Trang

Thứ Sáu, 23 tháng 3, 2018

Bài học từ Hawking/Lessons from Hawking

Phạm Việt Hưng

A very special man, Stephen Hawking, was gone to another world two days ago. People remember him not only because of his great contributions to science, but especially because of his philosophical view on the world. On this occasion, discussing on Hawking’s changes of worldview during his lifetime maybe an useful way to commemorate him…
Một người rất đặc biệt, Stephen Hawking, đã ra đi đến một thế giới khác hai ngày trước. Người đời nhớ ông không chỉ vì những đóng góp lớn lao của ông cho khoa học, mà còn vì quan điểm triết học của ông về thế giới. Nhân dịp này, thảo luận về những thay đổi thế giới quan của Hawking trong suốt cuộc đời của ông có lẽ là một cách hữu ích để tưởng niệm ông.
Sau khi công bố bài “Nhớ Hawking”, tôi cảm thấy đã đủ để nói lên một cái gì đó tiếc nuối cho một bậc tài danh như Hawking, vì ông đã tự tước bỏ đức tin quý giá vào Đấng Sáng tạo. Nhưng sau chuyến thăm tháp “Thiên Ngọc Kết” của một người bạn, tôi cảm thấy những gì tôi vừa nói về Hawking dường như chưa đủ. Tôi sẽ nói về tháp Thiên Ngọc Kết ở cuối bài, nhưng chuyến thăm đó đã gợi ý tôi phải nhấn mạnh đến vấn đề ĐỨC TIN là thứ quý giá mà Hawking đã đánh mất. Đó là lý do để tôi viết thêm bài này, như một dị bản của bài “Nhớ Hawking”. Hy vọng độc giả sẽ nhận được ở đây nhiều ý tứ bổ sung thú vị. Xin chân thành cảm ơn.
Quả thật, Stephen Hawking là một người vô thần. Rất nhiều tuyên bố của ông chứng tỏ điều này, và không giống như Darwin chỉ dám nhận mình là một người “bất khả tri” (agnoticist), Hawking công khai tuyên bố “Tôi là một người vô thần” (I am an atheist)[1]. Nghĩa là ông rất tự tin về tư tưởng vô thần của mình. Ông tự tin đến mức đưa ra những tuyên bố rất phi lý về nguồn gốc vũ trụ, điển hình là một kết luận “bất hủ” trong cuốn Grand Design, tác phẩm cuối cùng trong đời ông:
Vì có một định luật như định luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ hư không” (Because there is a law such as gravity, the universe can and will create itself from nothing)[2].
Câu nói này để lộ chỗ yếu quá rõ ràng của “scientism” (chủ nghĩa duy khoa học), đến nỗi một số môn đệ của chủ nghĩa này đã phải lên tiếng khuyên mọi người nên đọc câu nói này của Hawking trong toàn bộ ngữ cảnh của nó.
Nhưng liệu có thể có một “ngữ cảnh” nào, một lý luận nào có thể dẫn tới một kết luận phản lại những nguyên lý cơ bản của khoa học, chẳng hạn Định luật bảo toàn vật chất và năng lượng?
Một cách logic, nếu một vũ trụ đầy ắp vật chất có thể sinh ra từ hư không thì suy ra Định luật bảo toàn vật chất và năng lượng SAI. Nhưng định luật này KHÔNG THỂ SAI, suy ra Hawking sai, bất kể lập luận của ông “cao siêu” đến thế nào. Thậm chí, từ kết luận của Hawking, có thể thấy đây là một trong những dấu hiệu chứng tỏ khoa học dựa trên nền tảng logic vật chất thuần túy đang đi đến chỗ tự nó mâu thuẫn với nó, đúng như chính Hawking đã nhận định trong bài báo “Gödel and the End of Physics” (Gödel và sự kết thúc của vật lý), rằng “các lý thuyết (vật lý) chúng ta có đến nay vừa không đầy đủ, vừa không nhất quán” (The theories we have so far, are ~both inconsistent, and incomplete)[3].
Đó là chỗ yếu về triết học của chủ nghĩa duy vật mà Louis Pasteur đã dự đoán từ thế kỷ 19:
“Một ngày nào đó hậu thế sẽ cười vào sự ngớ ngẩn dại dột của các nhà triết học duy vật hiện đại. Càng nghiên cứu tự nhiên tôi càng kinh ngạc trước công trình của Đấng Sáng tạo…” (Posterity will one day laugh at the foolishness of modern materialistic philosophers. The more I study nature, the more I stand amazed at the work of the Creator. I pray while I am engaged at my work in the laboratory)[4].
Bây giờ hãy xem công chúng nghĩ gì về kết luận của Hawking:
Thảo luận trên trang “Physics”[5]
Độc giả Nawaz bình luận: “Đó không phải là logic luẩn quẩn ư? Làm thế nào mà lực hấp dẫn tồn tại nếu không có vũ trụ? Và nếu không có lực hấp dẫn thì làm thế nào để nó có thể là lý do sáng tạo ra vũ trụ? Cũng vậy, nếu vũ trụ không tồn tại, làm thế nào để nó có thể tự tạo ra nó? Đối với tôi, câu nói đó thật vô nghĩa. Điều đó dường như quá vô lý và phi logic đến nỗi tôi chưa bao giờ nghe thấy những câu như thế ngay cả trong triết học. Dựa trên nền tảng nào mà Stephen Hawking tuyên bố như thế?”.
Một độc giả khác có nickname là “twistor” cho biết trong một công trình mang tên “Wave Function of the Universe” (Hàm sóng của vũ trụ), Hawking đã từng nhận định:
“Không giống như sự sáng tạo ra cặp hố đen, người ta không thể nói rằng vũ trụ de Sitter được sáng tạo ra bởi năng lượng trường trong một không gian có trước. Đúng ra, nó thực sự được sáng tạo theo nghĩa đen từ hư không: không phải từ chân không (vacuum), mà từ hư không tuyệt đối chẳng có gì cả, bởi vì chẳng có cái gì bên ngoài vũ trụ” (Unlike the black hole pair creation, one couldn’t say that the de Sitter universe was created out of field energy in a preexisting space. Instead, it would quite literally be created out of nothing: not just out of the vacuum, but out of absolutely nothing at all, because there is nothing outside the universe).
Chú ý rằng những lập luận khoa học nói trên chỉ là những suy diễn thuần túy duy lý của Hawking chứ không phải một thực tế đã được kiểm chứng. Nói cách khác, lý luận của Hawking dù “logic” đến mấy cũng không phải là chân lý. Chỉ có những người mắc bệnh tôn sùng Hawking mới cả tin vào những lập luận đó. Thực tế là đa số công chúng không tin vào kết luận của Hawking, như ta sẽ thấy sau đây.
Thăm dò của tờ The Guardian
Ngày 02/09/2010, tờ The Guardian của Anh tiến hành một cuộc thăm dò dư luận độc giả với câu hỏi: “Is Hawking right?” (Hawking có đúng không?). Câu hỏi này được đính kèm theo bài báo nhan đề “Stephen Hawking nói vũ trụ không do Chúa tạo ra”[6], trong đó nêu rõ sự thay đổi lập trường của Hawking trong vấn đề nguồn gốc vũ trụ ─ năm 1988 khi ra mắt cuốn “Lược sử Thời gian”, Hawking thừa nhận vai trò của Đấng Sáng tạo nhưng 22 năm sau, khi ra mắt cuốn “Thiết kế lớn”, ông phủ nhận vai trò đó.
Nếu lập luận khoa học của Hawking thuyết phục thì chắc chắn không cần phải thăm dò dư luận. Thực tế, nhiều trang mạng đã đăng tải những thắc mắc, nghi ngờ, phản đối kết luận của Hawking. Tờ The Guardian cũng làm điều đó thông qua việc thăm dò ý kiến độc giả. Câu hỏi chi tiết như sau:
“Hawking nói Chúa không cần thiết. Trong một cuốn sách mới, nhà vật lý nổi tiếng thế giới Stephen Hawking đã thay đổi lập trường của ông trước đây ─ lập trường chấp nhận một đấng sáng tạo thần thánh ─ để lập luận rằng vũ trụ là công trình vật lý chứ không phải do Chúa tạo ra. Bạn có đồng ý (với Hawking) không?”
Kết quả: 37% đồng ý, 63% phản đối. Ý kiến phản đối được tóm tắt trong một câu hóm hỉnh, rằng “Chúa phán: Hawking không cần thiết”.
Vấn đề đặt ra là tại sao Hawking lại thay đổi quan điểm? Tại sao một người giỏi khoa học như ông lại có thể nêu lên một ý kiến phản lại định luật bảo toàn vật chất và năng lượng? Khó có thể trả lời rốt ráo vấn đề này nếu không có kiến thức về lịch sử khoa học và đặc biệt, nếu không biết gì về Định lý Gödel, bởi lẽ vấn đề nguồn gốc vũ trụ mà Hawking đụng đến thực ra là vấn đề của triết học, và do đó không thể không vận dụng Định lý Gödel để tìm câu trả lời. Hawking đã thấm nhuần Định lý Gödel để thay đổi quan điểm về TOE (Theory of Everything), tức Lý thuyết về mọi thứ, nhưng ông thấm nhuần chưa đủ sâu sắc để áp dụng vào vấn đề nguồn gốc vũ trụ.
Trên thực tế tất cả các câu hỏi về nguồn gốc đều dẫn khoa học duy lý tới bế tắc. Cụ thể là những câu hỏi lớn sau đây:
  • Nguồn gốc vũ trụ?
  • Nguồn gốc sự sống?
  • Nguồn gốc loài người?
Lý thuyết Big Bang không trả lời được nguồn gốc vũ trụ. Nó bị dừng lại ở thời điểm 10^(-43) giây kể từ Big Bang. Đó là “bức tưởng Planck”, khoa học không biết gì và không thể biết gì về vũ trụ bên kia bức tường Planck.
Lý thuyết nguồn gốc sự sống và nguồn gốc loài người của học thuyết Darwin hoàn toàn là những giả thuyết tưởng tượng, bịa đặt, không hề có thực tế để kiểm chứng, và không bao giờ có thể kiểm chứng. Thậm chí các giả thuyết này đã và đang bị khai tử bởi mã DNA ─ học thuyết Darwin tuyệt đối bất lực trong việc trả lời nguồn gốc của thông tin hướng dẫn sự sống.
Tại sao những câu hỏi về nguồn gốc không thể trả lời được bằng khoa học?
Bởi vì vấn đề nguồn gốc thuộc về nguyên nhân đầu tiên, tức hệ tiên đề của một hệ logic. Định lý Gödel đã chứng minh rằng không có một hệ logic nào có thể tự chứng minh tính nhất quán (phi mâu thuẫn) của hệ tiên đề của nó. Nói một cách nôm na dễ hiểu, A không thể tự chứng minh A đúng. Muốn chứng minh A, phải đi ra ngoài A ─ bổ sung những tiên đề mới nằm bên ngoài A vào hệ tiên đề của A. Nhưng lập tức hệ tiên đề mới lại không thể tự chứng minh nó đúng. Quy trình này lặp đi lặp lại đến vô tận, có nghĩa là KHÔNG BAO GIỜ một hệ logic có thể tự chứng minh hệ tiên đề của nó là đúng. Người ta chỉ có thể đặt NIỀM TIN vào hệ tiên đề, và niềm tin đó dựa trên TRỰC GIÁC.
Đó là bài học vĩ đại của Định lý Bất toàn của Kurt Gödel!
Stephen Hawking đã thấm nhuần Định Gödel đến mức thay đổi quan điểm gần như 180 độ trong nhận định về tương lai của TOE (Lý thuyết về mọi thứ), nhưng chưa đủ sâu sắc để thấy rằng Định lý Gödel đồng thời bác bỏ khả năng giải thích được nguồn gốc của vũ trụ.
Thật vậy, chính Hawking đã nói trong bài “Gödel và sự kết thúc của vật lý”[7] của ông rằng:
“Nhưng chúng ta không phải là thiên thần nhìn vũ trụ từ bên ngoài. Thay vào đó, cả chúng ta lẫn các mô hình của chúng ta đều là một bộ phận của vũ trụ mà chúng ta đang mô tả. Như vậy, một lý thuyết vật lý là một hệ tự quy chiếu, như trong định lý của Gödel. Do đó người ta có thể cho rằng lý thuyết ấy hoặc không nhất quán hoặc không đầy đủ. Cho đến nay, các lý thuyết hiện có vừa không nhất quán vừa không đầy đủ”.
Đó là một ý kiến xuất sắc, thể hiện sự thấm nhuần Định lý Gödel. Từ ý kiến đó, có thể khẳng định rằng các lý thuyết về vũ trụ đều bất toàn, và do đó không bao giờ có thể giải thích được nguồn gốc của vũ trụ. Vì thế, khi Hawking cố né tránh Đấng Sáng tạo để giải thích nguồn gốc vũ trụ, ông đã đi đến một kết luận đầy khiên cưỡng, trái với Định luật bảo toàn vật chất và năng lượng. Đó là một kết luận hết sức vô nghĩa, phản lại khoa học, phản lại cái tư duy duy lý mà ông tôn thờ!
Nghịch lý thay, một nhà khoa học lỗi lạc như Hawking lại phạm phải những lỗi sơ đẳng về khoa học. Nguồn gốc sâu xa của lỗi lầm này có lẽ là vì ông quá tự phụ, quá hăng hái với cái khoa học duy lý của ông. Ông thấm nhuần Định lý Gödel chưa đủ để thấy rằng khoa học có giới hạn ─ nên biết dừng lại trước những câu hỏi về nguồn gốc.
Thực ra trong trường hợp tìm câu trả lời cho vấn đề nguồn gốc vũ trụ, một người thông minh nên nghĩ đến nguyên lý “dao cạo Occam” (Occam’s Razor). Nguyên lý này nói rằng trong trường hợp phải đối mặt với những câu hỏi không có câu trả lời buộc ta phải đưa ra các giả thuyết thì nên lựa chọn giả thuyết nào đơn giản nhất.
Trước câu hỏi nguồn gốc vũ trụ, có 2 giả thuyết:
  • Giả thuyết 1: Vũ trụ sinh ra từ hư không.
  • Giả thuyết 2: Chúa sáng tạo ra vũ trụ.
Vì khăng khăng không muốn tin vào Chúa nên Stephen Hawking đã chọn Giả thuyết 1, trong khi những nhà khoa học giỏi nhất mọi thời đại như Louis Pasteur, Albert Einstein, Kurt Gödel,… đều tin vào Giả thuyết 2.
Nếu thực sự thấm nhuần Định lý Gödel, Hawking phải thấm nhuần câu nói giản dị của Gödel sau đây: “To explain everything is impossible” (Giải thích mọi điều là bất khả). Hawking quên điều đó nên đã cố giải thích chuyện tầy trời, rằng vũ trụ sinh ra từ hư không!
Cái khăng khăng không muốn tin vào Chúa của Hawking rất giống cái khăng khăng không muốn tin vào Chúa của George Wald, một nhà sinh học đoạt Giải Nobel năm 1967. Đây, hãy nghe George Wald giải thích lý do vì sao ông chọn thuyết tiến hóa để giải thích nguồn gốc sự sống, thay vì chọn Đấng Sáng tạo:
“Chỉ có hai cách giải thích có thể có về việc sự sống hình thành như thế nào: Sự sống hình thành tự phát hoặc một tác động sáng tạo siêu nhiên của Chúa… Không có một khả năng nào khác. Lý thuyết sự sống tự phát đã bị Louis Pasteur bác bỏ bằng khoa học từ 120 năm trước, và điều đó để lại cho chúng ta chỉ một khả năng còn lại… rằng sự sống ra đời do một tác động sáng tạo siêu nhiên của Chúa, nhưng tôi không thể chấp nhận triết học đó vì tôi không muốn tin vào Chúa. Do đó tôi chọn niềm tin vào cái mà tôi biết là bất khả thi về mặt khoa học, đó là sự sống hình thành tự phát dẫn tới tiến hóa” (There are only two possible explanations as to how life arose: Spontaneous generation arising to evolution or a supernatural creative act of God…. There is no other possibility. Spontaneous generation was scientifically disproved 120 years ago by Louis Pasteur and others, but that just leaves us with only one other possibility… that life came as a supernatural act of creation by God, but I can’t accept that philosophy because I do not want to believe in God. Therefore I choose to believe in that which I know is scientifically impossible, spontaneous generation leading to evolution)[8].
Xin nhắc lại để nhấn mạnh, rằng George Wald biết rõ lý thuyết sự sống hình thành tự phát là SAI về mặt khóa học, đã bị khoa học bác bỏ, nhưng vì ông không muốn tìn vào Chúa nên ông vẫn chọn cái SAI đó để TIN (!).
Câu nói “bất hủ” nói trên của George Wald có thể tìm thấy ở rất nhiều tài liệu. Ngoài chú thích trong bài này, tôi có thể cung cấp nhiều nguồn dẫn khác.
Điều đáng để chúng ta suy ngẫm là tính chất phi khoa học ở câu nói đó. Vô tình George Wald đã thú nhận rằng thuyết tiến hóa không phải là một khoa học, mà chỉ là một hệ tư tưởng (ideology). Có lẽ chính các nhà tiến hóa cũng không ngờ một lãnh tụ của thuyết tiến hóa có thể thú nhận như vậy. Thử hỏi còn gì là khoa học ở đó nữa?
Bây giờ hãy trở lại với Hawking. Phải công bằng mà nói rằng Hawking dù sao vẫn còn sáng suốt hơn nhiều nhà khoa học vô thần khác. Điều ấn tượng nhất ở ông là ở chỗ ông dám thừa nhận sai lầm của bản thân, khi ông nhận thấy mình sai lầm. Chẳng hạn:
Ông nhận mình đã SAI trong cuộc tranh luận với Leonard Susskind. Độc giả muốn tìm hiểu cuộc tranh luận này, xin đọc cuốn “Cuộc chiến lỗ đen” của Leonard Susskind, mới được xuất bản bằng tiếng Việt gần đây.
Kết quả cuộc tranh luận này dẫn tới một kết luận vô cùng quan trọng:
Thông tin độc lập với vật chất!
Đó là điều trước đó Hawking chưa nhận thấy. Sự thừa nhận của Hawking rất có lợi cho khoa học, bởi nó giúp cho mọi người hiểu và tin rằng thông tin là một hiện thực độc lập với vật chất. Điều này giáng một đòn chết người vào chủ nghĩa duy vật, vì nó khẳng định rằng vũ trụ không phải chỉ có vật chất, mà còn có những hiện thực phi vật chất, đó là thông tin!
Hawking cũng là người khảng khái nên mới chịu tiếp thu Định lý Gödel để điều chỉnh lại cách nhìn về tương lai của Lý thuyết về mọi thứ, như đã nói ở phần trên.
Thêm nữa, Hawking là người luôn luôn lo lắng cho số phận của nhân loại, trước những nguy cơ hủy diệt nhân loại do chính con người gây ra. Ông từng lên tiếng cảnh báo nhiều lần về nguy cơ hủy hoại môi trường, nguy cơ của robots và những thứ vũ khí hủy diệt do con người chế tạo. Ông từng cảnh báo Trái Đất chỉ còn có thể sống trong vòng vài trăm năm nữa,… Những cảnh báo của ông mang đầy ý nghĩa nhân bản.
Giá như ông có những cảm xúc tâm linh như Louis Pasteur thì có thể ông sẽ còn đóng góp cho nhân loại nhiều hơn. Đây, hãy nghe Pasteur nói:
“Sau cái chết, sự sống tái xuất hiện dưới một dạng khác và với những định luật khác. Nó sẽ tuân thủ những định luật của sự sống trường cửu trên bề mặt Trái Đất và mọi thứ như cây cối và động vật sẽ bị phân hủy và biến đổi thành khí gas, chất bay hơi và chất khoáng”[9].
Ý của Pasteur nói rằng sau cái chết thì thể xác sẽ tan rữa, trở về với cát bụi, nhưng linh hồn không chết, mà bước sang một thế giới mới, với những định luật hoàn toàn mới. Điều đó rất dễ hiểu đối với những người có đức tin, nhưng với Stephen Hawking, George Wald,… thì khó hiểu.
Thực ra người ta khác nhau và hơn kém nhau ở TRỰC GIÁC.
Nhờ trực giác âm nhạc, có người trở thành thần đồng âm nhạc, có người “điếc nhạc”. Trực giác toán học cũng tương tự,… Và cuối cùng, trực giác tâm linh cũng quyết định làm cho người ta trở thành một con người tâm linh hoặc con người vô thần. Những người không có trực giác tâm linh không thể hiểu và không thể tin vào các sự kiện tâm linh. Ngược lại, những người có trực giác này thì thấy đó là điều tự nhiên như ta ăn, uống và hít thở vậy. Những người như Hawking mắc bệnh tự phụ tự cho mình là khôn ngoan, nhưng thực ra là dại dột, bởi vì đã tự tước bỏ một món quà quý giá mà Đấng Sáng tạo ban cho con người.
Nếu Hawking hiểu điều Pasteur nói, chắc chắn ông sẽ không cố ý né tránh Đấng Sáng tạo để phát biểu những ý kiến vô lý và phản khoa học như chúng ta đã thấy. Và có lẽ ông sẽ không tự phụ nhận mình là người vô thần!
KẾT
Tôi nhận được tin Hawking từ giã thế giới đúng vào lúc tôi đang tham quan chiêm ngưỡng tháp “Thiên Ngọc Kết” ở Tứ Kỳ, Hải Dương. Đây là một tháp tâm linh đặc biệt, hình chóp cụt 7 cạnh, gồm 7 tẩng, cao tổng cộng 32m. Tác giả của tháp này là một chuyên gia nổi tiếng về công nghệ thông tin, tiến sĩ Quách Tuấn Ngọc. Tôi và anh gặp nhau tại Hội thảo “Tác động của Định lý Gödel đối với triết học về nhận thức”, diễn ra tại Khoa Triết, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, thuộc Đại học Quốc gia Hà-nội, hồi tháng 10/2017. Câu chuyện giữa chúng tôi trước hết đồng điệu về mặt khoa học nhận thức. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên thích thú là “cuộc cách mạng về tâm linh” diễn ra ở anh. Đó là một câu chuyện dài,  không thể kể hết ở đây được, nhưng đó là lý do để tôi tới thăm chiếc tháp có một không hai này. Lúc nhận được tin về Hawking, tôi chợt nghĩ: Hay thật, ở đời có những chuyển động trái chiều ─ một người tài giỏi như Hawking đã không may mắn khi từ bỏ đức tin vào Đấng Sáng tạo để trở thành một người vô thần 100%; trong khi đó, bạn tôi, anh Quách Tuấn Ngọc, từ một người hoàn toàn vô thần (như anh tâm sự với tôi), anh đã nhận được những tín hiệu lạ lùng từ những thế giới khác trên cao để ngộ ra rằng thế giới này không chỉ có vật chất. Tôi khong thể nói thêm về bạn tôi, vì e rằng sẽ lạc đề, nhưng xin dùng chuyện đó thay cho lời kết:
Sự tự phụ làm cho Hawking tự tước bỏ một nhận thức quý giá ─ đức tin vào Đấng Sáng tạo! Sự khiêm tốn sẽ mở rộng tâm mắt của chúng ta về thế giới, bởi nhận thức được bổ sung những tri thức vượt ra khỏi không gian chật hẹp của tư duy vật chất, thông qua những kênh thông tin mà khoa học vật chất không thể có được. Đó là sự vận dụng nguyên lý bổ sung, như một hệ quả triết học của Định lý Godel ─ không có một lý thuyết nào là hoàn hảo, vì thế bức tranh về thế giới chỉ có thể được mô tả đầy đủ hơn, phong phú hơn bằng cách bằng cách kết hợp nhiều phương pháp nhận thức, nhằm bổ sung cho nhau.

PVHg 16/03/2018

[7] Gödel & The End of Physics, bản dịch của Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc, Tháng 04/2012 https://viethungpham.com/2012/03/27/toan-van-bai-gi%E1%BA%A3ng-c%E1%BB%A7a-stephen-hawking-godel-s%E1%BB%B1-k%E1%BA%BFt-thuc-c%E1%BB%A7a-v%E1%BA%ADt-ly/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét