Trang

Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

Ai là nhà Khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại?

Truyền Bình


Einstein chỉ hiểu thế giới trên nền tảng vô minh cục bộ, còn Thích Ca ngộ Tâm bất nhị chính là vũ trụ vạn vật. Thích Ca thoát khỏi sinh tử luân hồi, xứng danh Như Lai, vô lượng quang, vô lượng thọ (khắp không gian thời gian) vô thủy vô chung. 


Nhiều người không ngần ngại bầu chọn nhà khoa học Đức gốc Do Thái, Albert Einstein là nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ 20, đồng thời là nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại, vì ông đã nêu ra thuyết tương đối đặc biệt (the special theory of relativity) vào năm 1905 và thuyết tương đối tổng quát (the general theory of relativity) vào năm 1916, làm đảo lộn nhận thức của loài người về khoa học, về những cái tưởng chừng như cố định vĩnh cửu không bao giờ thay đổi như không gian và thời gian, khối lượng vật chất v.v…

Riêng tôi, có thể bầu chọn Einstein là nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ 20, nhưng không vội bầu chọn ông là nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại, vì có một nhân vật lịch sử xứng đáng hơn cho danh hiệu đó, người đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Siddhārtha Gautama) người sáng lập ra Phật giáo, sinh ra tại Ca Tì La Vệ (zh. 迦毘羅衛, sa. Kapilavastu  thuộc nước Nepal ngày nay.
Nhiều người sẽ ngạc nhiên, vì Đức Phật đâu có phải là nhà khoa học, ngoài ra Phật giáo cũng không có kiến lập chân lý, vậy thì lấy gì để so sánh, đối chiếu với các lý thuyết của Einstein?

Thật vậy, trước lúc nhập diệt, Phật đã phủ nhận toàn bộ lời giảng dạy của mình, nói rằng : “Trong suốt 49 năm qua, ta chưa hề nói một chữ nào”.

Như vậy đem đức Phật so sánh với Einstein thì thật là lố bịch. Tuy nhiên trong thế giới vô minh, tương đối, Phật đã giảng rất nhiều bộ kinh, nay tôi lấy những kinh điển có ý nghĩa như chiếc bè tạm bợ đó, để thử đối chiếu một lần cho minh bạch về mặt khoa học của hai nhân vật lịch sử vĩ đại đó của nhân loại, tôi nghĩ rằng bạn đọc có thể rút ra được nhiều điều thú vị, bổ ích cho sự hiểu biết của mình về thế giới.
Hiểu thế nào về thế giới ? 
Với Thuyết tương đối đặc biệt, Einstein nêu ra rằng không gian, thời gian, khối lượng vật chất không bất biến như trong lý thuyết của Newton. Ông khám phá rằng thời gian là chiều kích thứ tư không thể tách rời của không gian, do đó không gian và thời gian nên được gọi chung là thời- không (Space-time) là một thực thể liên tục (continuum) không gián đoạn. Ông còn khám phá rằng ánh sáng là vận tốc cao nhất của vật chất trong chân không và vận dụng nó trong công thức giản dị nhưng nổi tiếng nhất thế giới, nêu ra tính chất tương đương giữa vật chất và năng lượng :
E=MC2  (E là năng lượng, M là khối lượng vật chất, C là vận tốc ánh sáng)
Thuyết tương đối được cho là một lý thuyết cao siêu có rất ít người hiểu được, nhưng với thuyết tương đối Einstein vẫn chưa thực sự hiểu rõ bản chất của thời-không, của khối lượng vật chất. Vì vậy khi gặp phải hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement) ông không hiểu được. Einstein sinh thời đã không hiểu được, không biết tại sao một hạt photon có thể xuất hiện đồng thời ở hai hoặc nhiều vị trí khác nhau, và khi hạt ở vị trí này bị tác động thì lập tức hạt ở các vị trí kia cũng bị tác động tương ứng, tức thời, bất kể khoảng cách là bao xa, ông gọi đó là tác động ma quái từ xa (spooky action at a distance). 

Nếu cho rằng tín hiệu được truyền đi, thì vận tốc phải gấp hàng triệu lần tốc độ ánh sáng, điều đó trái với định đề của chính Einstein nêu ra rằng ánh sáng là tốc độ cao nhất của thế giới vật chất, không có vật gì truyền đi nhanh hơn ánh sáng, ánh sáng truyền trong chân không là một hằng số bằng (qui tròn) 300.000km/giây, không có vận tốc đầu, bởi vì ánh sáng không có khối lượng nên cũng không có quán tính (nói nôm na là nó không có trớn). 

Gần đây, có người khám phá ra rằng hạt neutrino có vận tốc nhanh hơn ánh sáng (306.000 km/giây) Khám phá này nếu được công nhận, thì chỉ ra rằng Einstein có chút sai sót, nhưng cũng chưa đi đủ xa để làm thay đổi nhận thức, chỉ gợi mở ý tưởng rằng con người có thể đi ngược thời gian để thấy lại quá khứ (nếu đi với vận tốc của hạt neutrino 306.000km/giây, trong khi ánh sáng đi với vận tốc 299.792,5 km/giây, như vậy có thể bắt kịp ánh sáng và thấy lại quá khứ)
Vậy Thích Ca có hiểu hiện tượng rối lượng tử không ? Thời Đức Phật chưa ai biết có hiện tượng này, nhưng qua những lời giảng của kinh điển, chúng ta có thể khẳng định Thích Ca biết và có đáp án rõ ràng cho hiện tượng này. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật nhiều lần phóng hào quang hiển thị cho tứ chúng (tăng, ni, nam nữ cư sĩ) tham dự, thấy vô lượng vô biên thế giới (biểu thị không gian) từ quá khứ cho tới vị lai (biểu thị thời gian) và hằng hà sa chúng sinh không thể đếm hết của mười phương thế giới (biểu thị số lượng). 

Phật có đầy đủ thần thông (lục thông). A-tì-đạt-ma-câu-xá luận zh. 阿毗達磨俱舍論, sa. abhidharmakośa-śāstra, thường được gọi tắt là Câu-xá luận) có kể rõ lục thông là:
Lục thông, 六通 , tiếng Phạn ṣaḍ abhijñāḥ: Sáu phép thần thông, biểu hiện năng lực tâm thức bát nhã của chư Phật và Bồ tát.
1. Thân như ý thông, Phạn (sa) ṛiddhi viṣaga-jñānaṃ, còn gọi là Thần túc thông: biến hiện tuỳ theo ý muốn, thân có thể bay lên trời, đi trên biển, chui vào trong núi… tất cả mọi động tác đều tuỳ theo ý muốn, không hề chướng ngại.
2. Thiên nhãn thông, sa. divyaṃ-cakṣuḥ-jñānaṃ: nhìn thấy tất cả mọi hình sắc ở gần hay ở xa trong cả thế gian, nhìn thấy mọi hình tướng khổ vui của chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
3. Thiên nhĩ thông, sa.  divyaṃ-śrotraṃ-jñānaṃ: nghe và hiểu hết mọi âm thanh trong thế gian, nghe và hiểu hết mọi ngôn ngữ của chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
4. Tha tâm thông, sa.  paracitta-jñānaṃ: biết hết tất cả mọi ý nghĩ trong tâm của chúng sinh trong lục đạo.
5. Túc mệnh thông, sa.  purvanivasānusmṛiti-jñānaṃ, còn gọi là Túc mệnh minh: biết được kiếp trước của chính bản thân mình và của chúng sinh trong lục đạo, từ một đời, hai đời cho đến trăm ngàn vạn đời trước đều biết rõ, nhớ rõ sinh ra ở đâu, cha mẹ là ai, tên gì, làm gì…
6. Lậu tận thông, sa.  āsravakṣaya-jñānaṃ: lậu tức là kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi. Lậu tận thông là dứt trừ toàn bộ kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi, không còn sinh tử luân hồi trong ba cõi, được giải thoát hoàn toàn.
Nhờ có thần thông, nên mặc dù không có máy móc thiết bị gì cả, Phật nhìn thấu suốt cả Tam giới từ những vi trần cực kỳ nhỏ như photon, neutrino, các hạt cơ bản hạ nguyên tử (subatomic particles) như quark, electron đến các thiên thể vũ trụ thuộc tam thiên đại thiên thế giới, Phật biết chúng chỉ là hạt ảo không có thật và gọi chung là “hoa đốm trong hư không”. Kinh Pháp Hoa có nói rõ trong mười phương thế giới có vô số Phật Thích Ca đang đồng thời thuyết pháp. 

Điều đó chứng tỏ Phật biết hiện tượng rối lượng tử, tức hiện tượng một hạt photon có thể xuất hiện đồng thời ở nhiều vị trí khác nhau. Phật còn biết chính vì không gian, thời gian, số lượng là không có thật, các đại lượng đó chỉ hiện hũu trong tâm thức, nên một photon tại vị trí này bị tác động thì lập tức photon ở vị trí kia bị tác động tương ứng, không mất chút thời gian nào vì không có việc truyền tín hiệu qua không gian. Einstein nói “tác động ma quái từ xa” vì chưa hiểu thời-không và số lượng là không có thật. Có điều gì chứng tỏ Phật biết thời-không và số lượng không có thật? Số lượng là số đếm của vạn vật, của hình tướng vật chất. Không một hình tướng nào là có thật, vật chất là không có thực thể, điều này Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh nói rất rõ:
(Này Xá Lợi Phất, các pháp đều là không có thật, không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm. Vì trong cái không, không có vật chất; không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc thanh hương vị xúc pháp; không có cảnh giới của cái thấy, cho đến không có cảnh giới của ý thức. Không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết. Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo, không có Trí, cũng không có Đắc. Vì không có Sở Đắc, Bồ Tát dựa vào Trí Bát Nhã, Tâm không dính mắc, vì không dính mắc, không có sợ hãi, xa rời điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn).
Nghịch lý EPR.
Năm 1935, Albert Einstein, Boris Podolsky và Nathan Rosen (EPR) đã công bố một bài báo trên tạp chí Physical Review mà sau này thường được gọi là nghịch lý EPR. Họ lý luận rằng :
Theo cơ học lượng tử (CHLT) người ta có thể chế tạo một cặp hạt liên đới vướng víu (entangled) lượng tử, điều đó có nghĩa về mặt toán học là một cặp hạt mà các tính chất của các hạt không độc lập với nhau mà liên quan với nhau.
Xét hai hạt liên đới lượng tử và tách chúng ra xa nhau. Khi đo tọa độ của hạt thứ nhất thì sẽ biết được tọa độ của hạt thứ hai, vì chúng liên đới lượng tử. Song bây giờ lại đo xung lượng của hạt thứ hai ta lại có thể biết được xung lượng của hạt thứ nhất. Như thế ta có thể đồng thời đo được tọa độ lẫn xung lượng của mỗi hạt : điều này trái với nguyên lý bất định Heisenberg của CHLT. Đó là nghịch lý EPR.
Lý luận trên dựa trên hai giả thuyết:
1/ Giả thuyết hiện thực (realism): hạt có một tính chất khách quan trước khi ta thực hiện phép đo tính chất đó,
2/ Giả thuyết định xứ (locality): phép đo trên hạt thứ nhất không ảnh hưởng đến kết quả phép đo trên hạt thứ hai, vì chúng cách xa nhau.
Mục đích của EPR là để chỉ trích rằng thuyết lượng tử là thiếu sót, chưa hoàn chỉnh. EPR quả quyết rằng tính chất định xứ (locality) phải luôn được bảo toàn, nhưng trong cơ học lượng tử tính chất định xứ bị vi phạm, do đó nó cũng không đảm bảo tính chất hoàn thiện (completeness).
Năm 1964, John Bell đã mở một hội thảo về nghịch lý EPR. Ông tạo ra bất đẳng thức mang tên mình là Bell.
Thế nào là bất đẳng thức Bell (Bell’s inequality)?
Sau đây là một thí nghiệm để suy ra bất đẳng thức Bell. Ông lập ra một bất đẳng thức toán học chứa mối tương quan giữa các trạng thái của các hạt cách xa nhau trong thí nghiệm, trong đó thỏa mãn ba điều kiện “hợp lí” theo quan niệm của các nhà thí nghiệm EPR, họ có quyền tự do thiết lập cái họ muốn, đó là:
-các tính chất hạt đang được đo là có thực và đã tồn tại trước,
-các tính chất của hạt không phải phát sinh trong tích tắc lúc tiến hành đo
-và không có tốc độ nào truyền nhanh hơn tốc độ ánh sáng, đó là tốc độ giới hạn trong vũ trụ.
Vào đầu thập niên 80, nền khoa học kỹ thuật đã đủ trình độ để cho nhà vật lý Alain Aspect và những người trong nhóm của ông tại Paris có thể thực hiện một loạt những thí nghiệm trên một cặp photon “vướng víu” nhau (entanglement) để trắc nghiệm bất đẳng thức Bell.
 Sơ đồ thí nghiệm hai kênh (two channel) của Bell

Nguồn S tạo ra một cặp photon vướng víu phóng đi theo hai hướng trái chiều. Mỗi photon chạm vào một kính phân tia (polariser) mà hướng đi có thể được người làm thí nghiệm ấn định. Tín hiệu đi thẳng và tín hiệu phản chiếu (vuông góc) từ mỗi đường được phát hiện và đếm bởi màn hình CM
Charlie chuẩn bị 2 hạt photon (không quan trọng là Charlie đã chuẩn bị như thế nào) và gửi cho Alice và Bob mỗi người một hạt. Alice và Bob mỗi người thực hiện hai phép đo. Và kết quả các phép đo cho trị số hoặc +1 nếu cặp phù hợp nhau hoặc -1 nếu cặp không phù hợp nhau. Gọi các trị số  Alice thu được là Q và R, còn Bob thu được là S và T.
Nếu thực hiện các phép tính theo tư duy hiện thực và định xứ thì một tổ hợp nhất định của các giá trị trung bình của Q, R, S và T phải nhỏ hơn hoặc bằng 2.
Tính toán đo đạc theo thực tế cơ học lượng tử đối với hai hạt vướng víu lượng tử thì lại thu được số 2 x căn 2  = 2,82843 cho tổ hợp đó.
Như vậy họ khám phá rằng Bất đẳng thức Bell luôn luôn bị vi phạm. Điều này chứng minh rằng những điều kiện ở trên đều không được thỏa mãn, có nghĩa là Cơ học lượng tử đã đúng và nhóm EPR sai lầm.
Hai vấn đề gắn liền với bất đẳng thức Bell :
(1). Cho rằng Q, R, S, T tồn tại độc lập với các phép đo. Đó là quan điểm hiện thực (realism).
(2). Việc giả định rằng Alice khi tiến hành phép đo không ảnh hưởng gì đến kết quả các phép đo do Bob thực hiện. Đó là quan điểm định xứ (locality).
Hai quan điểm trên kết hợp lại thành quan điểm hiện thực định xứ (local realism). Bất đẳng thức Bell không nghiệm đúng với thực tế đo đạc và như vậy ít nhất một trong hai quan điểm nói trên là sai lầm. Đây là bài học lớn cho chúng ta : vũ trụ không phải hiện thực định xứ!
Qua ý tưởng của John Bell, có hàng loạt thí nghiệm kiểm chứng sau đó, ngày nay, người ta coi lập luận về tính hoàn thiện  của cơ học lượng tử mà EPR đặt ra dựa trên nền tảng định xứ là thiếu cơ sở. Nếu thí nghiệm ảo EPR dựa trên những lập luận đơn giản, từ lý thuyết đến thực nghiệm bao nhiêu, thì các Bất Đẳng Thức Bell lại chuẩn, khó bị phá vỡ trong kiểm chứng bấy nhiêu. Clauser và Shimony (1978), Aspect và La ( 1981), Shi và Alley (1988), Ou và Mandel (1988), Kwiat và  cộng sự (1995), Weihs và cộng sự ( 1998) cùng nhiều nhóm nghiên cứu đã xây dựng thí nghiệm để tìm ra những trường hợp vi phạm Bất đẳng thức Bell. Quá trình xây dựng các thí nghiệm này đã không chỉ tạo ra nhiều kĩ thuật mới mà còn làm nền tảng của một nền công nghệ mang tên Công Nghệ Lượng Tử. Các vấn đề như thông tin lượng tử, mật mã lượng tử, bảo mật lượng tử và gần đây nhất là truyền tải lượng tử (teleportation), đều xuất phát từ sau hội thảo của Bell năm 1964, nói chính xác, đều bắt nguồn từ báo báo “Nghịch lý EPR” năm 1935 của nhà vật lý thiên tài Einstein cùng các đồng nghiệp Podolsky và Rosen. Mặc dù lập luận của EPR là sai, vì quả thật lượng tử có tính bất định xứ (nonlocality), một tính chất mới, làm sụp đổ lâu đài vật lý học cũ, nhưng bài báo đã gợi ý cho nhiều nghiên cứu đột phá. Mặc dù Einstein sai lầm nhưng với EPR ông lại càng nổi tiếng. Vì ông quá nổi tiếng như vậy nên công chúng phổ thông dễ có định kiến ông là nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại.
   
Lý thuyết Trường Thống Nhất
   
Einstein dành 30 năm cuối của cuộc đời mình để nghiên cứu về một lý thuyết có thể giải thích được tất cả (Theory Of Everything- TOE) mà ông gọi tên là Lý thuyết Trường Thống Nhất (Theory of Unified Field), ông muốn thống nhất thuyết tương đối và cơ học lượng tử nhưng cuối cùng thất bại, ông qua đời năm 1955 mà không giải quyết được vấn đề. Thích Ca mặc dù sống trước thời đại của Einstein đến hơn 2500 năm, nhưng đã tiên đoán thất bại của Einstein và những người cùng chí hướng với ông, rằng không thể có TOE. Đức Phật đã cho một ví dụ bằng câu chuyện người mù sờ voi, ghi trong  Niết Bàn Kinh 涅 槃 经
“有王告大臣,汝牵一象来示盲者时,众盲各以手触。大王唤众盲问之:“汝见象类何物?触其牙者言:象形如萝菔根;触其耳者言如萁;触其脚者言如臼;触其脊者言如床;触其腹者言如瓮;触其尾者言如绳。……王喻如来正偏知,臣喻方等涅槃经,又象喻佛性,盲者喻一切众生无明也。”
(Có một vị vua nói với đại thần, ngươi hãy dẫn một con voi đến cho bọn mù xem. Những người mù dùng tay để sờ. Vị đại vương kêu bọn mù lại hỏi : “Các ngươi thấy voi giống như vật gì ? Người sờ cái ngà nói : voi giống như cái củ cải. Người sờ lỗ tai nói giống nhánh lá ki. Người sờ chân voi nói giống như cái cối.  Người sờ lưng voi nói giống như cái giường. Người sờ bụng voi nói giống như cái lu. Người sờ đuôi voi nói giống như sợi dây thừng… Vua tượng trưng cái biết toàn thể của Như Lai (chánh biến tri 正偏知) Đại thần tượng trưng Kinh Phương Đẳng Niết Bàn. Con voi tượng trưng cho Phật tính. Những người mù tượng trưng cho tất cả chúng sinh vô minh.)
 La bạc căn 萝菔根 (củ cải) 
 Ki  萁 (lá ki) 
 Cữu  臼 (cái cối)

Người mù không thể biết được cái toàn thể, mà chỉ biết được phần mớ nào đó thôi. Người mù là ai ? Là nhà chính trị, nhà triết học, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, văn nghệ sĩ và cả bàn dân thiên hạ. Nói chung là tất cả chúng sinh, với cái biết của bộ não, họ không bao giờ có thể đạt tới cái biết toàn thể.

Đức Phật kể câu chuyện người mù sờ voi để biểu thị ý tưởng rằng trí óc duy lý của con người là hữu hạn, nó không thể biết được cái toàn thể vì cái hiểu biết của nó dựa trên cơ sở vô minh. Triết học và khoa học của loài người xây dựng trên nền tảng vô minh, không biết rằng bản chất của thế giới là không, không có nghĩa lý gì cả, nếu đi đến hiểu biết tận cùng thì sẽ gặp phải mâu thuẫn, phi logic, lý thuyết trở nên phi lý không thể hiểu được, không thể chấp nhận được. Điều này đã được nhà toán học Kurt Gödel phát biểu và chứng minh thành “Định lý bất toàn” công bố năm 1931. Định lý này được phát biểu thành 2 phần:
Định lý bất toàn của Kurt Gödel
Định lý 1: Nếu một lý thuyết dựa trên một hệ tiên đề phi mâu thuẫn thì trong lý thuyết ấy luôn luôn tồn tại những mệnh đề không thể chứng minh cũng không thể bác bỏ.
Định lý 2: Không tồn tại bất cứ một quy trình suy diễn nào cho phép chứng minh tính phi mâu thuẫn của một hệ tiên đề.   
Ý nghĩa triết học của Định lý Bất Toàn (Theorem of Incompleteness) là luôn luôn có mâu thuẫn trong bất cứ hệ thống lý thuyết duy lý nào, Vật chất thì không có thực thể; cái Không không có gì cả, không có nghĩa lý gì, thì lại có thể tạo ra vũ trụ vạn vật; quark, electron chỉ là những hạt ảo không có thật, nhưng lại có thể tạo ra thế giới thiên hình vạn trạng, trong đó có con người thông minh, biết tư duy trừu tượng, biết sáng tạo ra đủ thứ vật dụng máy móc thiết bị, nhưng không thể biết được cái toàn thể. Các cặp phạm trù mâu thuẫn đều chỉ là một nhưng lại không phải là một.
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh cũng nói rõ “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”
Lý trí của chúng ta biết nhà cửa, xe cộ, thân ngũ uẩn của mình chỉ là huyễn ảo không có thật, nhưng hàng ngày ta vẫn phải ăn uống, mặc, ở, vẫn phải cần tới nhà cửa, xe cộ. Không thể có lý thuyết nào thống nhất được các mâu thuẫn đó cả, trí óc là bất lực. Einstein bó tay. Nhưng Thích Ca thì không, bộ não không thể giải quyết được vấn đề, nhưng không dùng bộ não thì lại giải quyết được, kết quả không thể tưởng tượng nổi. Sinh Tử là qui luật tự nhiên, ai cũng nghĩ thế, không ai thoát được, nhưng Thích Ca thân chứng được là không có Sinh Tử và thoát khỏi Luân Hồi. Thích Ca không đi tìm TOE vì biết TOE cũng ảo tưởng như hư không vô sở hữu, nhưng vì muốn cứu khổ cho chúng sinh nên Thích Ca bày ra phương tiện gọi là Tứ Đế trong đó nói Khổ, Tập, Diệt, Đạo để từ từ dẫn dắt chúng sinh mê muội đi dần tới giác ngộ. Một phương tiện khác là Thập Nhị Nhân Duyên để giải rõ nguồn gốc của vạn pháp, của chúng sinh. Các thuyết lý đó và rất nhiều kinh điển khác đều chỉ là phương tiện tạm thời. Đến Bát Nhã Tâm Kinh thì Thích Ca nói rõ, thật ra không có gì cả, tất cả chỉ là tâm thức biến hiện, giống như toàn bộ hình ảnh, âm thanh, chữ viết, video trên màn hình đều là ảo, nhưng chúng ta thấy là rất thật, dù sao cũng còn biết đó là ảo. Đến cuộc sống đời thường thì tính chất ảo hóa cao cấp hơn gấp bội, vì ngoài thấy, nghe, chúng ta còn sờ mó được, ngửi nếm được, có sự tiêu hóa, tăng trưởng, chuyển đổi hình thái, khiến cho chúng sinh không còn biết đó là ảo nữa, chỉ có bậc giác ngộ, kiến tánh thành Phật mới ngộ ra tất cả chỉ là ảo hóa, là nằm mơ giữa ban ngày. Không gian, thời gian, số lượng, người, vật đều không có thật. Chính vì vậy trong câu chuyện người mù sờ voi, Phật nói thẳng thừng bọn người mù là thí dụ cho tất cả chúng sinh vô minh (không loại trừ các nhà khoa học chuyên dùng trí óc để phân tích, tổng hợp, nhưng không bao giờ biết được hết cái toàn thể).
Các nhà khoa học mơ tưởng đi tới Sao Hỏa, là việc hết sức khó khăn. Nhưng Thích Ca chỉ một niệm là có thể đến bất cứ đâu trong Tam giới (Tam giới còn rộng lớn hơn vũ trụ vì bao gồm cả  Sắc giới và Vô Sắc giới, trong khi vũ trụ chỉ là một phần nhỏ của Dục giới, phần thấy được của Dục giới mà thôi). Vì vậy Thích Ca còn có biệt danh là Như Lai. Ý nghĩa của Như Lai là “Tùng vô sở khứ, diệc vô sở lai cố danh Như Lai-從無所去亦無所來故名如來” (chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu gọi là Như Lai – Kinh Kim Cang ) Đó là chánh biến tri (hiện hữu khắp không gian thời gian, biết chính xác khắp mọi nơi)
 Bản đồ thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ

Trong bản đồ thánh tích Phật giáo, chúng ta thấy có địa danh Sankasya (Tăng Già Thi 僧伽施 gần New Delhi ngày nay), địa danh này tương đối ít được biết hơn các thánh tích khác. Đó là nơi Đức Phật dùng thần thông lên trời Đạo Lợi 忉利天 thuyết pháp cho mẹ là hoàng hậu Ma Da nghe, Phật lên cõi trời chỉ một buổi thôi, nhưng người trần gian thấy là ba tháng, sau ba tháng Phật mới trở về trần thế, có Đế Thích và Phạm Thiên theo hầu.
Bia đá tạc sự tích Đế Thích và Phạm Thiên hầu Phật trở về thế gian tại Sankasya (Tăng Già Thi 僧伽施 )

Điều đó cũng tương tự như pháp sư Khoan Tịnh đến viếng cõi Tây phương Cực lạc chỉ trong 20 giờ thôi, nhưng người đời thấy là 5 năm 6 tháng.
Cõi trời Đao Lợi (忉利天) ở đâu ? Chúng ta không thể tìm thấy trong vũ trụ này, nhưng không phải là không có. Theo Stephen Hawking (nhà vật lý người Anh, hiện mang chức danh Giáo sư Lucasian tức giáo sư Toán học của Đại học Cambridge, chỉ những nhà khoa học xuất sắc như Isaac Newton hay Paul Dirac mới có chức danh này) và Neil Turok (sinh năm 1958 tại Johannesburg, South Africa, Giáo sư Vật Lý của Đại học Princeton, Giám đốc Viện Perimeter về Vật Lý lý thuyết), hai người nói trong một định đề (postulate) : “The quantum world is one of virtual particles continually fluctuating in and out of existence, even in a vacuum, of superstrings vibrating and twisting in ten or eleven dimensions, most of which are ‘rolled up’ and invisible, of a reality in which gravitation, spacetime and matter are or were merged in one ‘instanton” (Thế giới lượng tử là thế giới của các hạt ảo không ngừng dao động qua lại giữa hiện hữu và cả hư không, của siêu dây rung động và biến dạng trong 10 hoặc 11 chiều kích_ mà phần lớn những chiều kích ấy bị cuốn lên và vô hình_của một thực tại trong đó lực hấp dẫn, thời không, và vật chất, được hoặc đã được kết hợp lại trong ‘sát na hiện tiền’). Vậy cõi trời Đao Lợi nằm trong một vũ trụ song song với vũ trụ của chúng ta, thuộc các chiều kích không gian bị cuốn lại nên người trần không thể thấy, nhưng người có thần thông như Đức Phật thì có thể thấy và đến được. Đến bằng cách nào ? Bằng cách dùng tâm niệm, chỉ một niệm là đến. Đây là phương thức di chuyển chủ yếu trong Tam giới.
Đi mà không đi vì pháp thân của Thích Ca có mặt khắp không gian thời gian, hay nói cách khác Tam giới không có thật nên đi với không đi cũng chẳng khác nhau. Đây không phải là nói suông mà hiện nay chúng ta có thể thực hiện một phần, Chẳng hạn khi đưa một bài viết lên mạng thì nó vốn là một vật ảo, có mặt ở khắp thế giới, bất cứ chỗ nào, bất cứ giờ nào, nếu hội đủ nhân duyên thì có thể thấy nó. Bây giờ việc gặp gỡ với bạn bè, người thân, dù họ ở bất cứ phương trời nào trên thế giới là rất dễ dàng, vì tiếng nói, hình ảnh của ta là những vật ảo, có thể xuất hiện đồng thời bất cứ nơi đâu trên quả địa cầu nhờ những công cụ như Skype hoặc Yahoo Messenger hay Windows Live. Thân ngũ uẩn của ta cũng là một vật ảo nhưng ở một trình độ cao cấp hơn, chỉ có những người có thần thông hay công năng đặc dị mới thực hiện được thân như ý thông.
Làm sao xây dựng hòa bình và hạnh phúc cho thế giới ?  
Hầu hết chúng ta đều mong mỏi thế giới hòa bình, ấm no và hạnh phúc nhưng không có cách nào thực hiện được. Thế giới luôn luôn bất ổn, thiên tai dồn dập, bạo lực khắp nơi. Các cường quốc luôn luôn ỷ mạnh hiếp yếu, muốn tạo lập trật tự thế giới theo ý riêng của mình. Áp bức, bất công, tham nhũng, cưỡng bức luôn luôn xuất hiện, chỉ khác là có nơi nhiều nơi ít mà thôi. Tại sao có tình hình như thế ?
Trước hết nói về thiên tai. Khoa học với khả năng có hạn không thể nào khắc phục được thiên tai. Động đất, sóng thần, cuồng phong, mưa bão, núi lửa. Tất cả các thiên tai đó đều vượt quá khả năng của khoa học. Phật pháp nói : “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Liệu con người có thể rút ra một vài nhận thức và hành xử tốt hơn trong cuộc đời dựa vào Phật giáo ? 
Thế giới là do tâm tạo, tâm thức con người với những tập quán xấu như hung bạo, hiếu chiến, giết chóc tất nhiên là có ảnh hưởng tới hòa bình thế giới, ai cũng thấy. Nhưng ít ai hiểu rằng thiên tai cũng là do tâm tạo. Không có cái gì tự nhiên có. 
Thế giới vật chất, thái dương hệ, mặt trời, hành tinh đều là cấu trúc ảo, vì vậy mới xảy ra khủng hoảng Vật lý học mà các nhà khoa học hàng đầu thế giới đã cảm thấy, khi môn cơ học lượng tử phát triển, rằng vật chất không có thực thể, như Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel Vật lý 1922), Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính), Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963), Heisenberg, (1901-1976 nhà vật lý lý thuyết người Đức, người phát minh ra nguyên lý bất định), Stephen Hawking (nhà vật lý người Anh,  mang chức danh Giáo sư Lucasian tức giáo sư Toán học của Đại học Cambridge), Thomas Samuel Kuhn (1922-1996, nhà vật lý Mỹ, tác giả sách Cấu Trúc Các Cuộc Cách mạng Khoa học- Structure of Scientific Revolutions)…, Phật giáo gọi cấu trúc ảo của vật chất là vô thủy vô minh, Thiền gọi là thoại đầu. Tâm là lực tổng hợp của 4 lực cơ bản của thế giới vật chất: Lực hấp dẫn (force de gravité, gravitation) là lực hút giữa vật chất với nhau, có tác dụng ở mặt vĩ mô. 
Lực điện từ (force électromagnétique, electromagnetism) tạo ra từ trường, trong đó điện tích cùng dấu thì đẩy nhau, khác dấu thì hút nhau. Lực tương tác mạnh (force interactive forte, the strong interaction) là lực liên kết các hạt quark tạo ra hạt proton và hạt neutron, tạo ra sự vững bền của hạt nhân nguyên tử và giữ cho electron chuyển động theo quỹ đạo nhất định. Lực tương tác yếu (force interactive faible, the weak interaction) tạo ra hiện tượng phóng xạ của các nguyên tố nặng (như uranium) tức là giải phóng một số proton và neutron khiến nguyên tử dần dần bị phân rã. 
Lực điện từ và lực tương tác yếu, từ năm 1983 khi khám phá hạt tương tác boson W và boson Z thì có thể gom thành một lực chung gọi là lực tương tác điện yếu (interaction of weak electromagnetic fields). Vì vật chất là cấu trúc ảo nên Tâm lực có thể tác động để làm thay đổi. Các bậc giác ngộ có thần thông, có thể làm được điều đó. Chẳng hạn Huệ Năng, Hám Sơn, Đơn Điền đã làm thay đổi cấu trúc cơ thể của mình khiến nó trở nên bất hoại mà không cần có sự can thiệp từ bên ngoài, không cần ướp xác gì cả. 
Ngay cả những người chưa giác ngộ nhưng tâm lực đủ mạnh như Trương Bảo Thắng, Hầu Hi Quý cũng làm được những việc thần kỳ như đi xuyên qua tường, di chuyển cố thể vật chất như viên thuốc đi xuyên qua vỏ chai, tiền giấy đi xuyên qua vách bê tông kho bạc của ngân hàng…Khi Phật giáo nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” chúng ta phải hiểu rằng Tâm chính là lực tổng hợp của 4 lực cơ bản của vật chất, Tâm là nguồn năng lượng vô hạn. Thích Ca đã phát biểu điều đó từ rất lâu mà Einstein và nhiều nhà khoa học hiện nay vẫn chưa hiểu.
Vũ trụ cũng chỉ là cấu trúc ảo, là nằm mơ giữa ban ngày, vũ trụ là một trường thông tin mà tâm thức có thể tác động, với dữ liệu khổng lồ vô hạn lấy từ a-lại-da thức. Loài người có cùng một cộng nghiệp nên họ cùng thấy một vũ trụ giống nhau. Các loài khác với cộng nghiệp khác, chúng thấy vũ trụ không giống như loài người thấy. Khi tâm lực đủ mạnh thì có khả năng vận dụng, tức có lục thông, có thể dời núi lấp biển hay tạo ra cả một thế giới khác, chẳng hạn Đức Phật A Di Đà đã tạo ra thế giới tây phương cực lạc để tiếp dẫn những người tha thiết muốn đến đó, nơi đó đất đai bằng phẳng, không có núi cao vực sâu, cư dân hóa sanh chứ không phải thai sanh, cũng không phải cực nhọc suốt ngày lo kiếm ăn như ở trần gian. 
Chúng ta có thể cho rằng đó là một thế giới ảo tưởng không có thật. Đúng thế, nhưng nên biết rằng nó cũng bình đẳng như trần gian, nghĩa là cõi thế gian cũng là ảo tưởng tương tự như vậy và có nhiều ác trược hơn như thiên tai, bệnh tật, chiến tranh mà thế giới kia không có. Thiên tai là sự báo động rằng nghiệp xấu, nghiệp ác đang hiện hành, là quả báo của bất thiện nghiệp trong quá khứ. Tại sao có luật nhân quả ? Luật nhân quả trong nghiệp chướng cũng giống như lực quán tính trong vật lý học, điều đó là hoàn toàn tương đồng. Khi ta tạo một lực thì xuất hiện một phản lực có cường độ tương đương nhưng có chiều nghịch lại. Đó chính là nguyên lý của động cơ phản lực. Trong thế giới vô hình, nghiệp lực cũng tác động theo đúng nguyên lý của lực quán tính trong thế giới hữu hình. Khi ta tạo một nghiệp ác hoặc nghiệp thiện lên người khác hoặc vật khác thì xuất hiện một phản nghiệp tác động lại chính mình mà ta gọi là luật nhân quả. 
Có một nguyên lý bao trùm vũ trụ vạn vật, đó là nguyên lý đối xứng. Khi có hạt electron thì cũng có hạt positron đối xứng với nó, khi có vật chất thấy được thì cũng có vật chất tối không thấy được. Nguyên lý đối xứng tạo ra cặp phạm trù mâu thuẫn trong bất cứ lĩnh vực nào của thế giới dù là hữu hình hay vô hình.
Thiên tai có nguồn gốc rất sâu xa, không phải thô thiển như các nhà khoa học giải thích. Nên khi thấy hai ông tăng cãi nhau về lá phướn bị gió động hay tự lay động, Huệ Năng bảo : “Không phải gió động, cũng không phải phướn động, mà do tâm các ông động” Lời nói đó có ý nghĩa rất sâu xa.
Một cá nhân khó có thể đủ sức làm thay đổi cộng nghiệp của cả một cộng đồng hàng trăm triệu người, nhưng hiểu rõ thì không còn than trời trách đất hay than thân trách phận mà có thể bình tâm an nhiên thọ nghiệp, biết nghiệp cũng chỉ là giả tạm, lòng không còn sợ hãi, như vậy cũng đủ bình an.
Giải quyết được thiên tai thì cũng sẽ giải quyết được tất cả mọi họa hoạn theo cùng một cách thế như vậy. Thích Ca dạy rằng hòa bình và hạnh phúc là do ở mình, là tâm trạng, tâm thái chứ không phải do người khác hay vật khác quyết định, do đó Phật giáo dạy nhẫn nhục và thường không tán thành các biện pháp bạo lực. Ta thấy trong lịch sử khi Phật giáo bị người Hồi giáo tàn phá, giết hại, càn quét khỏi quê hương Ấn Độ, người Phật giáo cũng không trả thù, không cần trả thù, bởi vì gieo gió sẽ gặt bão, luật nhân quả sẽ biểu hiện, chỉ sợ người Hồi giáo không tránh khỏi quả báo.
Giáo lý của Phật giáo tự nó đã có sức đóng góp cho hòa bình và hạnh phúc của nhân loại, trong khi khoa học tuy đem lại nhiều ích lợi, tiện nghi vật chất, cơm ăn, áo mặc, cái đó không thể phủ nhận, nhưng đồng thời cũng đem lại nhiều đau thương chết chóc như chất độc hóa học, chất độc màu da cam, các loại vũ khí hủy diệt như bom nguyên tử, hay vũ khí thông thường như mìn, bom đạn,  hàng ngày giết hại không ít người. Einstein ân hận không nguôi vì ông đã lỡ kí tên trong bức thư gởi Tổng thống Mỹ Roosvelt đề nghị chế tạo bom nguyên tử để chống phát xít, mặc dù sau đó ông không có tham gia chương trình, và khi biết quả bom đã được chế tạo, ông đã gởi bức thư thứ hai cho Tổng thống Truman, mới lên thay Roosvelt vì ông này qua đời, đề nghị không sử dụng bom nguyên tử, nhưng đã quá muộn, hai quả bom nguyên tử đã rơi xuống Hiroshima và Nagasaki gây thảm họa cho dân Nhật.
Ở đây tôi chỉ đề cập tới thực tế, tới khoa học, chứ không nói về tôn giáo. Trình độ khoa học của nhân loại hiện nay còn rất nhiều hạn chế, có nhiều thực tế mà khoa học mù tịt vì chưa hiểu biết, nhưng một số nhà khoa học lại chưa hiểu sự hạn chế đó, khoa học giỏi ở một số trường hợp cụ thể, có những kỹ thuật tinh vi để giải quyết được một số vấn đề trong thực tế đời thường như sản xuất công nông nghiệp, xây dựng cơ bản, thiên văn học, vật lý học, sinh vật học v.v…nhưng về lý thuyết tổng quát thì khoa học còn kém cỏi lắm, ví dụ :
-Đa số các nhà khoa học trong đó có Einstein không hiểu về tánh không, ở đây không nói về niềm tin tôn giáo mà nói về khoa học thực tiễn. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Thích Ca đã nói rõ về tánh không của vạn vật. Mãi đến thế kỷ 20 khi khoa học đã có khả năng nghiên cứu sâu về cấu trúc của vật chất dưới nguyên tử (subatomic structure), tìm hiểu những hạt cơ bản dưới nguyên tử (subatomic particles), các nhà khoa học mới té ngữa thấy rằng vật chất không có thực chất, những hạt cơ bản như quark, electron chỉ là những hạt ảo, chúng có những tính chất kỳ lạ như bất định xứ (nonlocality), không tồn tại nếu bị tách riêng cô lập, cái mà chúng ta tưởng là vật chất, thật ra chỉ là mối tương quan giữa các cấu trúc ảo. 
Bản thân con người cũng là cấu trúc ảo, vật thể con người quan sát cũng là cấu trúc ảo, ảo tương tác với ảo trở thành cái mà chúng ta thấy là vật chất và tưởng là có thật, không hiểu bản chất hư ảo của chúng. Cho tới tận ngày hôm nay rất nhiều nhà khoa học vẫn còn hoàn toàn mơ hồ về điều này, bởi vì họ chỉ tin tưởng vào giác quan, nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm được, sờ mó được, sinh sản, tăng trưởng, biến đổi được, thì làm sao là ảo được ? không biết rằng toàn bộ những cái thấy đó đều là vô minh, có nghĩa là sai lầm, bị hạn chế, không phải thật. Ngay cả nhiều nhà sư Phật giáo cũng còn không hiểu ý nghĩa của vô minh trong thuyết 12 nhân duyên của Phật giáo. Nhiều người vẫn tưởng rằng vô minh là bất thiện, không hợp với đạo lý là vô minh. Thật tế, vô minh không dính dáng tới thiện hay bất thiện, không dính dáng tới hợp hay không hợp đạo lý, vô minh đích thật là cái thấy bị che lấp, bị hạn chế, không thấy hết được toàn bộ sự thật, không đúng như thật, đó là cái thấy của người mù sờ voi. 
Vô minh chính là thấy ảo mà không biết là ảo, tưởng là thật. Thích Ca đã giảng giải cho nhân loại thấy rõ vô minh là mắt xích đầu tiên của chuổi thập nhị nhân duyên. Tánh không là bản chất của vũ trụ vạn vật, đã được tuyên thuyết rõ ràng trong Bát Nhã Tâm Kinh. Tánh không bao hàm ý nghĩa rằng không gian, thời gian, số lượng đều là không có thật. Hiện tượng rối, vướng víu lượng tử (quantum entanglement) thể hiện đầy đủ, rõ ràng những tính chất này.
Sự kém cỏi của khoa học thể hiện rõ ràng ở chỗ cho tới nay, trong viễn tải lượng tử, khoa học chỉ mới di chuyển được một photon đi xa 143 km (giữa  hai hòn đảo của quần đảo Canary, thực hiện bởi Anton Zeilinger tiến hành năm 2012) trong khi Hầu Hi Quý dùng đặc dị công năng có thể di chuyển tức thời một gói thuốc lá đi xa 1600km. Đã một năm trôi qua rồi mà khoa học vẫn chưa tìm thấy chiếc máy bay MH370 của Malaysia bị mất tích, không biết nó đang ở đâu. Sau nửa thế kỷ tìm kiếm, khoa học vẫn không biết được có một nền văn minh nào ở ngoài Trái Đất hay không. Tốc độ của các phi thuyền do con người chế tạo mới dạt tới 50.000 km/giờ trong khi tốc độ ánh sáng vẫn còn là quá chậm ở qui mô vũ trụ. Khoa học hoàn toàn bất lực trong việc giải quyết bạo lực và chiến tranh, trong vấn đề thoát khổ và sinh tử luân hồi.
-Khoa học (khoa học nói ở đây là Vật lý học, Toán học, Sinh vật học) hoàn toàn mù tịt về thế giới tâm linh vì không có khả năng tiếp cận. Khoa học không biết tới cái mà Phật giáo gọi là Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới). Khoa học không biết tới cõi âm, tức là cõi giới của các vong linh, của những người đã chết. Gần đây, tại Việt Nam xuất hiện rất nhiều nhà ngoại cảm, họ tiếp xúc được với vong linh, qua hướng dẫn của vong linh và khả năng thấu thị đã tìm được hàng vạn hài cốt của liệt sĩ bị thất lạc trong chiến tranh. Như vậy họ đã chứng tỏ vong linh là có thật, việc đầu thai luân hồi mà Phật giáo đề cập trong kinh điển là có thật, đó không phải chỉ là niềm tin tôn giáo mà là sự kiện có thật, là khoa học. Chính vì có nhiều hiện tượng mà khoa học chưa hiểu nên từ năm 1882 tại nước Anh, khi đó là cường quốc số một thế giới, người ta thành lập Hội Nghiên cứu Tâm linh (Society for Psychical Research) để bổ sung kiến thức cho khoa học. Vậy bây giờ chúng ta thử hỏi vong linh đi đầu thai chuyển kiếp thì đi với tốc độ nào ? Họ đến những xứ sở nào ? 
Cõi trời, cõi địa ngục ở đâu ? chỉ một số rất ít có thể kiểm chứng được là vong linh đầu thai trở lại cõi nhân gian, còn đa số họ đi tới những cõi giới xa xôi nào ngoài hành tinh không biết được, hoặc cõi A tu la, súc sinh, ngạ quỹ, cõi tiên hoặc cõi tây phương cực lạc của Phật A Di Đà. Chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng tốc độ 300.000 km/giây của Einstein là vô dụng, tốc độ 50.000 km/giờ của các phi thuyền không gian do con người chế tạo lại càng vô dụng hơn nữa. Vong linh phải đi bằng tốc độ của ý niệm và họ đi trong cõi Tam giới duy tâm vạn pháp duy thức mà Đức Phật đã nói trong kinh điển, đó là hiện thực, đó là khoa học chứ không phải là tôn giáo, đó chính là khoa học tâm linh.

– Khoa học cũng mù tịt về nhân thể đặc dị công năng. Tại Trung Quốc trong thập niên 1980 xuất hiện nhiều nhân vật thần kỳ như Trương Bảo Thắng, Hầu Hi Quý, Nghiêm Tân. Họ có thể làm được những việc mà khoa học không thể nào hiểu nổi. Như Nghiêm Tân trong vòng nửa tiếng trị lành bệnh cho công nhân Túc Bình của nhà máy thép Trùng Khánh bị gãy xương vai vì tai nạn giao thông. Trương Bảo Thắng có thể dùng ý niệm để lấy một trái táo ra khỏi một thùng sắt mà nắp đã bị hàn kín. Hầu Hi Quý có thể lấy xăng từ Bắc Kinh đổ vào chiếc xe hơi đang đậu ở hồ Mật Vân cách Bắc Kinh 50km. Những việc họ làm giống như thần thoại mà các nhà khoa học duy vật không thể hiểu nổi. Nhưng những việc đó hé lộ một điều quan trọng là những gì xảy ra với lượng tử (như tính bất định xứ) cũng có thể xảy ra với các vật thể lớn. Những sự kiện đó dẫn tới một khái niệm rất quan trọng mà cho tới bây giờ nhiều nhà khoa học vẫn chưa hình dung nổi, đó là vũ trụ là ảo, vũ trụ là số (số là thông tin là vạn pháp duy thức), giống như kinh điển Phật giáo đã nói từ hơn 2500 năm trước.
– Có những sự kiện mà khoa học không hiểu, chẳng hạn năng lực nào khiến electron cứ chạy vòng vòng chung quanh hạt nhân nguyên tử không bao giờ ngừng nghỉ ? Tại sao có hiện tượng giam hãm (confinement) là hiện tượng ba hạt quark dính chặt nhau vĩnh viễn trong hạt proton và hạt neutron, không một sức mạnh vật chất nào có thể tách rời chúng ra ? Từ xa xưa Đức Phật nói rằng những hạt vật chất cơ bản hạ nguyên tử đó (subatomic particles) chỉ là “hoa đốm trong hư không” tức là hạt ảo không phải thật, chúng phát sinh trong nhất niệm vô minh của tâm chúng sinh. Như vậy tâm chính là năng lực làm cho electron chuyển động. Tâm cố chấp vô cùng kiên cố của chúng sinh chính là năng lực tạo nên hiện tượng giam hãm của hạt proton và hạt neutron. Ngày xưa nhân loại chưa có khái niệm hoặc danh xưng về hạt proton và neutron nên Phật phải diễn tả cách khác, kinh điển dùng thuật ngữ “vô thủy vô minh” để diễn tả cấu trúc nguyên tử của vật chất, đó chỉ là một cấu trúc ảo. Thiền Trung Hoa lại gọi vô thủy vô minh bằng một danh từ khác là “thoại đầu”. Danh từ thoại đầu rất dễ gây hiểu lầm, nhiều người cứ nghĩ thoại đầu là câu thoại, chẳng hạn câu “khi chưa có trời đất, ta là cái gì ?” không ngờ rằng thoại đầu là muốn nói cấu trúc ảo của vũ trụ vạn vật và sâu kín hơn nữa chính là tâm bất nhị.
Tham thiền là để chứng Niết bàn. Niết bàn là dừng bặt tư duy, giác ngộ tánh không của vạn hữu. Đến đây chúng ta mới thật sự hiểu tại sao Descartes nói “Je pense, donc je suis” (Tôi tư duy, vậy tôi hiện hữu). Tư duy chính là hiện hữu, dừng tư duy chính là niết bàn, là vắng lặng, không có gì cả. Hiển nhiên Descartes cũng đồng quan điểm là vạn pháp duy tâm. Vô thủy vô minh nằm sâu trong a-lại-ya thức, tức tàng thức, còn nhất niệm vô minh chính là ý thức của bộ não, cũng là cấu trúc ảo. Hai cấu trúc ảo tương tác với nhau phát sinh ra lục thức (thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm giác tiếp xúc, ý thức) lục thức cũng chính là vạn pháp duy thức, là vũ trụ vạn vật mà chúng ta thấy. Các nhà đặc dị công năng đã chứng tỏ bằng thực nghiệm rằng hiện tượng giam hãm chỉ là ảo tưởng của các nhà vật lý học.
 
Khi Trương Bảo Thắng dùng tâm niệm lấy trái táo ra khỏi cái thùng sắt bị hàn kín là đã phá vỡ hiện tượng giam hãm của hạt proton và neutron, cấu trúc nguyên tử của vật chất bị tan rã, vật chất đã biến thành phi vật chất, cấu trúc ảo của trái táo bị dời ra ngoài thùng sắt sau đó nó tức khắc hiện trở lại thành trái táo như cũ. 
Khi Hầu Hi Quý dùng tâm niệm phục nguyên chiếc đồng hồ đeo tay bị đập bẹp của Phó chủ tịch Công đoàn tỉnh Hồ Nam Long Quỳ, là ông đã dùng Chánh biến tri để tái cấu trúc chiếc đồng hồ bị hư hỏng hoàn toàn thành nguyên vẹn giống như cấu trúc ban đầu của nó, phá vỡ mọi quy luật của vật lý học kể cả hiện tượng confinement (giam hãm).
Những việc kể trên cho thấy tri kiến của đức Phật là không thể nghĩ bàn, tri kiến của Einstein không thể nào sánh kịp với Thích Ca.
Tóm lại, chỉ xét riêng về phương diện thuần túy khoa học, chưa cần xét tới sự nghiệp đối với nhân loại, trí tuệ, hiểu biết về thế giới của Einstein cũng không sánh kịp Thích Ca. Einstein chỉ hiểu thế giới trên nền tảng vô minh cục bộ, còn Thích Ca ngộ Tâm bất nhị chính là vũ trụ vạn vật. Thích Ca thoát khỏi sinh tử luân hồi, xứng danh Như Lai, vô lượng quang, vô lượng thọ (khắp không gian thời gian) vô thủy vô chung. Trong khi đó, Einstein loay hoay không giải quyết được lý thuyết trường thống nhất. Vì vậy nên tôi chọn Thích Ca là nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét