma, nhưng chùa Rwa sgreng, tự viện danh tiếng của phái Śakya, thoát nạn. Truyền thuyết nói bấy giờ xảy ra một trận đá lở khiến quân Mông Cổ tin là do pháp thuật của các lạt-ma nên ngưng cuộc tàn phá. Tướng Dorda nghe lời khuyên của Viện trưởng tự viện ‘Bri gung, đề nghị Gödön thương lượng với lãnh đạo của các phái Phật giáo. Năm sau, 1241, quân Mông Cổ rút khỏi Tây Tạng. Cho đến năm 1244, Mông Cổ tiến quân lần thứ hai vào Tây Tạng, và bấy giờ Gödönra lệnh triệu Śakya Paṇḍita đến hội kiến. Śakya Paṇḍita (Śakya Bác học) là biệt hiệu tôn xưng để gọi Kun-dga’ rGyal-mtshan (Hoan Hỷ Tràng), vị tổ thứ tư của phái Śakya.
Bấy giờ Śakya không chỉ đại diện cho phái Śakya mà cho cả toàn Tây Tạng, có nhiệm vụ thương lượng với người Mông Cổ trong điều kiện Tây Tạng thần phục.
Śakya Paṇḍita lên đường, dẫn theo hai người cháu là ‘Phags-pa Blo-grosrgyal-mtshan (Thánh giả Huệ Tràng), bấy giờ mười tuổi và em trai là Phyag-na rDo-rje (Kim Cang Thủ), tám tuổi, lên đường đi hội kiến Gödön. Trên đường đi, khi đến Lhasa, ông làm lễ thọ sa-di cho ‘Phags-pa (Huệ Tràng). Dọc đường đi, Śakya Paṇḍita thuyết pháp nhiều nơi nên mãi đến năm 1247 mới được hội kiến với Gödön ở Lương Châu (Cam Túc).
Trong cuộc hội kiến này, Śakya Paṇḍita nhanh chóng chinh phục Gödön bằng thuyết nhân quả nghiệp báo liên hệ đến cuộc tàn sát của quân Mông Cổ. Cũng có truyền thuyết nói do ông chữa Gödön khỏi bệnh phong cùi. Kết quả, Gödön quy y Phật.
Sau cuộc thương lượng, Gödön cử Śakya làm đại diện lâm thời cho chính quyền Mông Cổ quản lãnh toàn Tạng. Sử sách Tây Tạng nói Śakya được phong “Khri skor bcu gsum” (phong ấp mười ba vạn hộ) thuộc trung bộ Tây Tạng.
Sau đó, Śakya Paṇḍita ở luôn tại Lương Châu và năm 1251 thì tịch tại đây, trao y bát cho ‘Phags-pa thừa kế làm tổ thứ năm của phái Śakya. Bát-tư-ba cùng với em vẫn ở lại trong trại quân Mông Cổ, học tiếng Mông Cổ và y phục theo người Mông Cổ.
Năm 1251, Yügük khan (Quý-do Đại hãn) chết, Möngke (Mông-kha), anh của Kublai (Hốt-tất-liệt) lên ngôi Đại hãn. Yügük có tham vọng tây tiến chinh phục Âu châu; nhưng Möngke có ý đồ khác, tìm cách nam tiến tiêu diệt nhà Nam Tống và thống trị toàn bộ Trung Hoa.
Đế quốc Mông Cổ bắt đầu từ khi Thành-cát-tư Khả-hãn thống nhất Mông Cổ chính thức vào năm 1206, cho đến khi ông mất, năm 1227, lãnh thổ của đế chế này trải rộng trên một phạm vi 24 triệu cây số vuông, rộng gấp bốn lần đế quốc La-mã. Cho đến năm 1230 khi Oa-khoát-đài diệt Kim, Mông Cổ thống trị hoàn toàn bắc Tống, chiếm phân nửa giang san nhà Tống. Oa-khoát-đài chết, Mông-kha lên thay, bắt đầu chiến dịch nam tiến diệt Nam Tống. Trong chiến dịch này, trước tiên cần bình định dân Hán phương bắc. Trong sách lược bình định bấy giờ, Mông-kha phải nhanh chóng giải quyết xung đột Phật và Lão, hai thế lực tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn trong quần chúng Trung Quốc.[2]
Xung đột Phật-Lão, như đã chứng kiến, mà truyền thuyết Ma-đằng đấu phép đốt cháy kinh của Đạo giáo, tuy là truyền thuyết hoang đường nhưng đó là ấn tượng lịch sử khá đậm nét trong lịch sử truyền bá đạo Phật tại Trung Quốc. Trong thực tế, vào thời Đông Tấn (317-420) đã xuất hiện tác phẩm Lão Tử hóa Hồ kinh, tác giả là Đạo sĩ Vương Phù, đặt chuyện Lão Tử cưỡi trâu sang Ấn-độ dạy đạo và Thích-ca chỉ là một trong số các đệ tử. Dưới thời Bắc Chu Vũ đế, năm 569 Tl, Chân Loan viết “Tiếu đạo luận”, nêu những điểm gọi là “khá buồn cười” trong Hóa Hồ kinh. Tuy vậy, tác phẩm này vẫn được lưu truyền và cải biến cho đến đời Đường tập thành đến 10 quyển. Sang đời Tống, lưu hành thêm một tư liệu biếm Phật của Đạo gia, với 81 bức tranh miêu tả những lần tái sinh của Lão Tử giáo hóa độ người, trong đó có lần hóa thân làm Thích-ca. Tập chuỗi tranh được gọi là Lão Tử bát thập nhất hóa đồ.
Sự xung đột Phật-Lão dẫn đến các cuộc tranh luận do Möng-kha chỉ định tổ chức được sơ lược nguyên do như sau, dẫn theo Trương Bá Thuần, “Tựa Biện ngụy lục”:
“(Tính cho đến năm Ất mão, 1255) Bọn Đại sỹ Khâu Xử Cơ và Lý Chí Thường phá hủy miếu Phu Tử ở Thiên Thành Tây kinh làm đạo quán Văn Thành. Hủy diệt tượng Phật Thích-ca, tượng Quán Âm bạch ngọc, bảo tháp xá-lợi. Chiếm đoạt 482 ngôi chùa, phổ biến ngụy thư Lão Tử hóa Hồ kinh của Vương Phù, và Lão Tử bát thập nhất hóa đồ…”
Năm 1219, Thành-cát-tư Khả-hãn sau khi diệt triều Khwarazmina người Hồi giáo, rồi đóng quân tại A-phú-hãn (Afghanistan), và cho triệu thỉnh Đạo sĩ Khâu Xử Cơ từ Trung Quốc sang diện kiến.
Mặt khác, Khâu Xử Cơ trước đó cũng đã được vua Tống rồi đến vua Liêu mời nhưng ông thảy đều từ chối. Trong khi Đại hãn từ A-phú-hãn xa xôi kêu gọi, ông lại bất chấp khó nhọc của hành trình mà sẵn sàng lên đường. Quyết định này được giải thích, theo đó, khi thông tin về sự chinh phục của Mông Cổ suốt từ Tây vực cho đến A-phú-hãn, và Đại Tống sẽ là mục tiêu hủy diệt không thể tránh. Để mưu cầu sự tồn tại của Đạo giáo cần có chỗ dựa của triều đình khi Mông Cổ thống trị Trung nguyên, cho nên Khâu Đạo trưởng không ngại thân già và lộ trình hiểm trở. Về phía Phật giáo, có thể cũng với cảm thức tương tợ, Hải Vân cũng đã gặp Đại hãn, và từ Tây Tạng chú cháu Śakya Paṇḍita cũng tìm đến hội kiến với con cháu của Đại hãn. Những sự kiện lịch sử này cho thấy cả Lão và Phật đều ưu tư trước sự thống trị tất nhiên sẽ đến của người Mông Cổ nên tìm chỗ dựa an toàn cho sự tồn tại của mình sau này.
Cũng trong khoảng thời gian này, năm 1219, quân Mông Cổ lại đánh chiếm Lam Thành, Hải Vân được tướng Ma-hoa-lí (Mukhali) chú ý và tâu lên Thành-cát-tư, Đại hãn xuống chiếu khiến đối xử ưu ái hai thầy trò Sư, gọi họ là những người “cáo thiên”. Năm 1237, Hoàng hậu thứ hai của Thái tổ (Thành-cát-tư đại hãn) dâng tặng Sư danh hiệu “Quang thiên trấn quốc đại sỹ.”
Trên đây là những dữ kiện cho thấy người Mông Cổ đã có lưu ý đến Phật giáo Trung Quốc, và có lẽ với mức độ kính phục nào đó.
Có thể nhân được Đại hãn đặc biệt lưu ý mà sau này, vào năm Nhâm dần (1242), Hải Vân được Hộ-tất-liệt (Hốt-tất-liệt, Kublai) mời đến dưới trướng, bấy giờ đang ở tại lãnh địa Hồ Bắc. Trên đường đi ngang Vân Trung, nghe danh Lưu Bỉnh Trung[3], Sư bèn tìm đến và đề nghị Bỉnh Trung cùng đi. Điều này cho thấy Hải Vân xem cuộc hội kiến này rất quan trọng đối với sinh mệnh của Phật giáo trước sự tấn công của Đạo giáo. Ngay sau khi hội kiến, Lưu Bỉnh Trung nhanh chóng trở thành cố vấn quan trọng cho Hốt-tất-liệt trong sách lược bình định Trung nguyên.
Hốt-tất-liệt ban đầu tham khảo Phật giáo Thiền Trung Quốc, có lẽ sau đó chưa hài lòng, nên vào năm 1253, đề nghị Khoát-đoan vương (Gödön) trao Bát-tư-ba cho mình. Bát-tư-ba bấy giờ mới 18 tuổi, chưa được chú ý nhiều. Cho đến năm 1258, Hốt-tất-liệt chính thức trở thành đệ tử của Bát-tư-ba, truyền quy giới và thọ pháp quán đảnh. Đó là năm diễn ra cuộc tranh luận Thích-Lão lần thứ ba, được dứt điểm với vai trò chính là Bát-tư-ba.
Trước đó, như đã biết trước sự hoành hành của các đạo sĩ, các nhà sư phản đối, kiến nghị lên Mông-kha đại hãn (Möngke). Đại hãn cho tổ chức cuộc tranh luận chân giả để giải quyết vào năm 1255. Trong cuộc tranh luận này, bên phía Phật giáo có Na-mo người Kashmir đến từ thời Đại hãn Oa-khoát-đài, và được Mông-kha tôn làm quốc sư. Kết quả, các đạo sĩ thua. Lệnh phải thiêu hủy các ngụy thư của Đạo giáo, và trả lại chùa chiền cho Phật giáo.
Tuy có lệnh như vậy, nhưng tình hình không được cải thiện, các đạo sĩ không nghiêm chỉnh chấp hành. Những người Phật giáo lại đệ thư khiếu tố. Mông-kha lại cho tổ chức cuộc tranh luận thứ hai, năm sau, 1256. Lần này đại diện phía Phật giáo là Karma Pakshi, vị lạt-ma thuộc phái Karmapa Tây Tạng, rất được Mông-kha kính trọng. Kết quả vẫn như lần trước, các đạo sĩ thất bại.
Nhưng cũng như lần trước, tình hình vẫn không cải thiện. Trái lại, còn trở nên căng thẳng hơn. Những người Phật giáo lại kiện cáo, dẫn đầu bởi Phước Dụ Trưởng lão chùa Thiếu Lâm. Lần này Mông-kha giao cho Hốt-tất-liệt giải quyết. Một cuộc tranh luận Phật-Lão lại được tổ chức vào năm 1258. Bên Phật giáo có Bát-tư-ba và Lưu Bỉnh Trung. Hốt-tất-liệt đích thân chủ trì tài phán. Giao ước thắng bại: nếu Đạo sĩ thắng, các sư tăng phải đội mão khoác Đạo phục, làm đạo sĩ. Nếu bên Phật thắng, sách Đạo giáo ngụy thư phải bị đốt, đạo sĩ phải cạo đầu làm tăng…
Kết quả, các đạo sĩ Lý Chí Thường đuối lý, phải y ước thi hành, lệnh dẫn 17 đạo sĩ sang chùa Long Quang cạo đầu làm tăng, đốt ngụy kinh 45 bộ, trả lại chùa Phật 237 khu.
Năm 1259, Đại hãn Mông-kha (Möngke) chết, Hốt-tất-liệt lên ngôi Đại hãn. Ngay trong năm đó, phong Bát-tư-ba làm Quốc sư với tôn hiệu “Tam giới Pháp vương” (khams gsum chos kyi rgayl po), trao cho ngọc ấn, làm Pháp chủ Trung nguyên, thống lãnh thiên hạ giáo môn, tổng lý sự vụ tôn giáo trong toàn đế quốc Nguyên Mông. Sau đó, trở về Tây Tạng. Chí Nguyên năm thứ 7 (1270), Bát-tư-ba phụng chiếu Hốt-tất liệt chế văn tự cho Đại Nguyên.
Năm 1269, Bát-tư-ba hoàn thành hệ thống văn tự Mông Cổ dâng lên Hốt-tất-liệt, chiếu chỉ ban hành các châu quận áp dụng, các quan lại phải học.
Năm sau, 1270, Bát-tư-ba biên soạn Xuất gia thọ cận viên yết-ma nghi phạm, nghi thức xuất gia thọ giới cụ túc theo hệ Luật Căn bản Hữu bộ, truyền thống chính của tăng-già Tây Tạng. Kèm theo bí-sô học tập lược pháp, tóm tắt 253 điều khoản (học xứ) trích từ Giới kinh của tỳ-kheo theo hệ luật Căn bản. Sau khi dịch thành Hán văn, chiếu chỉ ban hành áp dụng cho toàn thể tăng-già trong các khu vực Hán, Mông, Tây Hạ, Cao Ly, Đại Lý, Hồi Hột. Luật Tứ phần, hệ Luật chính thức của Phật giáo Hán được chính thức thay thế bằng hệ Luật Căn bản Hữu bộ của Phật giáo Tây Tạng.
Triều Nguyên Thế tổ Hốt-tất-liệt, niên hiệu Chí Nguyên thứ 16, Tl 1927, Bát-tư-ba tịch. Sau khi tịch, suốt trong triều đại Nguyên, Bát-tư-ba vẫn rất được tôn sùng. Cho đến khi người Trung Quốc đánh đuổi quân Mông Cổ, triều đại Nguyên thống trị Trung Quốc chấm dứt, Phật giáo trong truyền thống Tây Tạng cũng theo gót quân Nguyên lui về thảo nguyên sa-mạc. Ảnh hưởng Bát-tư-ba trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc ít được biết đến. Hệ Luật truyền thừa của Căn bản Hữu bộ cũng tàn lụi từ đó.
Trong sách lược bình định Trung nguyên của Hốt-tất-liệt, qua những sự kiện chiêu hiền, và xử lý xung đột Phật-Lão một cách mềm dẻo, chúng ta có thể có hai ấn tượng nổi bật, đó là có xu hướng thiên vị Phật giáo trong đó hệ Phật giáo Tây Tạng trở thành chủ đạo, và chế tác văn tự Mông Cổ thay thế Hán tự. Về xu hướng Phật giáo, ông vận dụng cả Phật giáo Hán và Tạng. Mặc dù trong tư tưởng, sự thiên vị Phật giáo có thể do tín ngưỡng nhiều hơn là sách lược chính trị, nhưng trong hai hệ Phật giáo, ông đã nâng cao vai trò của Bát-tư-ba lên tầm mức vĩ đại không chỉ vì lòng sùng kính nhưng không phải không có ý đồ thay thế truyền thống Phật giáo Trung Quốc bằng Phật giáo Tây Tạng. Mặc dù giới Tăng lữ Trung Quốc như sư đồ Hải Vân và Lưu Bỉnh Trung (pháp danh Tử Thông) cũng đóng góp không ít cho sự nghiệp đế vương của Hốt-tất-liệt. Sự kiện quy định hành trì hệ Luật Căn bản Hữu bộ thay cho hệ Luật Tứ phần đáng được nhận thức rằng một khi thay đổi chế độ sinh hoạt của tăng-già, vốn là mạng mạch của Phật pháp, tất cũng thay đổi cả tập quán tư duy, và rồi người Mông Cổ sẽ ngự trị Trung nguyên không phải chỉ bằng vũ lực, mà thống trị cả mặt văn hóa. Văn tự Mông Cổ do Bát-tư-ba sáng chế thay thế văn tự Hán, đó là cơ sở để thiết lập cơ sở cho một nền văn hóa Mông Cổ đối trị văn hóa lâu đời của người Hán. Luật Căn bản Hữu bộ thay thế Luật Tứ phần, là cơ sở cho một ý thức mới: ý thức hệ dân tộc Mông Cổ.
Nhưng ý đồ của Hốt-tất-liệt, dựa trên Phật giáo Tây Tạng để thống trị Trung Quốc không chỉ bằng vũ lực mà còn cả về tư tưởng, tôn giáo, chính trí xã hội; nếu suy luận này của chúng ta không lạc hướng, thế thì lịch sử chứng tỏ ý đồ này đã thất bại. Ý nghĩa của sự thất bại này thuộc phạm vi nghiên cứu của các nhà văn hóa và sử học.
Tuệ Sỹ
[1] Đại Tống Tăng sử lược, Tán Ninh (919-1001) soạn, T54, No. 2126, tr. 238b3. Cao tăng truyện, Lương Sa-môn Thích Huệ Hạo soạn, quyển 1, truyện Đàm-ma-ca-la. T50n2059, tr.324c15. – Đàm-ma-ca-la (Dharmakāla, Hán dịch: Pháp Thời), gốc Trung Ấn, đến đất Ngụy năm Hoàng sơ thứ 3 (222 TL); đến năm Gia bình 2 (250 TL) dịch Tăng-kì giới tâm, lập pháp yết-ma thọ giới. Trúc Luật-viêm, hoặc gọi là Trúc Tương-viêm, Trúc Trì-viêm (không rõ gốc Phạn), đến đất Ngô dưới thời Tôn Quyền năm Hoàng vũ thứ 3 (225), cùng dịch một số Kinh với Duy-kì-nan. Duy-kì-nan, hoặc âm là Duy-chỉ-nan, Hán dịch là Chướng Ngại (Vighna) đến Đông Ngô cùng lúc với Trúc Luật-viêm. Đàm-đế, ngưới An-tức (Cổ Ba-tư, Ashkāniān), đến đất Tào Ngụy trong khoảng niên hiệu Chính nguyên (254-256). Chu Sỹ Hành, còn có hiệu là Bát Giới, người Dĩnh xuyên; cũng là ngưới Hán đầu tiên Tây du, đi sưu tầm Kinh Phật trong các vùng Tây vực.
[2] Sechin Jagchid: “The Mongol Khans and Chinese Buddhism and Taoism”, The Journal of the International Asociation of Buddhist Studies, vol. 2, 1979; p. 7-28.
[3] Lưu Khản, pháp danh Tử Thông, ngay sau khi lên ngôi Đại hãn, Hốt-tất-liệt khiến đổi tên là Lưu Bỉnh Trung, không dùng pháp danh nữa để tiện việc tham dự triều chính, sung Đồng nghị Xu mật viện, phong Thái bảo Tham dự Trung thư sảnh (phủ Thừa tướng), tước Quang lộc đại phụ. Phật Tổ thống ký, quyển 48, T49n2035, tr. 433c25. Phật tổ lịch đại thông tải, quyển 21, T49n2036, tr 705c27.Cf. In the Service of the Khan: Eminent Personalities of the Early Mongol-Yüan, ed. by Igor de Rachewitz (1993), p. 245-269
(Hương Tích)
_________________________________
(*) Theo Wikipedia:
Hốt Tất Liệt là Đại Hãn thứ năm của đế quốc Mông Cổ, và là người sáng lập ra triều đại nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai thứ tư của Đà Lôi và là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Dưới sự lãnh đạo của Hốt Tất Liệt, đế quốc Mông Cổ đã đạt đến thời kỳ cực thịnh. Ông đã dời đô từ Hoa Lâm (Karakorum) về Đại Đô (tức Bắc Kinh ngày nay). Năm 1271, Hốt Tất Liệt thành lập nhà Nguyên, đế quốc kiểm soát các khu vực ngày nay thuộc Mông Cổ, Hoa Bắc, tây bắc Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên và các khu vực cận kề, giúp ông có địa vị như một hoàng đế Trung Hoa. Năm 1279, quân đội nhà Nguyên đánh bại Nam Tống, Hốt Tất Liệt chính thức trở thành hoàng đế Trung Hoa đầu tiên không phải người Hán và cai trị nhà Nguyên đến khi mất vào năm 1294, miếu hiệu là Nguyên Thế Tổ (元世祖).
Dưới sự cai trị của Hốt Tất Liệt, tất cả các vương quốc phụ cận với đế quốc Mông Cổ đều trở thành các nước chư hầu lệ thuộc. Ông phát động các chiến dịch thôn tính Nhật Bản, Đại Việt, Bagan và Java, nhưng không thành. Mặc dù rằng Hốt Tất Liệt theo đạo Phật nhưng ông lại cũng để ý đến sự phát triển của đạo Kitô[9] trên thế giới và mời các sứ giả đến Trung Quốc truyền đạo. Ông cũng chú trọng đến việc phát triển các nghề thủ công, khoa học và nghệ thuật.
Thứ Hai, 13 tháng 12, 2021
Đại Chiêm Hải Khẩu-Hội An: Một cảng-thị quốc tế sầm uất thời vương quốc Champa
Trần Kỳ Phương
Một trong những cảng-thị sớm nhất ở Đông Nam Á cổ đại
Sông Thu Bồn được nhắc đến trong minh văn Chàm từ cuối thế kỷ thứ 4 là một dòng sông thiêng với danh hiệu Mahanadi (Đại giang thần) bên cạnh ngọn núi thiêng Mahaparvata (Đại sơn thần) hay Hòn Đền-Mỹ Sơn.[1] Dòng sông này và những chi lưu của nó là huyết lộ nối liền miền ngược và miền xuôi ở vùng Quảng Nam từ thời tiền sử cho đến thời cận đại.
Dựa vào kết quả của những phát hiện khảo cổ học, chúng ta biết rằng lưu vực sông Thu Bồn đã phát triển toàn diện về mặt kinh tế-xã hội từ những thế kỷ trước và sau Công nguyên minh chứng bởi các di tích khảo cổ học tiền và sơ sử thuộc văn hóa Sa Huỳnh được phát quật trong những thập kỷ vừa qua. Nghiên cứu các di tích và di vật khảo cổ, các nhà khảo cổ học cho biết rằng cư dân tại khu vực này có khả năng đã hình thành một xã hội có tổ chức cao theo mô hình thể chế của một nhà nước sơ khai.[2]
Xét về mặt khảo cổ học cảnh quang (landscape archaeology) hệ thống di tích khảo cổ học tiền-sơ sử dọc sông Thu Bồn đã hình thành một “hệ thống trao đổi ven sông” giữa miền ngược và miền xuôi. Đây là một hệ thống kinh tế đặc thù được áp dụng để tìm hiểu sự hình thành của các vương quốc cổ ở Đông Nam Á. Mô hình này được giả thiết bởi nhà khảo cổ học Bennet Bronson, từ năm 1977,[3] theo đó, “hệ thống trao đổi ven sông” mô tả một cách cụ thể về một trung tâm thương mãi cận duyên được thiết lập ở một cửa sông và hoạt động như một cảng-thị trung chuyển trên con đường hải thương quốc tế. Về phía tây của cảng-thị có những điểm trao đổi khác như những chợ phiên nằm xa hơn về phía thượng nguồn hoặc nằm sâu trong vùng núi giữ vai trò những “trạm cung cấp” lâm sản.[4] Cư dân ở những vùng này chưa có khái niệm về hệ thống thương mãi, họ sống trong những bản làng xa xôi ở vùng thượng nguồn nhằm thu thập các loại lâm thổ sản. Họ đã mang những lâm sản ấy đến một điểm thu mua ở ven sông của miền xuôi (chợ phiên), nơi đây họ trao đổi với một cộng đồng dân cư đông đúc hơn. Nhờ vào cộng đồng này mà họ có thể tiếp xúc với “một nền kinh tế đem lại nhiều lợi nhuận hơn và một nền kỹ thuật tân tiến hơn”.
Theo mô hình trên, thì, Đại Chiêm Hải Khẩu-Hội An chính là một cảng-thị đã được thiết lập từ thời tiền sử để điều hành một hệ thống thương mại xa bờ hoặc giao lưu quốc tế cũng như một hệ thống trao đổi ven sông của cư dân nội địa ở miền trung du và thượng du. Dựa trên các cứ vật khảo cổ học rất phong phú tìm thấy trong văn hóa Sa Huỳnh ở vùng Hội An và lưu vực sông Thu Bồn với các di tích tiêu biểu như Lai Nghi, Gò Dừa, Hòan Châu, v.v., [5] có niên đại từ thế kỷ thứ 2 trước CN đến thế kỷ thứ 2 CN, chúng ta biết rằng nền kinh tế-xã hội của vùng này đã phát triển rất cao. Tưởng cũng nên lưu ý rằng lưu vực sông Thu Bồn là nơi tập trung dày đặc nhất các di chỉ văn hóa Sa Huỳnh ở Việt Nam, và các di chỉ Sa Huỳnh trong khu vực này không chỉ được phát hiện ở miền hạ lưu ven biển, mà còn ở sâu trong đất liền hoặc ở miền núi dọc theo thượng lưu các con sông lớn. Hệ thống di tích tiền-sơ sử này đã khẳng định Hội An là một trong những cảng-thị được hình thành sớm nhất ở vùng Đông Nam Á.
Năm 192, vương quốc Champa được đề cập đến trong sử liệu Trung Hoa với danh hiệu Lâm Ấp; và, hệ thống di tích tiền-sơ sử phát hiện ở lưu vực sông Thu Bồn đề cập trên đây đã góp phần chứng minh rằng Lâm Ấp được thiết lập trong vùng này.[6] Tiểu quốc này đã trực tiếp kế thừa nền kinh tế của tiên dân và phát triển nó hoàn chỉnh hơn để hình thành một vương quốc Hindu nhờ vào sự tiếp xúc gần gũi với văn hóa Ấn Độ; việc này được chứng minh bởi minh văn đầu tiên bằng tiếng Phạn (Sanskrit) của Champa được dựng vào cuối thế kỷ thứ 4 dưới triều vua Bhadravarman hay Phạm Hồ Đạt (380-413) tại Mỹ Sơn là nơi được chọn để lập thánh địa và lăng mộ hoàng gia,[7] và được kế thừa qua các vương triều nối tiếp cho đến cuối thế kỷ 13.
Nền kinh tế hải thương phát triển của Champa
(Các)Vương quốc Champa được cấu thành bởi một hệ thống gồm nhiều tiểu quốc hoặc “tiểu quốc cảng-thị” dựa trên những cửa sông chính ở miền Trung Việt Nam, chúng được xem như những vùng đất thiêng. Dựa theo nguyên lý phong thủy (geomancy) của đạo Hindu/Ấn giáo kết hợp với địa hình tự nhiên sở tại; mỗi tiểu quốc hay “tiểu quốc cảng-thị” của người Chàm được thiết lập dựa vào khuôn mẫu sau:
- Một trung tâm thương mãi tọa lạc ở cửa sông thiêng;
- Một trung tâm quyền lực hoàng gia--kinh thành--tọa lạc về phía tây cửa sông;
- Một thánh địa hoàng gia tọa lạc bên cạnh kinh thành dưới ngọn núi thiêng.
Theo đó, tiểu quốc Champa Amaravati, ở vùng Quảng Nam ngày nay, được tạo lập bởi ba thành tố sau:
- Đại Chiêm Hải Khẩu-Hội An--trung tâm hải thương bên dòng sông thiêng Thu Bồn;
- Kinh thành Sinhapura Trà Kiệu--còn gọi là “Kinh thành Sư tử”--trung tâm quyền lực hoàng gia;
- Mỹ Sơn--xưa kia được biết phổ biến là “Srisana-Bhadresvara”--thánh địa và lăng mộ hoàng gia dưới ngọn núi thiêng Mahaparvata/Hòn Đền.[8]
Kinh tế của (các)vương quốc Champa, ngoài nền tảng nông nghiệp và ngư nghiệp, chủ yếu dựa vào giao thương ven biển với các nước Ả Rập, Ấn Độ, Trung Quốc, và vương quốc ở Đông Nam Á. Champa là nguồn cung cấp gần nhất cho thị trường Trung Hoa với các sản phẩm cao cấp như ngà voi, sừng tê, quế, trầm hương, gia vị, v.v.; trong khi các kho cảng trung chuyển duyên hải là nơi cung cấp chỗ ở, lương thực, nước ngọt, và củi đốt cho tàu bè đi lại ven biển từ Nam Á đến Đông Á. Như vậy, (các)vương quốc Champa, đã cung cấp một số lớn các nhà trung gian thương mãi quan trọng nhất trong tuyến đường hải thương ở biển Đông.[9] Theo sách An Nam Chí Lược, Champa là hải cảng lớn và quan trọng nhất đã cung cấp nước ngọt và củi đốt cho thương thuyền Trung Hoa đi về phương Nam cho đến đầu thế kỷ 14 (khoảng 1335).[10] Điều này được minh chứng bằng hệ thống di tích giếng Chàm phát hiện ở khu vực Hội An và các nơi khác ở miền Trung.[11]
Thương nhân Chàm đã thiết lập một hệ thống trao đổi nội địa để trao đổi những mặt hàng như muối, nước mắm, hải sản khô, vải vóc, mã não, hồng ngọc, gốm sứ Trung Hoa, cồng chiêng, thuỷ tinh, dụng cụ bằng đồng; để đổi lấy trầm hương, quế, ngà voi, sừng tê, gia vị, thú lạ, chim quý, gỗ quý, v.v. Những sản vật cao cấp này được tập trung về các trung tâm thương mãi ở các phố cảng, đặc biệt các phố cảng có kho trung chuyển tốt như Cửa Việt (Quảng Trị), Hội An (Quảng Nam), Thị Nại (Qui Nhơn), Nha Trang (Khánh Hòa), Phố Hải (Phan Thiết) để trao đổi với các thương nhân nước ngoài đến từ Nam Á và Đông Á.
Sự phát triển rực rỡ của hệ thống kinh tế hải thương--nhờ dựa vào cảng-thị Đại Chiêm Hải Khẩu-Hội An--đã đem đến sự giàu mạnh cho tiểu quốc Champa Amaravati được minh chứng bằng các tổ hợp đền-tháp kỳ vĩ của kiến trúc Hindu và Phật giáo ở Quảng Nam như Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Chiên Đàn, Khương Mỹ, xây dựng liên tục từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13/14.
Quảng Nam là khu vực đan xen nhiều nền văn hoá khác nhau nhờ vào vị trí địa lý nằm giữa miền Bắc và miền Nam; giữa miền duyên hải và miền núi. Điều này giải thích sự cho cộng cư giữa những cộng đồng tiền trú nói tiếng Mã Lai Đa Đảo (người Chăm) và những người nói tiếng Nam Á/ Môn Khơ-me (người Katu), với cộng đồng người Kinh. Sau chiến thắng của vua Lê Thánh Tông chiếm được kinh đô Vijaya của Champa (ở vùng Bình Định) vào năm 1471, nhà vua đã lập một thủ lĩnh địa phương (một người thuộc dòng dõi Champa) sát cánh với một viên chức Việt để cùng cai trị miền đất này; chức vụ đồng cai quản này được gọi là “Đại Chiêm Đồng Tri Châu”.[12] Điều này chứng tỏ rằng thế lực của các thủ lĩnh địa phương của người Chàm vẫn còn giá trị ở vùng Quảng Nam cho đến cuối thế kỷ 15. Khi Nguyễn Hoàng khởi sự lập quyền cai quản trên vùng lưu vực sông Thu Bồn vào giữa thế kỷ 16, ông đã kế tục một số truyền thống Champa trong sách lược cai quản vùng đất này; và tất nhiên, đã kế thừa hệ thống kinh tế rất hiệu quả của tiên dân.[13]
Đáng lưu ý hơn nữa là, cho đến thế kỷ 18, Lê Quý Đôn vẫn ghi nhận rằng Quảng Nam là nước láng giềng[14] của các “chư phiên” ở phía tây (ý chỉ các tiểu quốc ở Nam Lào); và ông cũng khẳng định rằng, “Quảng Nam là xứ giàu có nhất trong thiên hạ” nơi có nhiều sản vật được nhập vào từ phía Bắc (các nước Đông Á) qua phố cảng Hội An,[15] làm sống lại một cảng-thị có tầm chiến lược trong nền kinh tế toàn cầu trong suốt chiều dài lịch sử của nó.
T.K.P
[1] Golzio, Karl-Heinz (chủ biên), Inscription of Campà [Minh văn Champa], tr. 4-5, Shaker Verlag, Aachen, 2004.
[2] Lâm Thị Mỹ Dung, ‘Tiếp cận khảo cổ học xã hội và khảo cổ học mộ táng trong nghiên cứu trường hợp miền Trung Việt Nam thời sơ sử’, Di sản lịch sử và những hướng tiếp cận mới, tr. 29-86, (chủ biên, Lê Hồng Lý và cộng sự), Nxb. Thế Giới, Hà Nội, 2011.
[3] Bronson, Bennet, ‘Exchange at the upstream and downstream ends: Notes toward a functional
model of the coastal state in Southeast Asia’[‘Trao đổi thượng nguồn và hạ lưu: Ghi chú về một mô hình khả dụng của quốc gia cận duyên ở Đông Nam Á’], Economic exchange and social interaction in Southeast Asia: Perspectives from prehistory, history, and ethnography [Chuyển đổi kinh tế và tương tác xã hội ở Đông Nam Á: Phối cảnh từ tiền sử, lịch sử và dân tộc học], tr. 39-52, (chủ biên, Karl L. Hutterer), Center for South and Southeast Asian Studies, University of Michigan, Ann Arbor, 1977.
[4] Người địa phương gọi là “bến” như Bến Giằng, Bến Hiên, v.v.
[5] Những hiện vật trong các di tích này bao gồm các sản vật từ Ấn Độ và Trung Hoa, như, mã não, vàng, ấm kendi, gương đồng và đồ đồng thời Hán, tiền cổ thời Hán, v.v., chứng minh cho những tiếp xúc quốc tế của vùng này từ những thế kỷ trước và sau Công nguyên.
[6] Yamagata, Mariko, ‘Trà Kiệu during the second and the third century CE: The formation of Linyi from an archaeological perspective’ [‘Trà Kiệu vào thế kỷ thứ hai và thứ ba Cn: Sự thành lập nước Lâm Ấp từ phối cảnh khảo cổ học’], The Cham of Vietnam: History, Society and Art [Người Chàm ở Việt Nam: Lịch sử, Xã hội và Nghệ thuật], tr. 81-101, (chủ biên, Trần Kỳ Phương & Bruce M. Lockhart), NUS Press, Singapore, 2011.
[7] Năm 1985, trong khi trùng tu nhóm tháp B-C-D, các nhà khảo cổ học đã phát hiện một quan tài đá nằm trong tường giữa tháp B6 và C3, quan tài này ghép bằng nhiều phiến đá, trong lòng có chứa nhiều mảnh gốm và tro than, có niên đại khoảng thế kỷ 10. Đây là một kiểu thức cải táng của hoàng gia Champa tương tự với một số quốc gia cổ của Đông Nam Á. Nó chứng minh rằng Mỹ Sơn cũng là lăng mộ hoàng gia Champa như Angkor của đế chế Khmer ở Cam-pu-chia. Chiếc quan tài này hiện trưng bày tại tháp Mỹ Sơn D1. (xem, Trần Kỳ Phương, Vestiges of Champa Civilization [Dấu tích văn minh Champa], tr. 35-36, Nxb. Thế Giới, Hà Nội, 2008.)
[8] Trần Kỳ Phương, Vestiges, sđd, tr. 2-5.
[9] Trần Kỳ Phương, ‘Interactions between uplands and lowlands through the ‘riverine exchange network’ of central Vietnam- A case study in the Thu Bon river valley’ [‘Tương tác giữa miền ngược và miền xuôi qua ‘hệ thống trao đổi ven sông’ ở miền Trung Việt Nam- Một nghiên cứu mẫu ở thung lũng sông Thu Bồn’], 50 years of Archaeology in Southeast Asia: Essays in honour of Ian Glover [50 năm khảo cổ học ở Đông Nam Á: Những tiểu luận vinh danh Ian Glover] , tr. 206-15, (chủ biên, Bellina, B. & L. Bacus & T.O. Pryce & J. Wisseman Christie), River Books, Bangkok and London, 2010.
[10] Lê Tắc, An Nam Chí Lược, tr. 72-73, (bản dịch Đại học Huế ), Nxb. Thuận Hóa & Trung Tâm Ngôn Ngữ Đông Tây, Huế, 2002.
[11] Trần Kỳ Phương & Vũ Hữu Minh, ‘Cửa Đại Chiêm (Port of Great Champa) in the 4th - 15th Centuries’ [‘Cửa Đại Chiêm trong thế kỷ 4-15’], Ancient Town of Hội An, tr. 117-22, (chủ biên, The National Committee for the International Symposium on the Ancient Town of Hội An), Nxb. Thế Giới, Hanoi, 2006. (Ấn bản lần thứ 3)
[12] Lê Qúy Đôn. Phủ Biên Tạp Lục, Lê Qúy Đôn Toàn Tập, Tập 1, tr. 42-43, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977.
[13] Wheeler, Charles, ‘One Region, Two Histories: Cham Precedents in the History of the Hội An region’ [Một vùng miền, hai lịch sử: Tiên dân Chàm trong lịch sử vùng Hội An’], Vietnam: Borderless Histories [Vietnam: Lịch sử không biên giới], tr. 184-88, (chủ biên, Nhung Tuyet Tran and Anthony Reid), The University of Wisconsin Press, Wisconsin, 2006.
[14] Thời này Quảng Nam được các thương nhân Nhật Bản và phương Tây gọi là “Quảng Nam Quốc” hay “Kẻ Chiêm”. (xem, Dror, Olga và Keith Taylor [editors and annotators], Views of Seventeenth –Century Vietnam: Christoforo Borri on Cochinchina & Samuel Baron on Tonkin [Những góc nhìn Việt Nam trong thế kỷ 17: Christoforo Borri về Trung Bộ & Samuel Baron về Bắc Bộ], tr. 15-19 và 91-94, Southeast Asia Program Publications, Southeast Asia Program, Ithaca, Cornell University, 2006.)
[15] Lê Quý Đôn, Phủ Biên, sđd, tr. 234-35.
Chủ Nhật, 12 tháng 12, 2021
Vạn lý tường thành Champa dài nhất Đông Nam Á
Trà Toàn