Tổ các quan họ Trịnh, họ Lê đều có nguồn gốc Thanh Hóa.
Thanh Hóa có mấy cái lạ:
1- Tỉnh to thế mà dưới thời nhập tách loạn cào cào cộng sản, nó vẫn nguyên xi.
2- Lắm rừng lắm núi mà tuyệt không có long mạch.
3- Chả cần long mạch thì vẫn sinh nhiều vua chúa, vương giả, đời nào cũng có.
Nhân bài lê thê sặc mùi thum thủm của tay điếm bút cung đình Xuân Ba tụng ca về 1 ông họ Trịnh Xuân, đưa lại 1 truyện viết về cái dạng "long mạch" rất chi là quái lạ của người xứ Thanh. Bạn nào ngại đọc dài xin cảm phiền.
TƯỚNG LẠ
(Truyện ngắn)
Thời Hồng Đức, phủ Thanh Hoa có quan thừa tuyên sứ họ Lê tuổi ngoại tứ tuần, thê thiếp hàng đàn mà tuyệt không người nào chịu sinh cho ngài một mụn con nối dõi. Một hôm buồn tình, ngài bèn tổ chức một cuộc đi săn trong núi, dắt theo đàn thê thiếp có đến mấy chục cô son phấn má đào.
Đoàn người ngựa tiền hô hậu ủng, cung tên, dáo mác bời bời vừa đi vừa ngoạn cảnh, mấy ngày mới lên tới một vùng núi cao, những ngọn núi chập trùng, cây cối rậm rạp phủ một màu xanh biếc. Một hôm, đoàn người ngựa đang đi bỗng nhiên dừng lại, lúc bấy giờ ngài còn đang mải hoan lạc với mấy người thiếp trong kiệu loan, chợt thấy cái nhịp nhịp dập dình đang cộng hưởng với lạc thú bỗng dừng tắp lại bèn vạch màn ra hỏi vì sao. Chúng bẩm trước mặt có một cái hồ lớn như thể vừa thình lình hiện ra chắn mất lối đi. Thấy lạ, ngài bèn chỉnh lại y phục rồi thong thả bước xuống. Quả nhiên là một hồ nước lớn trải rộng vào tít phía những ngọn núi xa xa. Mặt hồ xanh ngắt in rõ bóng mây, những làn hơi nước bảng lảng vật vờ làm cho phong cảnh như đượm màu bồng lai, tiên cảnh. Cao hứng quá, ngài bèn ra lệnh cho quan quân tản vào rừng tha hồ săn bắn, còn ngài lập trại ngay tại đó để cùng các thê thiếp thù tạc vui vầy và thưởng ngoạn cảnh hồ…
Sau chuyến đi ấy, một người thiếp của ngài bỗng nhiên thụ thai. Ngài mừng lắm, cho là vì gặp được cảnh lạ thần tiên nên mới có sự kì diệu tình cờ này. Tai sao ngài lại quả quyết rằng mình đã gặp cảnh lạ thần tiên? Bởi vì sau mấy ngày lập trại bên hồ, trên đường trở về, ngài có sai gọi người địa phương tới hỏi thì tuyệt không ai biết trong vùng lại có cái hồ ấy. Vậy là thần tiên đã có ý giúp cho mình có con nối dõi, ngài bèn quyết định xa lánh hết thảy mọi cô khác, suốt ngày chỉ quấn quýt người thiếp ấy mà thôi. Đủ chín tháng mười ngày, người thiếp quả nhiên sinh hạ một đứa bé trai kháu khỉnh. Ngài mừng lắm, đặt ngay tên con là Lê Cực Kì, có ý muốn nói đến chuyến đi săn cực kì quái lạ và thú vị của mình.
Lê Cực Kì lớn lên trong nhung lụa và sự quan tâm đặc biệt của cha. Đúng ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi, bấy giờ mới xuất hiện một điều… cực kì nữa. Số là vào một đêm nọ, đang ngủ say, ngài bỗng giật mình thức giấc, cảm thấy có một luồng ánh sáng xanh lè không biết từ đâu phát ra loang loáng ngoài khe cửa. Nhẹ bước ra khỏi phòng, ngài phát hiện luồng ánh sáng đó xuất phát từ bên trong phòng ngủ của cậu quý tử. Thận trọng mở cửa bước vào, đứa trẻ vẫn ngủ ngon lành trong lòng người vú già. Và thứ ánh sáng đó đúng là từ chỗ nó phát ra. Vừa ngạc nhiên vừa hồi hộp, ngài bước tới bên cạnh, lấy tay lật tấm lụa đắp trên mình thằng bé. Ngài phát hiện thấy phía dưới bụng nó, hình như có dấu một viên ngọc đang phát ra ánh sáng. Tiếp tục vạch bụng thằng bé để xem cho kĩ, bấy giờ ngài mới kinh ngạc thật sự. Cái bìu dái xinh xắn nhỏ xíu của nó, bình thường nhăn nhăn và đỏ hỏn là thế, mà bây giờ bỗng trong veo, nhìn rõ hai hòn dái cũng trong biếc, nom hệt như hai viên ngọc đang chiếu ra những tia sáng lấp lánh, xanh lè…
Quá đỗi ngạc nhiên không thể lý giải, ngài cứ đứng trân trân ngắm mãi cảnh tượng đó. Một, rồi hai canh giờ trôi qua. Tới gần sáng thì ánh sáng xanh đó từ từ yếu dần rồi tắt hẳn. Tới sáng ra thì trở lại bình thường, vẫn là cái bộ phận nhỏ nhắn xinh xinh và đỏ hỏn mọi khi. Ngài bắt đầu theo dõi, những đêm sau cũng có ánh sáng nhưng độ dài cứ giảm dần, vài hôm sau thì hết hẳn. Sau đó khoảng một tháng, hiện tượng đó lại lặp lại y như tháng trước. Không còn nghi ngờ gì nữa, cái chỗ ấy của công tử rõ ràng có tướng lạ kì, nó theo tuần trăng mà biến đổi, nhưng đó là quý tướng hay tiện tướng thì ngài không biết, xưa nay ngài chưa hề nghe các sách tướng nói đến bao giờ. Ngài linh cảm đây là việc hệ trọng, liên quan đến dòng giống sau này nên ngài hết sức giữ kín, chỉ vài người tâm phúc biết đến mà thôi.
Trong đám sư gia thân tín của quan thừa tuyên có gã họ Du, vốn xuất thân áo vải lưu manh, nhưng được cái tài cao học rộng vẫn được ngài tin dùng. Biết tâm tư của ngài về chuyện cái tướng lạ ấy của công tử, bèn dốc chí đọc sách, tìm tòi tra cứu, song mãi vẫn không tìm ra điều gì. Một hôm thong thả cưỡi ngựa ra ngoài thành, ghé vào một quán nước chè gọi một bát, vừa uống vừa ngẫm nghĩ. Chợt có một vị sư nón tơi áo lá cũng ghé vào quán. Chủ quán rót ngay một bát nước đưa cho vị sư, tựa như hai người đã quen biết từ trước. Cầm bát nước trong tay song chưa vội uống, vị sư bỗng buột mồm ngâm mấy câu thơ:
“Nhân duyên dựng một góc trời
Non cao, nước biếc là nơi hữu tình
Rõ ràng long mạch rành rành
Đế vương từ chỗ ngọc hành mà ra”
Non cao, nước biếc là nơi hữu tình
Rõ ràng long mạch rành rành
Đế vương từ chỗ ngọc hành mà ra”
Đọc xong, vị sư đưa bát nước lên miệng uống một hơi cạn sạch rồi đặt bát xuống, khẽ chào ông chủ quán một tiếng rồi đứng dậy đi thẳng. Sư gia họ Du nghe mấy câu ấy bỗng cảm thấy ngay có gì quái lạ, chưa kịp hỏi thì vị sư đã đi mất rồi, bèn hỏi ông chủ quán:
“Chẳng hay ông có biết vị sư này là ai, ở đâu không?”
Ông chủ quán nước trả lời:
“Dạ bẩm, tôi chỉ biết ông ta tục danh họ Phạm, còn pháp danh là gì thì chẳng ai biết. Ông ta vốn người vùng ngoài, nghe nói gần sáu mươi tuổi mới xuất gia, tình cờ xuất hiện ở vùng này cách đây chưa lâu, hiện tu ở một cái am nhỏ trong núi, thỉnh thoảng có ghé qua đây uống nước, nói đôi ba câu chuyện, vì thế mà tôi biết.”
Sư gia họ Du nghe nói thế thì càng lấy làm lạ, bụng cứ ngẫm nghĩ mãi về mấy câu thơ kia. Bỗng như chợt ngộ ra điều gì, bèn đứng phắt dậy, chào ông chủ quán rồi lên ngựa trở vào trong thành. Về đến nơi, ông ta lập tức vào ra mắt quan thừa tuyên ghé tai nói nhỏ:
“Bẩm quan lớn, nô tài đã tìm đọc đủ các loại sách tướng cổ kim, song tuyệt không sách nào nói đến cái tướng lạ ấy. Hôm nay tình cờ gặp một người tu hành, hành tung có vẻ bí ẩn, ông ta tự dưng vô cớ đọc mấy câu như có ý ám chỉ… Biết đâu đây là người ta cần tìm để hỏi cho ra về chuyện cái tướng lạ của công tử…”
Quan thừa tuyên nghe người sư gia của mình đọc lại mấy câu đó cũng cảm thấy nghi ngờ. Thế là chủ tớ bàn nhau sắm sửa lễ vật, bí mật cải trang, lên ngựa ra ngoài thành hướng vào trong núi, tìm đến chỗ vị sư nọ. Rẽ cây vạch cỏ, khúc khuỷu gần nửa ngày trời, hai người mới thấy một am cỏ hiện ra dưới chân một ngọn núi, bên cạnh có một dòng suối nhỏ. Không có tiếng gõ mõ tụng kinh, cũng chẳng có tượng Phật. Trong am cỏ, vị sư già đang ngồi tĩnh tọa, mặt quay vào vách dường như không biết có khách đến sau lưng… Cuối cùng, bằng sự kiên trì của 2 con người trần tục kia, cuộc nói chuyện rốt cuộc cũng diễn ra. Quan thừa tuyên kể lại câu chuyện của mình từ lúc đi săn gặp hồ nước, sinh con trai, đến lúc phát hiện tướng lạ của công tử… Nhà tu hành nghe xong nói:
“Vậy thì có lẽ đúng là cái hồ ấy. Vào thời lâu lắm rồi, nó vốn ở tít trong núi sâu, cách biệt hẳn với những bản làng cao nhất nên người thường không ai có thể tới được. Đó là nơi các thiên nữ ở cung trời Dạ Ma thường hay xuống tắm. Các thiên nữ cách ngày tắm một lần, nhưng một ngày đêm trên cung trời Dạ Ma bằng hơn hai trăm năm hạ giới, nên ở hạ giới thì phải hơn bốn trăm năm mới thấy một lần. Cách đây vào khoảng sáu trăm năm, có người họ Cao là thuật sĩ phương Bắc, thấy vùng này núi non hùng vĩ, cho rằng tất sẽ có nhiều long mạch quý bèn tìm đến. Lặn lội khắp vùng hàng năm trời, họ Cao không thấy có long mạch nào đáng kể thì lấy làm lạ. Cuối cùng bắt gặp cái hồ ấy, nom thấy có tiên khí bốc lên rất mạnh thì nghĩ rằng, nếu tạo được nhân duyên, để tục dương kết hợp được với tiên khí ắt sẽ xảy ra nhiều chuyện lạ. Phải cái là hồ nằm giữa một vùng núi non hiểm trở, người thường còn không ai biết đến sự có mặt của nó, nói chi đến chuyện bén mảng đến đó để mà gặp gỡ với tiên khí…
Họ Cao vốn là người rất giỏi thuật phong thủy, có phép hô sấm gọi sét, lại có thuật dời cơ rút đất. Nghĩ tới cả một vùng núi non hùng vĩ hiếm có dưới trời Nam này, mà không có lấy một long mạch đế vương thì cũng uổng phí, nay thử dùng kiến thức phong thủy mà tạo lập cơ trời một phen, biết đâu những đời sau, có kẻ sẽ nhân đó mà chuyển được mạng giời… Bèn làm thuật rút đất, dời cả một vùng dân cư tới gần bên chiếc hồ đó mà không một ai cảm thấy có điều gì khác lạ. Cứ thế đến mấy trăm năm, khi ấy họ Cao từ lâu đã trở thành người thiên cổ, các thiên nữ cung trời Dạ Ma không hề biết hiện đã có nhiều bản làng người phàm trần sống xung quanh hồ nên cứ tự nhiên xuống tắm. Và điều tiên liệu của thuật sĩ họ Cao ngày trước đã xảy ra. Có rất nhiều trai làng vùng ấy đã tình cờ được hưởng những cuộc hoan lạc ái ân tuyệt đỉnh với các nàng thiên nữ.
Sự cố ấy làm kinh động các tầng trời, suốt từ trời Dạ Ma xuống đến trời Tứ thiên vương gồm 3 tầng trời. Và đã kinh thiên thì tất nhiên động địa. Các thiên vương tức giận đã gây ra một cuộc động đất, phế bỏ tuyệt tích cái hồ đó. Việc xảy ra đã hơn hai trăm năm nay, vì thế dân ở đó không còn ai biết đến cái hồ ấy nữa. Không hiểu vì nhân duyên gì, mà cho tới tận ngày nay, khi quan thừa tuyên đến, cái hồ ngày trước lại hiện ra?
“Nhưng ngay sau đó, tôi có sai người đến đúng chỗ ấy tìm thì tuyệt không thấy một cái hồ nào cả. – quan thừa tuyên vội nói với vị sư – Đúng là một cái hồ tiên. Chẳng hay câu chuyện tiếp theo thế nào, xin sư phụ kể tiếp cho biết?”
Vị sư ngừng lại một lát rồi thong thả kể:
“Các thiên vương chỉ xóa bỏ cái hồ, chứ không trừng phạt những trai tráng kia. Về phần những anh chàng may mắn gặp được cái duyên kì ngộ ấy, kể từ đó, trên người anh nào cũng xuất hiện tướng lạ, đúng hệt như của công tử nhà ta, nghĩa là cứ mỗi tháng một lần, hai quả cà nằm trong cái túi da ấy lại biến thành ngọc, phát ra ánh sáng màu xanh, vài ngày thì hết… Chuyện đồn ra đến tận kinh thành. Bấy giờ nước ta vẫn còn nằm dưới quyền cai trị của người phương bắc, quan thái thú lúc ấy là Sĩ Vương thấy việc lạ kì thì tỏ ra thích thú lắm, bèn đặt tên vùng đất ấy là Ngọc Cặc.
Tại sao lại có cái tên nửa chữ nửa nôm, lại nửa thanh nửa tục như vậy? Nguyên lúc ấy, quan thái thú ngài mới bắt đầu đem chữ của người Hán sang giáo hóa người phương Nam ta, công cuộc truyền bá mới được non nửa, vậy nên vẫn phải dùng một nửa là tiếng tục của dân bản địa thì mọi người mới hiểu. Quan thái thú ngài còn bảo trước: “Đợi khi nào giáo hóa xong, đời sau tất có kẻ sẽ tìm chữ khác để thay thế cho cái chữ đứng sau kia. Nhưng việc này mà không đặt tên ngay, sợ không ghi nhớ được cái sự kiện không tiền khoáng hậu ấy…”
Câu chuyện của vị sư đến đây làm hai người khách đã sáng tỏ phần nào. Song việc quan trọng nhất là cái tướng lạ ấy, rốt cuộc là quý tướng hay tiện tướng? rằng nó có liên quan gì đến hậu vận sau này? Chừng như biết được những lo lắng sốt ruột ấy trong đầu khách, vị sư thong thả nói tiếp:
“Đó là chỗ sinh ra tinh khí của đàn ông, gọi là huyệt “dương lai âm thụ”, do hình dáng đặc biệt của nó mà mọi khí dương của trời đất được hấp thụ vào đó, tụ lại ở đó để chờ dịp sản sinh ra tinh khí. Hình dạng của mặt đất gọi là “Địa cơ”, thì huyệt “dương lai âm thụ” chỉ “kết” trên những long mạch quý, đó là long mạch đế vương. Hình dạng con người gọi là “Nhân cơ”, tuy cũng chẳng khác gì Địa cơ, song huyệt dương lai âm thụ trên con người chỉ dùng trong việc nam nữ giao hợp, làm cái duyên cho nghiệp dẫn để sinh con đẻ cái thông thường mà khó tác động đến việc chuyển nghiệp đột biến…”
Nói đến đây, vị sư dừng lại một lát như thể cân nhắc điều gì rồi tiếp tục:
“Trường hợp của công tử nhà ta có cái tướng ấy thì cũng giống những trai tráng vùng ấy hơn hai trăm năm về trước. Điều này cực hiếm, sách cổ gọi là “nhân cơ sinh đế huyệt”. Đó là một quý tướng, một “huyệt đạo” đế vương nằm trên cơ thể con người. Tướng ấy không những sinh quý tử, mà còn có thể từ đó sinh ra bậc đế vương…”
Quan thừa tuyên nghe đến đây thì trong lòng bừng bừng cảm động, sung sướng quá không kìm được, buột mồm hỏi ngay:
“Thưa sư phụ, vậy chẳng lẽ… bao nhiêu trai tráng hai trăm năm về trước kia sinh ra… đế vương cả hay sao?”
“Họ tuy tự dưng vớ được tướng quý – vị sư bình tĩnh giải thích – song không phải là tướng bẩm sinh cho nên chỉ sinh ra những hạng trưởng giả mà thôi. Duy trong số đó, nếu có chàng trai nào ngẫu nhiên có sự trùng hợp với tử vi thì cái ngọc hoàn ấy mới đích thị là một huyệt đạo đế vương…”
Quan thừa tuyên và người sư gia của mình hết sức hài lòng về chuyến đi. Sau khi tặng lễ vật, hai người chào nhà sư để quay về. Trước khi đi, nhà sư còn căn dặn một điều cuối cùng, rằng cái tướng ấy tuy là đại quý, song vẫn có chỗ độc. Đó là người mang cái tướng ấy và cả những con cháu sau này thường rất ham dâm loạn, nên phải hết sức giữ mình thì “lộc” mới kéo dài được…
Trên đường trở về thành, chủ tớ bàn nhau dấu kín việc này, bởi nếu triều đình biết việc con cháu nhà mình sau này sẽ thành đế vương thì họa ắt tới nơi. Gã sư gia họ Du còn cẩn thận hơn, ấy là không để câu chuyện này qua vị sư kia mà bị lọt ra ngoài. Thế là về đến dinh, quan thừa tuyên lập tức sai dựng một ngôi chùa khang trang ngay trong phủ đệ của mình, đặt tên là chùa Thiên Ứng, mời nhà sư họ Phạm kia về làm trụ trì, vừa lấy tiếng công đức xây chùa độ sư, vừa như giam lỏng nhà sư, không để câu chuyện lọt ra ngoài.
Nói về công tử Lê Cực Kì, càng lớn càng tỏ ra là con nhà thế phiệt học hành sáng dạ, đọc đâu thông đấy. Năm hai mươi tuổi lên kinh đô thi. Quan thừa tuyên lúc này tuy đã già, song vẫn định bụng cho chàng kiếm chút khoa cử rồi lấy vợ sinh con quý tử hoặc đế vương cũng chưa lấy gì làm vội. Trên đường trẩy kinh, công tử cùng mấy người theo hầu vào nghỉ đêm ở một ngôi đình của làng nọ. Hôm đó lại đúng vào thời kì mà cái ngọc hoàn của chàng nó phát quang. Vào lúc mọi người, kể cả chàng đã ngủ say, thứ ánh sáng xanh kia bỗng phát ra le lói. Thành hoàng làng ấy nom thấy thế thì giật nảy mình, song vốn là một bậc có tâm cơ, ngài nghĩ ngay rằng đất nước hiện đang thái bình, may có được một vị minh quân trị vì. Nay nếu người này sinh con đế vương thì chẳng bao lâu, trăm họ sẽ lại lâm vào cảnh tranh ngôi đoạt vị, loạn lạc dấy lên thì không phải phúc cho dân lành. Âu là ta phế béng cái tướng quý này đi là xong.
Nghĩ thế rồi vị Thành hoàng bèn thò tay vào móc hai hòn dái ngọc đang rực sáng của chàng ra mà bỏ vào… nồi đun chừng nửa canh giờ. Khi lấy ra khỏi nồi thì cái ánh sáng xanh kia giờ đã tắt lịm. Ngài lại bỏ hai hòn dái vào vị trí cũ rồi dùng tay thoa thoa, miệng hà thần khí, giây lát cái chỗ đó trở lại đen ngòm như bình thường mà chàng cũng không hề cảm thấy gì.
Khoa thi ấy chàng trượt ngay từ vòng sơ khảo. Chẳng hiểu sao kinh sử rơi đâu mất sạch. Quan thừa tuyên chưa kịp buồn vì chuyện đó thì bỗng phát hiện cái tướng đại quý kia của chàng cũng tự dưng biến mất, chờ mấy tháng tuyệt chẳng thấy tăm hơi gì, công tử hiện nguyên hình là một chàng trai ngốc nghếch, tầm thường như bao chàng trai cùng lứa tuổi. Chẳng lẽ nhà sư kia nói sai? Quan thừa tuyên bèn tức tốc sang chùa gặp nhà sư kể lại chuyện ấy. Nhà sư nghe thấy cũng hơi ngẩn ra một lát rồi bảo:
“Chẳng lẽ lại có chuyện đó… Quan lớn có thể gọi công tử sang đây cho tôi hỏi kĩ lại có được không?”
Lê Cực Kì lập tức được gọi tới trước mặt nhà sư và quan thừa tuyên. Nhà sư hỏi:
“Chẳng hay trên đường đi, công tử ngủ qua đêm ở những đâu?”
Lê Cực Kì cứ theo hành trình mà kể lại cho nhà sư nghe. Đến chỗ ngủ qua đêm ở một ngôi đình làng nọ, nhà sư bỗng ngắt lời:
“Công tử có nhớ tên cái làng có ngôi đình ấy không?”
“Bạch sư phụ, làng ấy có tên là Cung Hỉ…”
“Thôi phải rồi – vị sư ngắt lời chàng rồi quay sang phía quan thừa tuyên – Bẩm quan lớn, làng ấy bần tăng cũng đã từng qua. Nó vốn có tên là Cung Thỉ, chỉ vì ngày trước, trong làng có người đỗ đạt, thấy chữ “Thỉ” xấu, mới thay bằng chữ “Hỉ”. Thành hoàng làng ấy vốn xuất thân làm nghề hoạn lợn. Đó là một làng chuyên nghề thiến hoạn súc vật. Ngày trước, bần tăng đã dặn quan lớn về chuyện dâm loạn, song quên dặn rằng cái tướng ngọc hoàn này rất kị gần những người làm nghề thiến hoạn. Nếu không bị nó triệt mất tướng quý thì cũng dễ gặp tai họa, nửa chừng đứt gánh… Âu cũng là mệnh trời…”
Thế là tan giấc mộng đế vương. Quan thừa tuyên buồn bã, thở dài ngao ngán. Song ngài bỗng dừng phắt lại chú ý vì nhà sư đã tiếp tục cất tiếng:
“Nhưng quan lớn cũng chớ có buồn vội. Kẻ chuyên nghề thiến hoạn kia tuy triệt được cái tướng hiển lộ ra trong một đời, song không thể triệt được gốc “căn” của nó. Đời này, công tử tuy không sinh được quý tử nữa, song trải những đời sau, khi nào hội đủ duyên, cái tướng quý ấy sẽ lại hiển lộ. Dòng dõi quan lớn sau này tất có đời sẽ làm đến đế vương. Chỉ cần quan lớn ghi rõ trong gia phả, dặn con cháu đời sau rằng bất luận thế nào, thì cũng phải tránh xa những người từng làm nghề thiến hoạn, tuyệt đối không kết bạn, giao du hay cùng cộng tác…”
Câu chuyện về cái tướng đại quý của Lê Cực Kì xin kết thúc tại đây. Quả có một lời chúc lụy rằng con cháu sau này phải tránh xa những người từng làm nghề thiến hoạn trong gia phả nhà họ Lê. Đó là một lời chúc lụy kì lạ và bí ẩn nhất trong những bản gia phả mà người viết đã từng xem qua. Chừng sáu mươi năm sau, khi tất cả những nhân vật trên đây đều đã trở thành người thiên cổ, bấy giờ vào đời Uy Mục Đế thì phải. Một hôm có viên quan thái bốc dâng sớ bạch rằng:
“Thần trộm nghĩ bảo vệ cái uy của mình thì không tiếc hình phạt, tiêu diệt kẻ khinh lờn. Lo cho cái ngôi của mình thì phải đề phòng có kẻ tranh cạnh… Nay xứ Thanh Hoa vượng khí chói lọi, tất có long mạch đế vương ở đó. Xưa vua Trần đã từng nghe lời thày địa lý bên Tàu mà đào sông nhằm phế bỏ long mạch của tiên Tổ ta (trỏ Lê Lợi), việc không thành là do mắc mưu gian của bọn người phương bắc. Tiên tổ ta mới nhân đó mà nổi lên. Việc trước tuy như thế, song ngẫm lại, vẫn có chỗ phải theo, huống chi nay ta có Tả Ao là một người tài giỏi việc phong thủy, lại là một bậc trung thần. Dám xin bệ hạ xuống chiếu sai Tả Ao đi phá long mạch xứ ấy, để phòng có kẻ tiếm vị sau này thì cơ nghiệp của tiên đế để lại sẽ mãi mãi vững bền. Thần tin rằng với kiến thức và lòng trung của mình, Tả Ao tất sẽ vì bệ hạ mà không lặp lại cái sai lầm của vua Trần ngày trước…”
Uy Mục Đế xem sớ bỗng rùng mình rợn gáy, lập tức xuống chiếu, cấp cho Tả Ao mười vạn quan tiền, phong làm Khâm sai trạch địa, sai ngày đêm đi gấp vào xứ Thanh, tìm bằng được long mạch để phá cho tiệt những mầm mống đế vương nếu có.
Tả Ao tiên sinh là một bậc thần cơ diệu toán. Kiến thức phong thủy của ngài ở nước Nam thì cổ kim chưa ai có thể so sánh. Có lẽ cũng chẳng kém thuật sĩ họ Cao người phương bắc ngày trước. Nhận chiếu chỉ, ngài chỉ mang theo một chú tiểu đồng cắp tráp theo hầu rồi theo đường trạm đi gấp vào Thanh Hoa.
Lại suốt nửa năm trời trèo đèo, lội suối khắp các vùng núi non Thanh Hoa, cũng giống như thuật sĩ họ Cao ngày trước, thầy trò Tả Ao cũng không phát hiện được một long mạch nào đáng kể. Trong khi cái vượng khí đế vương kia thì cứ xông lên bời bời như trêu ngươi. Chẳng lẽ kiến thức phong thủy của mình còn có chỗ khiếm khuyết? Tả Ao tiên sinh băn khoăn trăn trở. Không có lẽ như thế. Bởi phong thủy dẫu có trầm (lặn), có phù (nổi), song nó là “ngôn ngữ” của cái khí ngũ hành vốn là nguồn năng lượng bất tận tạo nên mọi sự sinh, diệt trên thế gian này. Tuy không thể “bắt” được nó, song nó luôn thể hiện thông qua sự uốn lượn của địa hình, có khi nổi lên thành gò đống, có khi thụt xuống thành vực sâu… Người biết thuật phong thủy thì chỉ cần nhìn cây cỏ cũng biết bên dưới đang ẩn chứa điều gì… Một hôm đang trên đường tìm kiếm, thầy trò bắt gặp một ngôi chùa, ngẩng nhìn thấy ba chữ: “Thiên Ứng Tự”. Bỗng nghe bên trong có tiếng người ngâm nga mấy câu sau:
“Chặn dòng đóng cọc yểm bùa
Đem ba việc ấy ra đùa thế gian
Cơ trời khi hợp khi tan
Biết đâu ẩn dưới một màn nhung y”
Đem ba việc ấy ra đùa thế gian
Cơ trời khi hợp khi tan
Biết đâu ẩn dưới một màn nhung y”
Tảo Ao tiên sinh nghe lấy làm quái lạ, mấy câu đó nghe như muốn ám chỉ đến việc trấn yểm long mạch mà mình đang theo đuổi. Nếu vậy thì trong chùa ắt có kì nhân. Lúc ấy trời cũng gần tối, bèn gõ cửa chùa xin vào ngủ qua đêm.
Vị sư trụ trì ngôi chùa ấy là người cũng đã có tuổi, chính là người vừa ngâm mấy câu đó. Nom tướng mạo Tả Ao tiên sinh thì biết ngay không phải người tầm thường, bèn mời vào phương trượng pha trà tiếp đãi, hầu chuyện rất mực cung kính. Tả Ao tiên sinh lòng đang nóng như lửa đốt, bèn hỏi ngay:
“Chẳng hay mấy câu mà hòa thượng vừa ngâm là có ý gì chăng?”
Vị sư dường như cũng biết tâm trạng của khách nên trả lời ngay:
“Đó là mấy câu kệ của sư phụ tôi truyền lại ngày trước. Trước khi viên tịch, sư phụ tôi có dặn rằng có khi nào thấy ngài dừng chân trước cổng chùa thì đọc cho ngài nghe…”
Tả Ao tiên sinh nghe thấy thế thì càng giật nảy mình. Không ngờ nơi đây có bậc chân tu đắc đạo, đã biết trước cả việc mình sẽ dừng chân trước cổng chùa này. Bèn hấp tấp hỏi dồn:
“Sư phụ của ngài là ai, tại sao Ngài biết tôi sẽ tới đây? Ngài có dặn gì nữa không…”
Vị hòa thượng trụ trì – chính là đệ tử truyền thừa của nhà sư họ Phạm ngày trước thong thả kể lại toàn bộ câu chuyện của quan thừa tuyên sứ và công tử Lê Cực Kì ngày trước cho Tả Ao tiên sinh nghe rồi nói:
“Sự phụ tôi, Ngài có bảo rằng trong tam tài, Thiên cơ, Địa cơ và Nhân cơ, thì phong thủy xứ này thịnh về Nhân cơ. Luận về Thiên, Địa, thì sở học của quan Khâm sai có thể nói đã đạt tới bậc tuyệt kĩ rồi. Song về Nhân cơ thì ngài còn có chỗ chưa chú ý lắm.”
“Hèn nào mà tôi lặn lội suốt từ đó đến nay, không tìm ra một long mạch nào đáng kể, trong khi đó cái vượng khí thỉnh thoảng cứ xông lên ngùn ngụt. Té ra đế huyệt nó “kết” trên thân người. Vậy chẳng hay Ngài có truyền bảo cách để trấn yểm cái Nhân cơ ấy hay không?” – Tả Ao tiên sinh hỏi.
Vị hòa thượng lắc đầu:
“Thiên cơ và Địa cơ là do nghiệp chung của cả một cộng đồng kết lại nên có thể dùng lòng người mà cảm hóa, hoặc dùng bùa ngải, dùng sức người lấp dòng, đóng cọc… để trấn. Song Nhân cơ vì nó kết theo nghiệp riêng của từng người nên không có cách gì trừ cho tiệt nọc, chẳng qua chỉ làm cho nó lặn đi vài ba đời, rồi nó sẽ lại hiển lộ ở một đời nào đó…”
“Một vài đời cũng được – Tả Ao tiên sinh mừng rỡ ngắt lời – chẳng dấu gì hòa thượng, tôi nhận chiếu chỉ của đương kim hoàng thượng, nếu không nhất thời trừ được cái vượng khí này thì có lẽ mất đầu… Vậy phải làm thế nào xin hòa thượng ra ân chỉ bảo cho biết.”
Vị hòa thượng tủm tỉm nói:
“Thì… cứ theo cách của thành hoàng làng Cung Hỉ ngày trước ấy mà làm. Nhưng tôi chắc rằng ngài cũng không phải lo đến điều đó đâu.”
Câu nói của vị hòa thượng hình như còn ẩn giấu một điều gì. Song Tả Ao tiên sinh lúc ấy thì như người đã vén được đám mây mờ. Bụng nghĩ dẫu có phải hoạn hết dái của trai tráng xứ này, để trừ cho được cái mầm mống đế vương, thì một ông vua như Uy Mục Đế cũng sẵn sàng dám làm. Âu là ta cứ về tâu lại rồi tùy ý nhà vua định đoạt.
Quả nhiên Tả Ao tiên sinh cũng chẳng phải lo đến điều đó nữa. Bởi khi ngài vừa về tới kinh thành, chưa kịp viết xong bản tấu phúc trình về chuyến đi thì Uy Mục Đế Lê Tuấn đã bị Giản Tu Công Danh (Lê Tương Dực sau này) nổi lên lật đổ và ép phải tự sát. Việc trấn áp vượng khí xứ Thanh Hoa thế là được xếp lại.
Xứ Thanh Hoa không bị trấn áp vượng khí nữa. Và nơi đó tuy không có long mạch, song do cái sự kì duyên tục dương tiên khí từ thuở xa xưa ấy mà đã tạo ra cả một vùng Nhân cơ kì bí. Đó vẫn là nơi đã từng sinh ra nhiều bậc đế vương, trưởng giả… Truyền mãi cho đến tận ngày nay, vẫn nổi tiếng là nơi phát tích của nhiều hạng đế vương. Và đặc biệt, các loại trưởng giả thì đời nào cũng nhiều không kể xiết.
Về phần Tả Ao tiên sinh, ông buồn vì tưởng mình đã học hết cái chỗ tinh diệu của thuật phong thủy, vậy mà té ra chỉ biết có Thiên cơ, Địa cơ, còn cái Nhân cơ kia thì không hề biết đến. Sau chuyện đó, ông hầu như không màng gì đến phong thủy nữa. Và đó hình như cũng là nguyên do, khiến ông không truyền lại sở học của mình cho bất kì ai, khiến cho thiên hạ từ đó đến nay vẫn không hết ngạc nhiên, cứ đoán già đoán non, lại còn đưa ra hết giả thuyết này đến giả thuyết nọ…
2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét