"Ai cũng có thể cố học để trở thành bác sỹ, kỹ sư. Nhưng không phải ai cũng có thể học để trở thành một triết nhân. Đạt đỉnh cao trong triết học đòi hỏi phải có bộ óc minh triết, mẫn tuệ hơn người. Trong nhân loại, suốt trong chiều dài lịch sử, triết nhân chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ở Pháp kẻ theo học ban triết ở Đại học đều được nể trọng vì có bộ óc minh triết hơn người. Thảo nghe vậy, khoái lắm, nhớ mãi".
Nhớ lại lúc thi môn viết của tam cá
nguyệt cuối niên học, giáo sư Ner, trả lại bài luận triết vừa chấm. Bài của
Thảo (Trần Đức Thảo) đứng đầu như thường lệ, nhưng với điểm cao không ngờ: 16 trên 20! Thông
thường Thảo chỉ đứng đầu với điểm 13 hay 14 điểm là cùng. Lần ấy, Thảo còn nhớ
rõ, đề thi là bình giải một câu của Léon Bourgeois: “Danh dự cũng có thể là một
nền tảng của đạo đức”.
Cả lớp, trừ Thảo, đều dài dòng tìm cách
minh chứng câu đó với những bằng chứng, điển tích, nêu ra các hành động mưu tìm
danh vọng qua các công trình vĩ đại, các chiến thắng vinh quang của những vĩ
nhân thường thấy trong lịch sử thế giới. Tất cả như đã hành động vì danh dự để
mang lại vinh quang cho xứ sở. Riêng chỉ có Thảo là đã bình bàn theo hướng khác
hẳn.
Thảo chuẩn bị vào đề bằng cách định
nghĩa, phân tích kỹ khái niệm danh dự về mặt tâm lý và xã hội để chỉ ra rằng danh
dự là một thuộc tính được ban tặng cho con người, từ bên ngoài. Nghĩa là một
giá trị do người đời khen tặng, chứ bản thân không thể trực tiếp đi tìm… mà lấy
được. Danh dự chỉ đến với những con người sống đức hạnh, có lương tri, biết
hoàn thành trọn vẹn công việc của mình, dù đấy là một công việc khiêm tốn. Như
thế thì mọi người đều có thể có danh dự, chứ danh dự không phải là riêng của
những kẻ có chức, có quyền trong xã hội. Nhưng do ngộ nhận mà danh dự đã bị coi
là một khả năng kích thích con người có hành động đẹp đẽ, vĩ đại, theo xu hướng
khoa trương, phù phiếm bề ngoài, để tạo ra “danh dự”, hay vinh dự cho chính
mình. Bởi khi đó danh dự đã bị đồng hoá với danh vọng, vinh dự mà người Pháp
gọi là "les honneurs”. Thông thường, danh vọng có khả năng kích thích tâm lý,
có thể làm cho con người u mê đến mức sa đoạ, y như là một thứ thuốc phiện!
Người ta đam mê chạy theo danh vọng, tìm vinh dự, rồi tự biến mình thành kẻ
khoe khoang, kiêu ngạo, hoang tưởng chạy theo những trò trang trí phù phiếm,
hào nhoáng bề ngoài. Tranh đua nhau trên con đường danh vọng thường làm cho
mình thành ích kỷ, thấp hèn, muốn dìm mọi người chung quanh xuống, để đề cao
mình lên. Danh vọng đã đẻ ra một cấp trên kiêu ngạo, một cấp dưới nịnh nọt… Tệ
nạn nịnh nọt cấp trên thường là phải bóp méo, xuyên tạc sự thật. Nó có thể cải
trang một người bình thường thành kẻ kiêu căng tự đắc, một nhà chính trị thành
một lãnh tụ độc tài, đam mê quyền lực, điên cuồng khao khát danh vọng, quan
liêu cửa quyền đến mức hành động, nói năng như cha mẹ của dân, rồi muốn được
tôn vinh làm cha dân tộc!
Về mặt tâm lý và xã hội, danh dự phải
được hiểu một cách hét sức sáng suốt, hết sức thận trọng để tránh xa những mục
tiêu của danh vọng. Danh dự cũng như hạnh phúc, không thể tìm kiếm, không thể
mua chuộc nó một cách trực tiếp, bằng quyền lực hay tiền bạc, như người ta vẫn
đi tìm kiếm danh vọng. Danh dự chỉ tới, một cách gián tiếp từ bên ngoài, với
những ai không chủ tâm tìm kiếm nó, nhưng biết sống một cách xứng đáng, có
lương tri, sống tử tế với mọi người, sống ngay thẳng, trong sạch ở mọi hoàn
cảnh, biết làm tròn nhiệm vụ của mình, dù đó là của một công việc khiêm tốn
nhất… sống như thế là sống thật sự có ích cho mọi người, là làm đẹp cho xã hội.
Danh dự do đó quả thật là một nền tảng của đạo đức. Nhưng khốn nỗi, người đời
vẫn thường nhầm lẫn danh dự với danh vọng. Do vậy nên danh dự, khi bị hiểu lầm,
thì nó là cái bã khiến con người chạy theo nó, tìm kiếm nó, mua bán nó… để rồi
nó biến xã hội thành một môi trường giả dối, háo danh, phù du, ưa phô trương
cái mẽ bề ngoài, che giấu cái trống rỗng, kém cỏi, xấu xa bên trong… Không
thiếu gì xã hội, trong đó con người ngông cuồng khao khát danh vọng, một xã hội
chỉ trọng vọng bề ngoài, chỉ trưng khoe thành tích giả tạo một cách bệnh hoạn.
Một thí dụ điển hình về mặt tiêu cực của danh vọng là thói háo danh với bằng
cấp. Bằng cấp chỉ là một hình thức chứng thực khả năng. Nhưng nay bằng cấp đã
bị coi như là thứ áo mão gấm hoa, loè loẹt màu sắc, để phô trương. Nó đã tạo ra
cái thói trưng diện bằng cấp trước cái tên của mình. Tự xưng mình là tiến sĩ
này, thạc sĩ nọ, thủ trưởng cơ quan này, giám đốc công sở kia…! Danh dự của một
người có học, có tri thức là biết sống không ồn ào, không khoa trương, biết
chứng tỏ trình độ bằng kết quả của việc làm, khác hẳn với kẻ đã tự đồng hoá
mình với danh dự bằng những hành động khoa trương chức tước, khoe khoang bằng cấp! Từ sự
hiểu sai ý nghĩa của bằng cấp mà nó đã bêu xấu con người, làm hỏng nền giáo
dục. Tình trạng đó có thể phá hoại xã hội. Khi danh dự bị nhầm lẫn với danh
vọng, thì nó đã đưa tới sự gian lận trong thi cử, mua bán bằng cấp, chạy chọt
chức tước cứ y như mua bán áo mão màu sắc lòe loẹt hào nhoáng để trưng diện.
Bởi khi danh dự bị đồng hoá với danh vọng, thì nó là một cái bã tâm lý, làm
hoen ố nhân phẩm, làm mất tự trọng, mất tỉnh táo nên không phân biệt được đầu
là giá trị nội tại bền vững đích thực của luân thường đạo lý, đâu là hư danh
xấu xa phù phiếm, dối trá khoe khoang bề ngoài…. Danh dự khi bị nhầm lẫn với
danh vọng thì có thể đưa con người và xã hội đi rất xa về phía tiêu cực.
Sau khi nêu nhiều bằng chứng về thành
tích được coi là danh dự của những người có cuộc sống khiêm tốn và đã bị đời
coi thường, bỏ quên… Thảo nhắc lại rằng vì những thành tích vinh quang, đầy
danh vọng của những kẻ có quyền lực, mà có người đã được hậu thế ca ngợi, có
khi còn được tôn thờ như thánh nhân. Rồi Thảo đưa ra phản đề khá mạnh mẽ: những
thành tích mưu cầu vinh quang danh vọng một cách đam mê, cố mưu tìm chiến thắng
kiểu Pyrrhus, cố tạo ra những công trình vĩ dại như Kim Tự Tháp, như Vạn Lý
Trưởng Thành… Và nhầm lẫn đấy là những thành tích của danh dự. Thực ra là những
công trình vĩ đại ấy không thể là biểu tượng cho danh dự với đạo đức, đạo lý! Vì chiến thắng như thế là phung phí xương máu quân lính, vĩ đại như thế phung
phí mồ hôi, nước mắt của dân chúng. Chúng không mang tính đạo đức và nhân bản.
Vì vậy mà nhiều nhà lãnh đạo quyền lực lớn trong lịch sử chẳng thể trở thành
một nhà đạo đức, càng không thể là thánh nhân! Thảo nêu ra những trường hợp đời
thường, trong đó không hiếm những lãnh tụ chỉ vì cao ngạo, khát khao được trọng
vọng như những Tần Thuỷ Hoàng, Napoléon… là những kẻ đã sẵn sàng phung phí máu
xương quân lính, coi rẻ tính mạng, công sức lao động của nhân dân. Những nhà
lãnh đạo ấy đã kích thích, thúc ép dân phải trở thành anh hùng, phải trở thành
vĩ đại để tạo ra những thành tích vẻ vang, phi thường… cho họ. Vì thế mà hành
động mưu tìm danh vọng thường là phản công lý, phản đạo lý. Rồi Thảo kết luận:
người ta ưa ca ngợi, một cách nhầm lẫn, những thành tích vinh quang, vĩ đại… mà
bỏ qua, hoặc bỏ quên khía cạnh vô nhân đạo, bất công của những hành động đã ép
buộc nhân dân thấp cổ bé miệng phải gánh chịu biết bao hi sinh gian khổ để dựng
lên nhũng thành tích ấy. Vì đấy, dù thế nào, thì cũng chỉ là những hành động
tàn bạo, háo danh, thiếu công lý, thiếu đạo lý. Những thành tích vĩ đại ấy,
những kỳ công vinh quang ấy, vì không công lý, không nhân đạo nên nó không thể
là trở thành mẫu mực cho đạo đức!
Một danh nhân, một ông vua, trong lịch sử, do
những thành tích chính trị hay quân sự phi thường, thường được đám nịnh thần
tâng bốc, ca ngợi đến mức sùng bái như một vĩ nhân, một thánh nhân, nhưng thật
sự đấy chỉ là một lãnh chúa đầy tham vọng, đầy mưu trí nham hiểm, tàn nhẫn, độc
ác! Người ta yêu thích danh vọng, tưởng như đó là danh dự. Sự đam mê danh vọng
và quyền lực như thế là thiêu huỷ tính nhân bản trong những con ngườí muốn có
sự nghiệp vĩ đại. Con người bình thường không chỉ sống vì danh vọng! Trong thực
tế, thời có nhiều thành tích, công trình vĩ đại thường là những giai đoạn bi
thảm đen tối, đẫm máu trong lịch sử nhân loại! Vì một lẽ giản dị là nó thiếu
tính nhân bản, thiếu tính đạo lý. Nhân loại bình thường không sống để đì tìm
danh dự trong danh vọng. Nhân loại bình thường không phải toàn là thánh nhân và
anh hùng! Bởi con đường của những thánh nhân, của những anh hùng, với ý nghĩa
cao cả của nó, là con đường tuẫn đạo, là con đường hi sinh có ý thức vì nghĩa
vụ đối với con người. Khác với con đường của những kẻ u mê cuồng tín lao mình
vào những hành động đầy máu và nước mắt, dù cho đấy là con đường tạo ra vinh
quang, vĩ đại, nhưng đấy không phải là con đường của đạo đức! Trong lịch sứ,
cái thời đầy vinh quang, đầy anh hùng của một dân tộc, thường là thời đau đớn
đầy hi sinh, gian khổ, đầy máu và nước mắt, đầy hận thù và tội ác… rất phản đạo
đức, phản con người… vì thời ấy bắt đám cùng dân phải trả giá bằng mồ hôi, nước
mắt, bằng xương máu và tính mạng!
Danh dự và đạo đức thực ra là những giá trị
cộng sinh tự nhiên, chúng không phải là những ỉhuộc tính chỉ dành cho những vĩ
nhân. Trong thực tế, danh dự là một giá trị kín đáo của con người nói chung,
trong những hoàn cảnh sống bình thường, khiêm tốn trong xã hội, nên người ta
không thấy, vì ít được ai để ý tới. Xưa nay, người đời chi nói tới, chỉ đề cao
danh dự của những ông lớn có đầy danh vọng. Do vậy mà chúng ta dễ ngộ nhận, khi
đọc tiểu sử của những vĩ nhân, mà không thấy được những tấm gương sảng về mặt
đạo đức trong đám người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Chính ở nơi những mẫu
người khiêm tốn ấy, ta mới thấy rõ được rằng danh dự quả thật là nền tảng của
đạo đức. Trong giá trị danh dự âm thầm, khiêm tốn đó, mới thấy người đời sống
như thể đích thực là có đạo đức!
Khi chấm bài, bên lề phần kết luận,
giáo sư Ner đã phê: “Có nhiều ý triết lý!” Bài của Thảo được đọc cho cả lớp
nghe. Sự khen ngợi đó đã vĩnh viễn in sâu vào trí óc non nớt của Thảo. Người
thầy dạy triết còn nhấn mạnh thêm: Ai cũng có thể cố học để trở thành bác sỹ,
kỹ sư. Nhưng không phải ai cũng có thể học để trở thành một triết nhân. Đạt
đỉnh cao trong triết học đòi hỏi phải có bộ óc minh triết, mẫn tuệ hơn người.
Trong nhân loại, suốt trong chiều dài lịch sử, triết nhân chỉ đếm được trên đầu
ngón tay. Ở Pháp kẻ theo học ban triết ở Đại học đều được nể trọng vì có bộ óc
minh triết hơn người. Thảo nghe vậy, khoái lắm, nhớ mãi.
Trích "Những lời trăn trối" - Trần Đức Thảo.