Đoan Trang
1. Tiến trình tố tụng
Vụ án bắt đầu vào ngày 22/1/2013 khi Philippines gửi Trung Quốc một Thông báo (Notification) và một Tuyên bố Yêu sách “về tranh chấp với Trung Quốc xung quanh quyền tài phán của Philippines ở biển Tây Philippines” (tức là Biển Đông trong tiếng Việt, biển Nam Trung Hoa theo cách gọi quốc tế. Trong bài này, người viết xin gọi chung là Biển Đông).
Sự kiện này xảy ra sau khi Trung Quốc giành quyền kiểm soát bãi đá cạn Scarborough – một rạn san hô nằm cách bờ biển Philippines khoảng 140 dặm (tương đương 225 km).
Trong Thông báo gửi Trung Quốc, Philippines cáo buộc Trung Quốc vi phạm luật quốc tế khi cho tàu thuyền vào đánh bắt cá, đe dọa tàu thuyền Philippines và không bảo vệ môi trường, cụ thể là hút cát và trầm tích dưới đáy biển lên để xây đảo nhân tạo trên một vài rạn san hô trong Biển Đông, trong đó có Scarborough mà Philippines khẳng định là nằm trong vùng biển của mình.
Philippines cũng yêu cầu tòa án quốc tế bác bỏ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc, đòi toàn bộ vùng biển nằm bên trong một đường chín đoạn. Xuất hiện trên bản đồ chính thống của Trung Quốc, đường chín đoạn này có hình dạng như cái lưỡi bò, bao trùm khoảng 85-90% Biển Đông, tức là tương đương diện tích nước Mexico, và đây cũng là vùng biển có tính chất quan trọng sống còn đối với thương mại toàn cầu, đặc biệt rất giàu tài nguyên, khoáng sản, kể cả dầu mỏ.
2. Trung Quốc không chấp nhận, không tham gia tố tụng
Philippines cũng yêu cầu tòa án quốc tế bác bỏ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc, đòi toàn bộ vùng biển nằm bên trong một đường chín đoạn. Xuất hiện trên bản đồ chính thống của Trung Quốc, đường chín đoạn này có hình dạng như cái lưỡi bò, bao trùm khoảng 85-90% Biển Đông, tức là tương đương diện tích nước Mexico, và đây cũng là vùng biển có tính chất quan trọng sống còn đối với thương mại toàn cầu, đặc biệt rất giàu tài nguyên, khoáng sản, kể cả dầu mỏ.
2. Trung Quốc không chấp nhận, không tham gia tố tụng
Ngày 19/2/2013, Trung Quốc gửi cho Philippines một công hàm mô tả “lập trường của Trung Quốc về các vấn đề biển Nam Trung Hoa”, bác bỏ và trả lại Thông báo của Philippines. Theo đó, Trung Quốc không chấp nhận và cũng không tham gia tiến trình tố tụng.
Bắc Kinh đã nhiều lần nhắc lại lập trường này trong các công hàm, tuyên bố, thư từ của Đại sứ nước CHND Trung Hoa tại Hà Lan gửi các thành viên của Tòa án, cũng như trong văn bản có tên “Tham luận nêu lập trường của CHND Trung Hoa về vấn đề quyền tài phán trong vụ kiện liên quan đến biển Hoa Nam do CH Philippines khởi xướng”, đề ngày 7/12/2014.
Bắc Kinh quả thật đã hành động đúng như lập trường của họ: Không tham gia tố tụng. Đồng thời, họ nêu rõ rằng các tuyên bố, hồ sơ, tài liệu, văn bản nêu lập trường đều “không bao giờ được diễn giải thành sự tham gia của Trung Quốc vào tiến trình tố tụng dưới bất kỳ hình thức nào”.
3. Trung Quốc: Là tranh chấp chủ quyền / Philippines vi phạm thỏa thuận
Trong “tham luận lập trường” đề ngày 7/12/2014, Bắc Kinh khẳng định: “Quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa trong tiếng Việt – NV) của Trung Quốc hoàn toàn có đủ tư cách để có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa”.
Bắc Kinh khẳng định Tòa án không có quyền tài phán trong vụ việc này. Tham luận viết, bản chất của vụ án là vấn đề chủ quyền đối với một số cấu trúc hàng hải trên biển Nam Trung Hoa, và như thế là nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (sau đây gọi tắt là “Công ước”), không liên quan đến việc diễn giải và vận dụng Công ước:
“Chỉ sau khi chủ quyền của một nhà nước đối với một cấu trúc hàng hải đã được xác lập, và nhà nước ấy đã có tuyên bố chủ quyền tương ứng, thì mới có thể có chuyện nảy sinh tranh chấp liên quan đến việc diễn giải hay vận dụng Công ước – đó là khi mà một nhà nước khác đặt câu hỏi về việc liệu các yêu sách kia có tuân thủ Công ước hay chưa, hoặc liệu yêu sách của các bên có đang chồng lấn. Nếu chủ quyền đối với một cấu trúc hàng hải còn chưa được xác quyết, thì không thể tồn tại tranh chấp cụ thể, thực sự để mà phải đưa ra trọng tài phân xử xem các yêu sách chủ quyền của nhà nước nọ đối với một cấu trúc hàng hải như vậy có phù hợp với Công ước hay không”.
Diễn giải đơn giản là: Nếu không biết những miếng đất/đá nào đó thuộc về ai, thì không thể dùng Công ước để tuyên bố chủ quyền với những vùng đặc quyền kinh tế và lãnh hải xung quanh những miếng đất/ đá ấy. Tòa cũng không có quyền xác định xem những miếng đất/đá đó thuộc về ai (bởi Công ước chỉ xử lý tranh chấp trên biển chứ không xử lý tranh chấp đất).
Trung Quốc cũng tố ngược lại Philippines là hành xử phi pháp khi kiện Trung Quốc ra trọng tài quốc tế, vì vào năm 1995, hai nước đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp “một cách ôn hòa và hữu nghị thông qua cơ chế tham vấn”. Năm 1999, 2000, 2001, hai nước tiếp tục có những tuyên bố chung khẳng định việc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, thông qua tham vấn và đàm phán. Tuyên bố chung về Ứng xử của Các Bên trên Biển Đông (DOC) ký năm 2002 giữa Trung Quốc và ASEAN cũng quy định như vậy.
Trung Quốc cũng tố ngược lại Philippines là hành xử phi pháp khi kiện Trung Quốc ra trọng tài quốc tế, vì vào năm 1995, hai nước đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp “một cách ôn hòa và hữu nghị thông qua cơ chế tham vấn”. Năm 1999, 2000, 2001, hai nước tiếp tục có những tuyên bố chung khẳng định việc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, thông qua tham vấn và đàm phán. Tuyên bố chung về Ứng xử của Các Bên trên Biển Đông (DOC) ký năm 2002 giữa Trung Quốc và ASEAN cũng quy định như vậy.
4. PCA: Tranh chấp có liên quan đến diễn giải và vận dụng Công ước
Ngày 29/10/2015, Tòa án ra phán quyết về quyền tài phán và thụ lý, theo đó, Tòa thấy rằng:
- Tòa được thành lập đúng, phù hợp với Phụ lục VII của Công ước;
- Sự vắng mặt của Trung Quốc trong quá trình tố tụng không làm cho Tòa mất quyền tài phán;
- Hành động khởi kiện của Philippines không vi phạm tiến trình tố tụng;
- Không có bên thứ ba nào là “không thể thiếu được” đến mức sự vắng mặt của họ có thể làm Tòa mất quyền tài phán;
- Căn cứ Điều 281, 282 của Công ước, thì Tuyên bố về Ứng xử của Các Bên trên Biển Đông (DOC), Hiệp định Hữu nghị và Hợp tác ở Đông Nam Á, Công ước về Đa dạng Sinh học, v.v. không ngăn cản việc phải có một thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc;
- v.v.
Điều đó nghĩa là, dù Trung Quốc vắng mặt, Tòa vẫn tiếp tục tiến trình tố tụng. Cơ sở luật pháp của việc này là, Điều 9, Phụ lục VII của Công ước quy định: “Sự vắng mặt của một bên, hoặc việc một bên không tự bảo vệ mình trong vụ án, đều không cấu thành sự cản trở tiến trình tố tụng”.
Cũng theo Công ước, một tòa án được xác lập theo Phụ lục VII thì có quyền tài phán – nôm na là có thẩm quyền – để xét xử tranh chấp giữa các nhà nước tham gia Công ước nếu như tranh chấp đó có liên quan đến việc “diễn giải hoặc vận dụng” Công ước.
Kết luận là Tòa có quyền tài phán.
Theo đúng quy định trong Điều 5 Phụ lục VII về nghĩa vụ của tòa, “đảm bảo bên nào cũng có cơ hội đầy đủ để được lắng nghe và trình bày vụ việc”, Tòa án đã cập nhật cho Trung Quốc về tất cả các diễn biến, nêu rõ rằng tiến trình tố tụng luôn để ngỏ để Trung Quốc có thể tham gia bất kỳ lúc nào, và mời Trung Quốc bình luận về bất cứ điều gì được đưa ra trong tiến trình.
5. Philippines: Yêu cầu 5 điểm – Không liên quan đển khẳng định chủ quyền
Các lập luận của phía Philippines có thể được tóm tắt như sau:
Thứ nhất, Trung Quốc không có quyền thực thi cái mà họ gọi là “chủ quyền lịch sử” đối với vùng biển, đáy biển và tầng đất cái nằm ngoài biên giới mà họ có được theo Công ước. Luật pháp quốc tế chưa bao giờ chấp nhận những yêu sách chủ quyền chiếm lấy một diện tích khổng lồ trên biển; suốt từ đầu thế kỷ 17, luật pháp quốc tế chỉ công nhận sự kiểm soát của nhà nước đối với dải biển hẹp nằm sát bờ biển.
Quan trọng nhất là, Trung Quốc chưa bao giờ có chủ quyền lịch sử trên Biển Đông. Philippines cho rằng cho đến đầu thế kỷ 20, Trung Quốc vẫn chỉ xác định chủ quyền của họ về phía nam không quá đảo Hải Nam, và những yêu sách chủ quyền của họ đối với các đảo trên Biển Đông chỉ mới bắt đầu có từ những năm 1930. Thậm chí, tuyên bố của Trung Quốc về “các quyền lịch sử” đối với Biển Đông còn mới hơn, chỉ mới được đề cập lần đầu tiên vào tháng 5/2009. Các quốc gia có biển khác chưa bao giờ tán thành yêu sách đó của Trung Quốc, riêng Philippines khẳng định rằng Trung Quốc không có cơ sở nào để hình thành “chủ quyền lịch sử”.
Thứ hai, do cái gọi là “đường chín đoạn” nhằm xác định yêu sách chủ quyền của Trung Quốc gắn với “chủ quyền lịch sử”, mà Trung Quốc lại không có “quyền lịch sử” nào cả, do đó, theo luật pháp quốc tế, đường chín đoạn cũng không có cơ sở nào để tồn tại.
Thứ ba, các cấu trúc hàng hải khác nhau mà Trung Quốc dựa vào để coi như căn cứ khẳng định chủ quyền trên Biển Đông thì đều không phải là đảo để mà có được vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
(Theo truyền thống, các đảo đều có nội thủy và lãnh hải bao quanh. Chiều rộng của lãnh hải, theo Điều 3 Công ước, không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Bên ngoài lãnh hải của một đảo, là tới vùng tiếp giáp, rồi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), và rộng nhất là thềm lục địa của đảo đó. Một cấu trúc địa lý nếu không phải là đảo thì chỉ được có nội thủy và lãnh hải – NV).
Theo quan điểm của Philippines, các cấu trúc hàng hải mà Trung Quốc lấy làm căn cứ để xác lập chủ quyền thì có một số là đá, một số chỉ nổi lên khi thủy triều thấp, và một số nữa rõ ràng là đã chìm vĩnh viễn dưới biển. Chúng không thích hợp cho con người ở, không có đời sống kinh tế riêng, và vì thế, không phải là đảo theo như định nghĩa về đảo trong Điều 121 Công ước.
Do vậy, không cấu trúc nào có thể sinh ra chủ quyền ở vùng quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở (hay nói cách khác, không thể có gì khác ngoài nội thủy và lãnh hải). Việc Trung Quốc ồ ạt tiến hành các hoạt động khẳng định chủ quyền thời gian gần đây không thể thay đổi được bản chất ban đầu và tính chất của các cấu trúc hàng hải đó.
Đặc biệt, Philippines cho rằng bãi cạn Scarborough, Gạc Ma (Johnson Reef), Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Châu Viên (Cuarteron Reef) đều là đá, không phải là đảo, do vậy không có vùng đặc quyền kinh tế và không làm nảy sinh vấn đề “chồng lấn về yêu sách” để khiến cho Tòa không có quyền tài phán.
Thứ tư, Trung Quốc đã vi phạm Công ước khi can thiệp vào việc Philippines thực hiện các quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình.
Thứ năm, Trung Quốc đã phá hoại môi trường biển trong khu vực một cách không thể thay đổi được, phá hoại những rạn san hô ở Biển Đông, kể cả những khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, có những hoạt động đánh bắt cá mang tính hủy diệt và đầy rủi ro, khai thác cạn kiệt các giống loài đang có nguy cơ tuyệt chủng.
6. Phán quyết cuối cùng: 5 kết luận quan trọng
Thứ ba, ngày 12/7/2016, Tòa án Trọng tài Quốc tế ra phán quyết xử thắng cho Philippines trong vụ kiện Trung Quốc.
Phán quyết dài 501 trang khẳng định Trung Quốc không có “chủ quyền lịch sử” đối với Biển Đông và đường chín đoạn tức đường lưỡi bò là không có căn cứ pháp lý, do đó, vô hiệu lực. Phán quyết có các nội dung chính sau:
Thứ nhất, Trung Quốc không có chủ quyền lịch sử đối với tài nguyên trên Biển Đông, vì điều đó không phù hợp với quy định của Công ước về vùng đặc quyền kinh tế. Và mặc dù đã có 2 nhà hàng hải cùng những ngư dân Trung Quốc (cũng như nhiều nước khác) từng khai thác một số đảo trên Biển Đông, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy Trung Quốc đã độc quyền kiểm soát các vùng biển, đảo này và tài nguyên của chúng từ trong lịch sử. Trung Quốc không có cơ sở pháp lý nào để đòi chủ quyền lịch sử đối với vùng biển và tài nguyên nằm trong đường chín đoạn mà họ đưa ra.
Thứ hai, mặc dù Trung Quốc đã tiến hành sửa sang, tác động rất nhiều vào các cấu trúc hàng hải, nhưng Công ước phân loại các cấu trúc đó (là đảo hay chỉ là đá) căn cứ vào điều kiện tự nhiên của chúng chứ không phải căn cứ vào những tác động nhân tạo. Tòa cũng cho rằng, việc các nhà hàng hải hay ngư dân từng khai thác nhất thời những cấu trúc địa lý trên Biển Đông không tạo thành một cộng đồng (dân cư) ổn định trên đảo; còn các hoạt động gọi là “kinh tế” trong lịch sử thì chỉ là khai thác tài nguyên, khoáng sản. Theo đó, Tòa kết luận: Toàn bộ quần đảo Trường Sa không tạo ra các vùng biển mà tại đó các nhà nước có chủ quyền mở rộng.Riêng những cấu trúc địa lý mà Trung Quốc khẳng định chủ quyền thì đều không phải là đảo, vì vậy không có vùng đặc quyền kinh tế và không chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Thứ ba, Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines trên vùng đặc quyền kinh tế của Philippines khi: (a) ngăn chặn hoạt động đánh bắt cá và thăm dò dầu khí của Philippines; (b) xây đảo nhân tạo; và (c) để cho ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong khu vực. Tàu hải giám Trung Quốc còn cố tình đâm va rất nghiêm trọng để cản phá tàu Philippines; đây là hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ tư, Trung Quốc đã xây đảo nhân tạo ở 7 cấu trúc địa lý trong quần đảo Trường Sa, gây hại nghiêm trọng đến các rạn san hô, và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn, bảo vệ hệ sinh thái biển cũng như đời sống của các loài sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng. Tòa án còn phát hiện ra rằng chính quyền Trung Quốc hoàn toàn ý thức được là ngư dân Trung Quốc đã khai thác với quy mô lớn cả những động thực vật sắp tuyệt chủng như san hô, rùa biển, trai khổng lồ… nhưng không thực thi nghĩa vụ ngăn chặn những hành động đó.
Thứ năm, việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo, tác động mạnh vào các cấu trúc địa lý trên biển, là không tuân thủ nghĩa vụ của một nhà nước trong tiến trình giải quyết tranh chấp. Đó là bởi vì, khi làm như vậy, họ đã gây ra những tổn hại không thể phục hồi đối với môi trường biển, đã hủy hoại bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc địa lý vốn đang là đối tượng tranh chấp giữa các bên./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét