Trang

Thứ Năm, 17 tháng 1, 2019

Lại chuyện đạo văn?



Viên Như

Báo Đại Đoàn Kết – Cơ quan Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đã từng đăng nhiều bài của tôi như số 206 (6-2008) bài Giải oan cho một Thiền sư – Hiểu bài bài thơ “Xuân nhật tức sự” thế nào cho đúng; Số 215 (3-2009) bài Thử phác thảo một hế thống chữ viết cho người Việt; Số 221 (9-2009) bài Bài thơVịnh nga” khẳng định đường lối ngoại giao trong thời kỳ đầu tự chủ của nước ta; Số 229 (5-2010) bài Những lời khuyên của thiền sư Pháp Thuận...

Gần đây tình cờ đọc bài “Chính sách nội trị & ngoại giao của nhà Tiền Lê qua thi pháp của Thiền sư Đỗ̉ Pháp Thuận” của Lê Cung, PGS.TS.Trường Đại học Sư phạm Huế, tham luận hội thảo “Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long”  do Học viện  Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh tổ chức ngày 26 tháng 8 năm 2010. (Đọc ở đây). 

Nhận thấy một số nội dung của bài này quá giống với bài “Bài thơ Vịnh nga” khẳng định đường lối ngoại giao trong thời kỳ đầu tự chủ của nước ta có thể đọc ở đây.
Để thấy cái nội dung giống nhau như thế nào, xin trích đăng một số đoạn trong bài viết của hai tác giả để so sánh.
           
           Viên Như:
Năm (987), nhà Tống lại sai Lý Giác sang . Khi đến chùa Sách Giang,Vua sai Pháp sư tên là Thuận giả làm người coi sông ra đón. Giác rất thích nói chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước. Giác vui ngâm rằng :
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.

Ngỗng ngỗng cả bầy ngỗng
Ngửa mặt  hướng vách  trời.

Pháp sư đương cầm chèo theo vần làm nối đưa cho Giác xem:

Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.

Lông trắng phơi dòng biếc
Chân hồng rẽ sóng khơi.
Lê Cung:
 “Trên mặt trận ngoại giao, đóng góp của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận cũng hết sức nổi bật. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Năm Đinh Hợi Thiên Phúc thứ 8 (987) mùa Xuân,... nhà Tống lại sai Lý Giác đến. Tới chùa Sông Sách, vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm giang lệnh đi đón. Giác rất giỏi văn chương. Bấy giờ, gặp lúc có hai con ngỗng bơi trên mặt nước, Giác vui ngâm:
Ngỗng ngỗng cả bầy ngỗng
Ngửa mặt ngó ven trời.
Nguyên văn:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
Pháp Thuận đang cầm chèo liền nối vần ngay:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân trời hồng.
Nguyên văn:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.”
Viên Như:
Tuy nhiên, như ta biết ngôn ngữ thi ca là ngôn ngữ ước lệ, Lý Giác đâu mất công mà đếm có bao nhiêu con ngỗng dưới sông kia. Nó có thể là 5 con, 6 con mà có khi còn hơn nữa, con số mà trong tiếng Việt ta gọi là "bầy" và đây chính là ý của câu một. Ta tạm dịch câu này là " Ngỗng, ngỗng cả bầy ngỗng".
Ngưỡng diện hướng thiên nhai,
Ngưỡng mặt hướng vách trời,
Sáu con ngỗng đang bơi với tư thế ngưỡng mặt hướng về phía chân trời. Trong câu này Lý Giác dùng từ "thiên nhai" có nghĩa là chân trời cao xa vời vợi. Sao ở chổ sông nước kia lũ ngỗng lại ngưỡng mặt hướng về chân trời cao xa vời vợi thế. Hơn ai hết Pháp Thuận  là người trong cuộc, ông biết rằng "thiên nhai" ở đây chẳng qua Lý Giác muốn chỉ cho thiên triều nhà Tống đấy thôi. Như vậy ta thấy hai câu này đã nói lên sự ngạo mạn, trịch thượng của một sứ thần phương bắc. Ông đã ví vua quan và nhân dân nước Việt như là bầy ngỗng đang ngưỡng mặt hướng về thiên triều thần phục. Đây là thái độ phổ biến của sứ thần phương Bắc chứ chẳng riêng gì Lý Giác; tuy nhiên ở đây Lý Giác lại dùng thơ để nói, vừa thách thức Pháp Thuận về mặt kiến thức, vừa hạ thấp đối phương một cách văn vẽ, quả thật đúng là ngôn ngữ ngoại giao, hết sức nhẹ nhàng nhưng chứa đầy giông bão.

Lê Cung:
“Thực ra, đây là một lối chơi chữ mang tính kiêu ngạo của sứ thần Lý Giác, mà không chỉ riêng Lý Giác, đây là thái độ phổ biến của sứ thần phương Bắc. Ý Lý Giác xem vua và dân Đại Cồ Việt như là bầy ngỗng đang ngẩng mặt hướng về thiên triều thần phục. Ngôn ngữ ngoại giao mà Lý Giác sử dụng, thoạt nhìn thật là nhẹ nhàng, bay bổng; song nhìn kỹ quả thực là một sự nhục mạ, một thách thức lớn lao đặt ra với Đỗ Pháp Thuận”.
           
           Viên Như:
“Là một công dân nước Việt, được giao phó trọng trách tiếp sứ thần lân bang, dĩ nhiên Pháp Thuận hiểu ngay những câu thơ cao ngạo ấy của Lý Giác. Tuy nhiên trong tinh thần trách nhiệm của một công dân, hơn nữa lại là một thiền sư, ông đã bình thản trả lời Lý Giác bằng hai câu thơ, hai câu này không những để đối trọng lại thái độ ngông nghênh mà Lý Giác đã nói trước đó, mà còn làm cho bài thơ hoàn chỉnh, rất hay.
Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba.
Lông trắng phơi dòng biếc,
Chân hồng rẽ sóng khơi.
"Bạch mao" là lông trắng, là biểu tượng cho sự công khai, ngày nay chúng ta vẫn thường dùng các từ như: bạch hóa, minh bạch, hay sách trắng, đó là nhiệm vụ của bộ ngoại giao là nơi công khai những chính sách của chính phủ. Rõ ràng trong câu này Pháp Thuận đã sử dụng từ bạch rất chuẩn. "Phô" là khoe ra, phô bày, làm cho ai cũng thấy, như vậy ta thấy từ phô này hoàn toàn tương hợp với từ đi trước nó là bạch. "Lục thủy" là chỗ rộng rãi, bằng phẳng (bình đẳng)hay chỗ công cộng, quốc tế. Như thế câu này nghĩa bóng của nó là: Về phương diện ngoại giao, một cách minh bạch và bình đẳng, nước ta  công khai tính độc lập đó để các nước lân bang công nhận.
Tuy nhiên, việc yêu cầu nước khác công nhận nền độc lập không có nghĩa là chúng ta trở thành thuộc địa, hay lệ thuộc vào một nước khác, trong bài này cụ thể là nước Tống. Ở câu bốn Pháp Thuận đã minh định lập trường đó. "Hồng trạo" có nghĩa là mái chèo màu hồng, ở đây nghĩa đen là chân hồng, nghĩa bóng là nội lực tràn đầy, màu hồng là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ tràn đầy như: tuổi hồng, hồng quân, máu hồng, trạo là mái chèo, ở đây là cơ chế nội lực, "bãi" là hai tay khoát ra, ở đây là rẽ, "thanh ba" là sóng xanh. Câu này có nghĩa là nếu như ai đó gây ra sóng gió thì ta có nội lực để rẽ sóng mà tiến lên.  Lời lẽ của Lý Giác đưa ra trong bài thơ là cố ý hạ thấp nước Việt, xem vua quan và nhân dân nước Việt như những kẻ hoàn toàn lệ thuộc vào triều Tống, với tư cách là những thần dân. Đây là một thái độ ngông nghênh của một kẻ đại diện cho cái gọi là Thiên triều. Trước thái độ trịch thượng đó, Pháp Thuận đã bình thản (như một tính chất phải có của một nhà ngoại giao) trả lời Lý Giác "Về phương diện ngoại giao thì nước tôi thông báo cho nước ông biết là nước Việt là một nước độc lập, như thế không phải là nước Việt là thuộc địa của bất cứ ai, vì nếu cần thiết thì chúng tôi có thừa nội lực để rẽ sóng mà đi tới".”

Lê Cung:
 “Với trách nhiệm một công dân, cao hơn còn là một vị thiền sư giữ trọng trách đối với vận nước Đại Cồ Việt, Đỗ Pháp Thuận hiểu hết thâm ý của sứ thần Lý Giác nhưng vẫn với thái độ ung dung tự tại, nối vần một cách hết sức sắc sảo, để từ hai câu thơ của Lý Giác trở thành một bài thơ hoàn chỉnh. Nhưng sự nối vần của Đỗ Pháp Thuận ở đây không chỉ nhìn đơn thuần về mặt thi ca mà phải được hiểu đây là một thái độ ứng xử chính trị trên phương diện ngoại giao.
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân trời hồng.
Lông trắng ở đây được hiểu là sự công khai (bạch hóa). Một sự công khai được phô bày nơi công cộng (lục thủy). Ở đây, Pháp Thuận muốn tỏ cho sứ thần Lý Giác hiểu rằng Đại Cồ Việt đã giành được độc lập và công khai sự độc lập này đối với thiên triều qua Lý Giác. Và nếu có chăng một thế lực nào đó, dù là thiên triều đi nữa, với âm mưu xâm phạm nền độc lập, nhân dân Đại Cồ Việt sẵn sàng đứng lên bảo vệ bằng chính sức mạnh của mình (hồng trạo). Hồng trạo ở đây được hiểu là mái chèo màu hồng, thuyền lướt được là nhờ mái chèo, cũng có nghĩa Đại Cồ Việt sẽ vững bước lướt qua mọi phong bao bão táp mà tiến lên bằng sức mạnh của chính mình (màu hồng tượng trưng cho sức mạnh)”.

Viên Như:
“Cần lưu ý rằng, cách đó một năm, chính Lý Giác đã sang nước ta để bảo lãnh cho hai tướng nhà Tống bị ta bắt trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng. Chắc chắn dư âm thất bại đó của quân Tống vẫn còn vang vọng trong tâm thức của ông ta, nên khi nghe Pháp Thuận đáp như vậy Lý Giác giật mình và hiểu ra rằng tại sao quân Tống thất bại (quân sự) và cả chính ông nữa cũng thất bại vào lúc này(ngoại giao). Cũng từ nhận thức nầy mà thái độ sau đó của Lý Giác dè dặt hơn, điều này đã thể hiện rõ trong bài thơ ông ta tặng Pháp Thuận sau đó. Tuy cao ngạo, nhưng ít ra ông ta cũng đã công nhận giờ đây nước Việt đã là một đất nước vững mạnh. Trong bài thơ Lý Giác tặng Pháp Thuận có câu"Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu, khê đàm ba tỉnh kiến thiềm thu. Ngoài trời có trời nên xa nghĩ, khe đầm sóng lặng thấy trăng thu".”

Lê Cung:
            “Nhưng rồi quân Tống đã bị thất bại nhục nhã. Năm 986, Lý Giác được triều Tống cử đi sứ Đại Cồ Việt, được vua Lê Đại Hành trao trả hai tên tướng là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân, bị bắt trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt năm 981. Phải chăng sự thất bại của quân Tống vẫn còn ám ảnh Lý Giác, nên khi nghe Đỗ Pháp Thuận nối vần bằng hai câu thơ, y đã phải giật mình hiểu tại sao quân Tống thất bại và ngay cả chính bản thân mình giờ đây cũng phải chuốc lấy thất bại trên mặt trận ngoại giao. Điều này giúp chúng ta nhận thức được vì sao Lý Giác đã có bài thơ chứa đựng lời lẽ đầy thán phục Đỗ Pháp Thuận và ngưỡng mộ Lê Đại Hành như đã đề cập ở trên.”
Với chừng ấy trích dẫn, ta thấy nội dung hai bài viết giống nhau là không thể bàn cãi, đây nhất định không thể là sự trùng hợp ngẩu nhiên mà là sao chép, nói đúng hơn là đạo văn. Chúng ta đang ở vào lúc mà nghề “Đạo” trở thành thời thượng, cái vỏ âm thanh “Đạo” chứa cả hai ý nghĩa. Một là con đường đem người ta đến cái Chân – Thiện – Mỹ, một lối sống đạo đức, hai là một hành động phi đạo đức, lấy cái của người khác làm của mình. Trong hai bài viết nói trên nhất định phải có một người làm cái việc phi đạo đức, đó là “ăn cắp văn” của người kia. Đặc biệt không chỉ là đạo văn mà là tư tưởng, một đứa con tinh thần mà cha mẹ nó phải thai nghén cả nhiều năm mới rứt ruột đẻ ra, chứ không phải văn ấy, tư tưởng ấy là sản phẩm mặc nhiên đi kèm theo cái học hàm, học vị nào đó. Đừng nghĩ việc làm ấy như hút thuốc lá, bao nhiêu chất liệu rồi sẽ thành mây khói, không đâu! lá có thể trở thành mây khói nhưng thuốc sẽ ở lại trong con người, trở thành một tác nhân gây đau đớn cho kẻ hưởng thụ nó sau nhiều năm, do đó việc trùng văn trùng ý này về lâu về dài nhất định sẽ có những hệ lụy.
Bài của Viên Như đăng vào tháng 9-2009, về sau lại in thành sách, cụ thể là bài thứ hai trong cuốn Giọt lòng. Còn bài của PGS. TS Lê Cung công bố vào tháng 08 -2010, có nghĩa là bài tham luận của Lê Cung viết sau cả gần một năm. 

Tôi tin rằng bài của PGS. TS Lê Cung là một bài tham luận về “Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long” để hướng về ngày Đại lễ kỷ niệm 1000 Thăng Long, một dấu mốc vô cùng quan trọng và đầy lòng tự hào của lịch sử dân tộc, không ai lại đem cái của “ăn cắp” để hiến dâng cho tiền nhân, những con người đã đem biết bao tâm huyết, giữ gìn và xây dựng đất nước cho chúng ta cảm thấy tự hào sau hơn cả một ngàn năm, vì như thế là dối cả tổ tiên, công luận và cả chính mình. Tuy nhiên điều đáng buồn vì đó là sự thật nếu PGS.TS. Lê Cung không trưng ra được bài tham luận đó đã được công bố một cách công khai, hợp pháp trước thời điểm tháng 9 – 2009, bởi vì không ai ăn cắp cái mà kẻ khác không có cả.

Đà Lạt, ngày 17 tháng 1 năm 2019

Viên Như









* Tác giả gởi bài tới chủ blog.




1 nhận xét:

  1. Bài của Viên Như: http://www.daophatngaynay.com/vn/pg-nganh/xa-hoi/pg-td/5625-1000-nam-Thang-Long-nhin-lai-Bai-tho-Vinh-nga-1-.html

    Bài của Lê Cung: https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=7FE419

    Trả lờiXóa