Tác giả: Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam
Sách: Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955 – 2015)
Trích Lời nói đầu của cuốn sách: Nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam (7.5.1955-7.5.2015), trên cơ sở cuốn Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955- 2005) được biên tập, xuất bản năm 2005, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định sửa chữa bổ sung, tu chỉnh, nâng cấp và xuất bản công trình “Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-2015)”, lấy đó làm tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống và đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, tìm hiểu, giảng dạy của các cơ quan, các nhà khoa học, của bạn đọc trong và ngoài quân chủng.
Dưới đây là phần tường thuật lại những diễn biến xung quanh Biến cố Gạc Ma năm 1988 được trích từ cuốn sách:
Trong khi Quân chủng đang cùng toàn quân xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại theo đường lối đổi mới của Đảng thì tình hình trên Biển Đông, đặc biệt là khu vực quần đảo Trường Sa có những diễn biến hết sức phức tạp. Cuối năm 1986, Trung Quốc sử dụng một tàu dưới dạng đánh cá, không số đến vùng Biển Đông trắng trợn tiến hành các hoạt động nghiên cứu trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Họ tăng số lần tàu chiến, tàu vận tải hoạt động trinh sát, thăm dò ở khu vực Trường Sa. Đặc biệt, từ ngày 24 đến 30 tháng 12 năm 1986, Trung Quốc cho máy bay, tàu chiến tiến hành các hoạt động trinh sát từ đảo Song Tử Tây đến khu vực đảo Thuyền Chài của Việt Nam.
Ngày 31 ngày 12 tháng 1986, Ma-lai-xi-a đưa lực lượng đến chiếm đóng trên bãi Kỳ Vân, uy hiếp các đảo khác gần đảo Thuyền Chài. Đầu năm 1987, Malai-xi-a đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao và liên tục đưa tàu chiến đến gần khu vực đảo Thuyền Chài. Năm 1987, Trung Quốc cho tàu Hải Dương 4 và một số tàu tiến hành trinh sát các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, cả những đảo ta đang quản lý. Họ cho đặt bia kỷ niệm ở đảo Ma-i-xi-ti, cho tàu hoạt động trong khu vực các đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa, Trường Sa Đông, Song Tử Tây, có lúc chỉ cách ta khoảng một hải lý. Đồng thời tăng cường các hoạt động trinh sát, xâm nhập, khai thác trái phép tài nguyên vào sâu vùng nội thuỷ của ta. Mai-lai-xi-a đưa lực lượng chiếm giữ thêm đảo Kiệu Ngựa ở phía Nam quần đảo Trường Sa. Phi-líp-pin cũng tăng cường lực lượng củng cố các đảo đang chiếm giữ, đưa thêm lực lượng vận chuyển xây dựng ở Song Tử Đông, Loại Ta và một số đảo khác, gây tình hình căng thẳng khu vực quần đảo Trường Sa.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương chỉ thị cho Quân chủng đưa lực lượng ra củng cố, giữ vững các đảo đang chốt giữ, tăng cường thế phòng thủ các đảo theo từng cụm, từng khu vực, bảo đảm khi có chiến sự xảy ra có thể chi viện, hỗ trợ kịp thời giữ vững đảo; đưa lực lượng đóng giữ một số bãi đá chưa có người trong khu vực quần đảo Trường Sa. Ngày 30 tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 06/NQ-TW về đấu tranh bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trước mắt là quần đảo Trường Sa. Bộ Chính trị xác định: Đây là nhiệm vụ khẩn trương, quyết liệt, lâu dài, là nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; không riêng của lực lượng vũ trang mà các cấp, các ngành, địa phương có liên quan phải đóng góp tích cực.
Quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra chỉ thị giao nhiệm vụ cho Quân chủng phải bảo vệ các đảo của ta, đặc biệt phải tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa, bao gồm cả việc củng cố, xây dựng thêm các công trình chiến đấu và bảo đảm sinh hoạt; đồng thời đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi đá chưa có người trong khu vực quần đảo. Trước mắt đóng giữ các bãi Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ; khai thác và phát huy mọi khả năng của các lực lượng vũ trang, các ngành, các địa phương để chi viện từ bờ ra đảo xa. Nếu đối phương xâm phạm đảo, hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì kiên quyết đánh trả nhưng phải tỉnh táo, tránh bị khiêu khích.
Trước đó, thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị và chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ngày 12 tháng 1 năm 1987, Đảng ủy Quân chủng đã ra Nghị quyết số 54-5A về nhiệm vụ năm 1987. Nhận định tình hình trên biển, Đảng uỷ Quân chủng nêu rõ: “Tất cả các khu vực biển tình hình căng thẳng phức tạp, vẫn diễn ra các hoạt động xâm nhập, trinh sát, tranh chấp chủ quyền tài nguyên, gây tình hình căng thẳng, có thể dẫn đến xung đột vũ trang đánh chiếm hoặc tập kích vào các đảo, căn cứ trên đất liền, nhất là quần đảo Trường Sa. Toàn Quân chủng phải đề cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, đối phó hiệu quả mọi tình huống, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, bảo vệ chủ quyền vùng biển và hải đảo của Tổ quốc”. Ngày 26 tháng 2, Bộ Tư lệnh ra Chỉ lệnh số 401/B0.1 về sẵn sàng chiến đấu và bảo đảm chiến đấu năm 1987, trong đó nêu rõ: “Tập trung mọi khả năng của Quân chủng, tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, trong đó, hoạt động chiến đấu để quản lý, bảo vệ vững chắc vùng biển, hải đảo; trọng điểm là bảo vệ an toàn cho công tác thăm dò khai thác dầu khí và các căn cứ hải quân; đối phó hiệu quả với chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch”.
Tháng 3 năm 1987, thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, Quân chủng tổ chức lực lượng đóng giữ bãi đá Thuyền Chài, xây dựng nhà cao chân, bố trí lực lượng chốt giữ bảo vệ.
Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và Biển Đông trở lên phức tạp, căng thẳng và quyết liệt do Trung Quốc sử dụng mọi biện pháp chính trị, ngoại giao, quân sự để thực hiện âm mưu thôn tính Trường Sa, độc chiếm Biển Đông. Họ sử dụng nhiều tàu cá, tàu nghiên cứu thăm dò phối hợp với tàu chiến chuẩn bị xâm chiếm một số bãi đá ngầm, thậm chí họ cho tàu cá vào lòng hồ, sát các đảo của ta để đánh cá, khảo sát, trinh sát, khiêu khích.
Trước tình hình trên, ngày 24 tháng 10 năm 1987, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh chủ trương trong 3 năm (1988-1990) tổ chức lực lượng đóng giữ 11 bãi đá (Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ, Đá Thị, Tốc Tan, Ga Ven, Đá Đông, Châu Viên, Núi Le), không để nước ngoài đóng xen kẽ. Qua nghiên cứu, Bộ Tư lệnh thấy các bãi đá phía Tây như Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Đá Lát là quan trọng, đối tượng tranh chấp là Trung Quốc; các đảo phía Đông như Tiên Nữ, Tốc Tan cần đề phòng Trung Quốc lợi dụng thời cơ chiếm thêm.
Để kịp thời đối phó với các tình huống, đêm 24 tháng 10 năm 1987, Phó Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Quân chủng ra mệnh lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cho các lực lượng thuộc quần đảo Trường Sa, tránh âm mưu khiêu khích của đối phương; đồng thời chỉ thị cho Lữ đoàn 125 chuẩn bị tàu, pông-tông sẵn sàng đưa lực lượng ra Trường Sa, chuyển các tàu của Lữ đoàn 172 vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, cơ động ra phía trước và Trung đoàn 83 công binh chuẩn bị lực lượng, phương tiện, sẵn sàng làm nhiệm vụ xây dựng đảo.
Ngay sáng hôm sau, ngày 25 tháng 10, đồng chí Tư lệnh trực tiếp báo cáo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiến nghị của Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng về kế hoạch đóng giữ bảo vệ ở quần đảo Trường Sa và đề nghị cho máy bay trinh sát nắm tình hình trên khu vực biển Trường Sa.
Mặc dù chưa nhận được chỉ thị cụ thể của trên, nhưng trước nguy cơ chủ quyền lãnh thổ bị xâm lấn, với tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh vẫn quyết định điều động lực lượng ra chốt giữ bảo vệ các đảo đã được xác định. Ngay đêm 25 tháng 10 năm 1987, Tư lệnh Quân chủng ra lệnh cho Vùng 4 gấp rút đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi đá Tiên Nữ, Đá Lớn, Đá Tây, Chữ Thập.
Ngày 28 tháng 10, tàu HQ613 do Trung úy Nguyễn Hữu Tại làm Thuyền trưởng đưa một phân đội chiến đấu thuộc Lữ đoàn 146, một trung đội công binh do đồng chí Nguyễn Trung Cang, Phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy ra đóng giữ bãi cạn Đá Tây. Do sóng to, gió lớn việc xây dựng công sự chốt gĩư rất khó khăn nên sau một thời gian, tàu HQ613 chở bộ đội về Cam Ranh.
Ngày 3 tháng 11 năm 1987, tàu HQ617 đến Đá Lớn, gặp sóng to quay về neo ở đảo Nam Yết. Ngày 7 tháng 11, tàu quay lại Đá Lớn, sóng gió mạnh làm đứt 2 neo nên cũng phải trở về Cam Ranh.
Mặc dù rất cố gắng, nhưng do thời tiết xấu, chất lượng phương tiện kỹ thuật không bảo đảm nên việc đóng giữ 2 bãi đá Chữ Thập, Tiên Nữ chưa thực hiện được.
Ngày 6 tháng 11 năm 1987, Bộ Quốc phòng thông qua kế hoạch đóng giữ các bãi cạn do Thường vụ, bộ Tư lệnh Hải quân kiến nghị và đã ra Mệnh lệnh số 1679/ML-QP về việc bảo vệ Trường Sa, gửi các quân chủng Hải quân, Không quân: “Đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi cạn chưa có người, không chờ xin chỉ thị của cấp trên, trước mắt đưa ngay lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ. Khai thác và phát huy mọi khả năng của các lực lượng vũ trang, các ngành, các địa phương để chi viện từ bờ ra đảo xa. Nếu đối phương xâm phạm đảo hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì đánh trả và luôn cảnh giác, tỉnh táo, không mắc mưu địch khiêu khích”.
Sáng 15 tháng 11, sau giao ban tại Sở chỉ huy, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh hội ý, chỉ đạo Vùng 4 khẩn trương sử dụng các tàu HQ671, HQ674, HQ617, HQ661, HQ727 ra chốt giữ ngay bãi đá Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ; chuẩn bị gấp tàu LCU đưa lên đóng giữ các bãi đá trên; sử dụng tàu chiến đấu khi cần thiết để tăng cường; yêu cầu các tàu đi làm nhiệm vụ đều phải được trang bị vũ khí để tự vệ. Đồng thời, Bộ Tư lệnh điều Hải đội 131 tàu tên lửa thuộc Lữ đoàn 172, Vùng 1 vào Vùng 3 để sẵn sàng chi viện, bảo vệ đảo; điều Tiểu đoàn 886 cùng một bộ phận xe máy Tiểu đoàn 885 thuộc Trung đoàn 83 công binh vào Cam Ranh xây dựng công trình đảo.
Vùng 4 lệnh cho các tàu HQ661, HQ727, HQ674 chở quân đi khảo sát, đóng giữ các bãi đá Chữ Thập, Tiên Nữ. HQ613 chở bộ đội từ đảo Trường Sa Đông trở lại Đá Tây nhưng do ảnh hưởng cơn bão số 6, kế hoạch đóng giữ vẫn chưa được thực hiện.
Ngày 28 tháng 12 năm 1987, tàu HQ604 thuộc Lữ đoàn 125 đưa bộ đội cùng vật liệu đến xây nhà cấp 3 ở Đá Tây. Sau một thời gian lao động khẩn trương, ngày 15 tháng 1 năm 1988, cán bộ, chiến sĩ đã hoàn thành nhà ở, nhà trực, tổ chức canh gác, bảo vệ đảo Đá Tây.
Cùng thời gian này, Quân chủng tăng cường lực lượng xây dựng thế trận phòng thủ trên các đảo và vùng biển phía Nam; tăng cường thêm phương tiện cho Vùng 4 bảo vệ vị trí neo đậu tàu thuyền tại khu vực giàn khoan, thường xuyên duy trì 2 tàu trực xua đuổi tàu lạ, bảo vệ an toàn cho thăm dò khai thác dầu khí. Thực hiện kế hoạch hiệp đồng trong hoạt động bảo vệ biển, đảo ở khu vực phía Nam của Bộ Tổng Tham mưu, Sở chỉ huy Quân chủng đã hiệp đồng với Quân chủng Không quân tổ chức nhiều chuyến bay biển quan sát, nắm tình hình. Quân chủng còn hiệp đồng với Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo, Quân khu 7 xây dựng và thực hiện kế hoạch bảo vệ khai thác dầu khí. Hoạt động tuần tiễu ở khu vực giàn khoan lúc cao nhất có 6 tàu của Lữ đoàn 171 và Hải đoàn 129. Một số tàu đánh cá đến hoạt động trái phép, tàu lạ xuất hiện đã bị ta ngăn chặn, xua đuổi.
Theo dõi chặt chẽ âm mưu, diễn biến trên biển, ngày 9 tháng 1 năm 1988, Đảng uỷ Quân chủng họp nhận định: “Đối phương sẽ tiến hành các hoạt động quân sự tranh chấp chủ quyền hải đảo, chiếm một số bãi san hô nổi hoặc chìm xen kẽ với các đảo của ta. Phi-líp-pin có thể tranh chấp thêm các đảo kể cả khi có xung đột với Trung Quốc. Ma-lai-xi-a có thể chiếm đóng một số bãi đá ngầm. Cuộc tranh chấp các bãi đá đang trở thành nguy cơ trực tiếp đe doạ Việt Nam và các nước trong khu vực. Ở Vịnh Bắc Bộ, đối phương có thể triển khai thêm khu vực khai thác dầu khí, sử dụng không quân và hải quân bảo vệ, gây tình hình căng thẳng. Ở vịnh Thái Lan, hải quân Mỹ thường xuyên qua lại có thể hỗ trợ cho hải quân Thái Lan mở rộng hoạt động, gây mất ổn định, uy hiếp chủ quyền vùng biển, hải đảo của ta ở phía Nam”. Đảng uỷ Quân chủng đề ra chủ trương: “Tranh thủ thời gian, triệt để triển khai lực lượng đóng giữ trên các đảo. Không để đối phương thực hiện ý đồ đóng xen kẽ với ta. Kiên quyết hoàn thành việc đóng giữ các đảo trong 3 năm (1988-1990). Trong năm 1988, triển khai lực lượng đóng giữ phải hết sức bí mật, đóng đảo nào, bảo đảm phòng thủ tốt trên đảo đó. Đồng thời, tăng cường số lần hoạt động tuần tiễu, bảo vệ vịnh Bắc Bộ, vùng biển Tây Nam.
Bảo vệ vùng biển, hải đảo trong Biển Đông trở thành vấn đề chiến lược của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó hải quân là lực lượng nòng cốt. Đảng uỷ Quân chủng xác định: “Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhất, khẩn trương nhất và cũng là vinh dự của Quân chủng”.
Thực hiện nghị quyết của Đảng uỷ Quân chủng, Bộ Tư lệnh lệnh cho lực lượng tàu, bộ đội công binh và cơ quan Quân chủng chuyển vào Cam Ranh, sẵn sàng đưa bộ đội ra đóng giữ đảo, yêu cầu chấp hành nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh của trên, sáng tạo, bình tĩnh, dũng cảm và kiên quyết phối hợp với các lực lượng khác đấu tranh cả về chính trị, ngoại giao, quân sự, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không để chiến tranh lan rộng ra khắp quần đảo. Bộ Tham mưu, các cục Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật và các đơn vị làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Chỉ đạo và thực hiện tốt việc di chuyển cơ quan, Sở chỉ huy Quân chủng, củng cố nền nếp bộ phận còn lại ở phía Bắc (Sở chỉ huy hậu phương ở Hải Phòng). Triển khai tăng cường thông tin liên lạc ở Cam Ranh, Thành phố Hồ Chí Minh, quần đảo Trường Sa, chú trọng mạng thông tin hiệp đồng quân, binh chủng. Bảo đảm hàng hải, thả phao tiêu đánh dấu luồng lạch ở quần đảo Trường Sa. Chỉ đạo công tác vật tư, tài chính, công binh bảo đảm hoàn thành kế hoạch xây dựng công trình, công sự chiến đấu, thiết bị chiến trường ở quần đảo Trường Sa. Chỉ đạo công tác tuyển quân, nắm chắc số lượng, chất lượng phương tiện chiến đấu, đề xuất đóng mới phương tiện và bảo đảm quân số cho lực lượng tàu chiến đấu, lực lượng đóng quân trên đảo. Chỉ đạo tăng cường công tác nắm địch, tăng thêm phương tiện, lực lượng nắm địch. Chỉ đạo huấn luyện chiến đấu.
Ngày 22 tháng 1 năm 1988, Trung Quốc đưa tàu hộ vệ tên lửa 156, tuần tiễu 9332, tàu dầu 941, tàu đổ bộ 932 và một số tàu khác thuộc hạm đội Nam Hải đến chiếm đóng đá Chữ Thập. Tiếp đó, Trung Quốc đưa một lực lượng lớn gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu khu trục tên lửa, 4 tàu bảo đảm hoạt động xung quanh đảo, khống chế không cho tàu thuyền các nước qua lại. Họ còn tổ chức ba cụm tuyến hoạt động gồm: Cụm phía sau lấy Hoàng Sa làm căn cứ thường xuyên có tàu hộ vệ pháo, hộ vệ tên lửa, khu trục tên lửa, tuần dương và tàu hộ tống nhằm ngăn cản, uy hiếp tàu hải quân ta hoạt động ở vịnh Bắc Bộ, gây khó khăn cho ta triển khai hoạt động bảo vệ vùng biển phía Nam. Cụm ngăn chặn lực lượng hải quân ta ở Đông bán đảo Cam Ranh, Cù Lao Thu. Cụm Chữ Thập âm mưu khống chế ta ở khu vực Trường Sa, nếu có thời cơ họ sẽ phát triển lực lượng xuống khu vực phía Nam.
Thực hiện mệnh lệnh, ngày 23 tháng 1 năm 1988, tàu HQ613 Vùng 4 chở lực lượng, vật liệu ra bãi đá Tiên Nữ do Trung tá Võ Tiến Cai, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 chỉ huy. Sau hai ngày vật lộn với sóng to, gió lớn, tàu đến Tiên Nữ. Bộ đội khẩn trương triển khai xây dựng nhà cao chân (cấp 3) trên bãi đá. Đến ngày 6 tháng 2 năm 1988 ta đã hoàn thành nhà cấp 3 và triển khai phương án sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đảo.
Ngày 27 tháng 1 năm 1988, 2 tàu HQ611, HQ712, do đồng chí Phạm Công Phán, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 làm Biên đội trưởng; đồng chí Nguyễn Thế Dân, Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 làm Biên đội phó, chỉ huy một đại đội công binh và 2 khung đảo của Lữ đoàn 146 đến khảo sát, đóng giữ bãi đá Chữ Thập. Đến Trường Sa Đông thì tàu HQ661 bị hỏng máy phải dừng lại sửa chữa, đồng chí Nguyễn Thế Dân chuyển sang tàu HQ07 thuộc Lữ đoàn 171 đi làm nhiệm vụ bảo vệ bãi Đá Lớn. Đồng chí Phạm Công Phán ở lại, khi tàu sửa chữa xong tiếp tục chỉ huy biên đội tiến về phía bãi đá Chữ Thập. Sáng ngày 31 tháng 1, khi cách bãi đá Chữ Thập 5 hải lý phát hiện có 4 tàu chiến của Trung Quốc (gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo) ra ngăn cản, có lúc chỉ cách tàu ta 300 mét, không tiếp cận được bãi đá, tàu ta đành phải quay về khu vực đảo Trường Sa Đông, không thực hiện được việc đóng giữ đá Chữ Thập (Trung Quốc đã chiếm bãi đá này từ ngày 22 tháng 1).
Tháng 2 năm 1988, Trung Quốc đưa thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa, gây tình hình rất căng thẳng.
Ngày 4 tháng 2 năm 1988, Thường vụ Đảng uỷ Quân chủng họp nhận định: “Trung Quốc đã cho quân đóng trên bãi đá Chữ Thập, trước mắt ta chưa đóng xen kẽ vì họ ngăn chặn ta từ xa. Họ có thể mở rộng phạm vi chiếm đóng sang các bãi đá Châu Viên, Đá Đông, Đá Nam, Tốc Tan và đóng xen kẽ những bãi đá ta đang đóng giữ. Do đó, ta phải nhanh chóng đưa lực lượng ra đóng giữ Đá Lát, Đá Lớn, Châu Viên”. Nhiệm vụ đóng giữ đảo của cán bộ, chiến sĩ các lữ đoàn 146, 125 và Trung đoàn 83 công binh ngày càng trở nên quyết liệt. Tư lệnh Giáp Văn Cương điện cho Biên đội tàu HQ611, HQ712 đang neo đậu ở đảo Trường Sa Đông đưa bộ đội đến đóng giữ Đá Lát trước 3 giờ ngày 5 tháng 2 năm 1988.
Ngày 16 tháng 2 năm 1988, sau khi Tư lệnh Giáp Văn Cương cho chỉ thị, Phó Tư lệnh-Tham mưu trưởng Mai Xuân Vĩnh cùng cơ quan Bộ Tham mưu đã nhanh chóng chỉ đạo triển khai Sở chỉ huy tiền phương của Quân chủng tại Cam Ranh kịp thời phục vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Bộ Tham mưu chỉ đạo Phòng Quân báo, Tiểu đoàn 47 (đã di chuyển vào Nhà Trang) phối hợp với các lực lượng ra đa, thông tin, quân báo nhân dân tăng cường công tác nắm địch. Trung đoàn 602 tổ chức các mạng thông tin phục vụ chỉ huy, trong đó có mạng thu nhận tín hiệu báo động từ Bộ Tổng Tham mưu, mạng liên lạc và mạng tiếp sức giữa Quân chủng, Bộ Tổng Tham mưu và các đơn vị; xây dựng mạng thông tin của Vùng 4. Tiểu đoàn 6 cử các tổ đo đạc biển lên đường làm nhiệm vụ đo đạc khảo sát các bãi đá Tiên Nữ, Núi Le, Tốc Tan, Đá Đông, Đá Tây, Đá Lát để phục vụ xây dựng nhà giàn cấp 3. Các cơ quan (Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật ) đều tổ chức các bộ phận tiền phương để kịp thời giải quyết công việc theo nhiệm vụ đóng giữ, bảo vệ Trường Sa và DK1.
Sáng ngày 17 tháng 2 (mồng 1 Tết cổ truyền) Sở chỉ huy di chuyển từ Hải Phòng vào Cam Ranh. Khi các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Quân chủng rời Sở chỉ huy cơ bản vào Cam Ranh thì trên tất cả các hướng, các khu vực và toàn quần đảo Trường Sa đã khắc phục khó khăn, triển khai hoàn chỉnh các mạng liên lạc. Phó Tư lệnh- Tham mưu trưởng Mai Xuân Vĩnh báo cáo Tư lệnh ra lệnh cho lực lượng tàu, bộ đội công binh sẵn sàng đưa bộ đội ra đóng giữ đảo; chỉ đạo khối sở chỉ huy do đồng chí Nguyễn Cảo, Phó Phòng Tác chiến phụ trách, cùng các đồng chí cán bộ Phòng Tác chiến làm các kế hoạch chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa, khảo sát khu vực thềm lục địa phía Nam và di chuyển Sở chỉ huy Quân chủng vào Cam Ranh. Chỉ đạo các phòng, ban và các đơn vị trực thuộc làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ; chấp hành nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, bình tĩnh, sáng suốt, dũng cảm và kiên quyết phối hợp với các lực lượng khác đấu tranh cả về chính trị, ngoại giao, quân sự để bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, đảo và thềm lục địa của Tổ quốc, không để chiến tranh lan rộng ra khắp quần đảo.
Chấp hành mệnh lệnh của Tư lệnh Quân chủng, tàu HQ611, HQ712 đưa lực lượng công binh và bộ đội của Lữ đoàn 146 đến bãi Đá Lát. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Công Phán, lực lượng chia thành 3 tổ chiến đấu canh gác và tổ chức lực lượng làm nhà cấp 3. Đến ngày 20 tháng 2, lực lượng công binh đã hoàn thành nhà, bàn giao cho lực lượng bảo vệ đảo.
Ở hướng bãi Đá Lớn, ngày 13 tháng 2, Lữ đoàn 125 điều tàu HQ505 kéo tàu HQ556 (cùng bộ phận làm nhà cao chân) đóng giữ bãi Đá Lớn. Trong khi ta đang tiến về phía đảo thì phát hiện tàu khu trục và 2 tàu hộ vệ tên lửa của Trung Quốc. Khi ta cách bãi Đá Lớn khoảng 4 hải lý, tàu Trung Quốc thả thuỷ lôi ngăn cản, uy hiếp. Trước tình hình trên, Ban chỉ huy tàu HQ505 họp nhận định: “Đối phương chưa biết ý đồ của ta đưa lực lượng ra đóng giữ đảo, việc thị uy không liên quan đến hành trình, ta cứ cho tàu chạy theo hướng đã định”. Tàu HQ505 bình tĩnh, khôn khéo kéo tàu HQ556 tiếp tục tiến về phía Bắc đảo. Ngày 20 tháng 2, sau khi quan sát thăm dò luồng, tàu HQ556 tiến vào phía Nam đảo an toàn (Cùng thời gian này, tàu Đại Lãnh của Công ty Trục vớt cứu hộ Sài Gòn kéo tàu HQ582 và pông-tông Đ02 đi Đá Lớn. Ngày 27 tháng 2 xuất phát từ Thành phố Hồ Chí Minh đến ngày 1 tháng 3, pông-tông Đ02 vào đến vị trí Bắc Đá Lớn). Cán bộ, chiến sĩ trên pôngtông Đ02, tàu LCU đã đến triển khai lực lượng, xây dựng thế trận phòng thủ bảo vệ Đá Lớn.
Ngày 18 tháng 2 (ngày 2 Tết Nguyên đán), Tư lệnh báo cáo Thường vụ Đảng ủy Quân chủng về phương án huy động tối đa lực lượng, phương tiện tàu thuyền, khí tài, cơ sở vật chất của các lữ đoàn 146, 125, các trung đoàn 83, 131 và 800 cán bộ, học viên Trường Sĩ quan chỉ huy- kỹ thuật Hải quân cho nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa. Cùng ngày, tàu HQ851 của Vùng 3 và HQ614 của Vùng 4 nhận lệnh từ Đá Đông đến chốt giữ, bảo vệ bãi đá Châu Viên. Biên đội do Đại tá Lê Văn Thư, Chỉ huy trưởng Vùng 4 trực tiếp chỉ huy. Lúc 12 giờ tới bãi đá Châu Viên, HQ614 hạ xuồng chở 7 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Cù Kim Tài, Phó tiểu đoàn trưởng công binh chỉ huy vào bãi cạn cắm cờ Tổ quốc. Nước biển lên, bộ đội thay nhau giữ cờ. Đến đêm, nước biển lên cao, sóng to, bộ đội bị ướt, đói, rét buộc phải quay về tàu. Lúc này, HQ851 bị rê neo trôi xa dần. Biên đội quyết định đưa tàu về lại Đá Đông. 23 giờ về đến Đá Đông thì nhận được lệnh của Sở chỉ huy Quân chủng: “Cho tàu quay trở lại Châu Viên ngay, bằng mọi giá ủi bãi. Chấp hành. Không được hỏi lại”. Lúc 1 giờ ngày 19 tháng 2, Biên đội nhổ neo tiến về Châu Viên. Lúc 5 giờ tới Châu Viên, HQ851 được lệnh ủi bãi. Nhưng 3 tàu Trung Quốc lao đến cắt mũi, ngăn chặn, Thuyền trưởng tàu HQ851 tiếp tục điều khiển tàu tìm cách tiếp cận bãi cạn, bị tàu Trung Quốc kèm sát, chĩa súng đe dọa. Lúc 12 giờ, Sở chỉ huy điện chỉ thị: “Tiếp tục ủi bãi, Tổ quốc và nhân dân không bao giờ quên các đồng chí”. Tàu ta và tàu đối phương giằng co nhau. Do có ưu thế hơn, 3 tàu Trung Quốc áp sát, cắt mũi, HQ851 không thể ủi bãi đưa bộ đội lên được. Đến 6 giờ tối, HQ851 bị hỏng 1 máy chính, 2 máy phụ. Sở chỉ huy Vùng 4 nhận định, nếu ta cứ giằng co với đối phương thì chưa chắc đã giữ được mà còn mất cả Đá Đông. Đồng chí Lê Văn Thư quyết định cho 2 tàu quay lại đóng giữ Đá Đông. Như vậy, trước ưu thế tàu chiến vây ép, ngăn chặn, ngày 18 tháng 2 năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép bãi đá Châu Viên. Ngày 26, họ chiếm đóng bãi đá Ga Ven; ngày 28, chiếm đóng bãi đá Huy Gơ.
Trong khi đó, tại Đá Đông, một đảo chìm rộng giữ vị trí quan trọng trong quần đảo, Sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho tàu HQ661 đưa lực lượng ra cắm cờ, canh gác; đồng thời lệnh cho tàu HQ605 chở vật liệu, bộ đội bảo vệ của Lữ đoàn 146 và lực lượng công binh của Trung đoàn 83 ra bãi đá chốt giữ xây dựng. Mặc cho tàu của Trung Quốc ngăn chặn khiêu khích, song các tàu của ta đã bình tĩnh vượt qua sóng gió đưa bộ đội và vật liệu đến bãi đá an toàn. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng tàu, đảo, công binh, công việc triển khai xây dựng nhà, công sự đã hoàn thành theo đúng kế hoạch. Ta triển khai lực lượng bảo vệ bãi đá. Các tàu HQ605, HQ604 tiếp tục làm nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài ở bãi Đá Đông.
Thực hiện mệnh lệnh của Sở chỉ huy Quân chủng, Lữ đoàn 125 đưa tàu HQ965 kéo pông-tông 07 ra neo giữ tại bãi đá Tốc Tan. Ngày 27 tháng 2 năm 1988, hoàn thành việc chốt giữ đá Tốc Tan. Đến đầu tháng 3 năm 1988, hải quân ta đã triển khai xây dựng xong thế trận phòng thủ trên 7 bãi đá mới là Đá Tây (đóng giữ ngày 15 tháng 1), Đá Lát (ngày 5 tháng 2), Tiên Nữ, Đá Lớn (ngày 6 tháng 2), Đá Đông (ngày 18 tháng 2), Tốc Tan (ngày 27 tháng 2), Núi Le (ngày 2 tháng 3) đưa tổng số đảo, đá do ta đóng giữ lên 17, trong đó gồm 9 đảo nổi, 8 bãi đá ngầm. Trước tình hình Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép 4 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân chủng phải tranh thủ đóng giữ thêm các bãi cạn chưa có người thuộc quần đảo chủ quyền của ta; tổ chức đóng giữ không dùng nhiều người và có thể dùng mọi loại tàu để đóng giữ, kể cả tàu 159AE. Công việc của 3 năm (1988-1990) sẽ làm cả trong năm 1988. Ngày 4 tháng 3 năm 1988, Thường vụ Đảng uỷ Quân chủng họp nhận định: “Trung Quốc đã cho quân chiếm giữ Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Huy Gơ. Ta xây dựng thế trận phòng thủ ở các bãi đá Tiên Nữ, Đá Lát, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan, Núi Le, bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng của Trung Quốc ra các đảo, đá lân cận. Song họ có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và Đông Kinh tuyến 115 độ”.
Căn cứ tình hình xung quanh khu vực Trường Sa, Thường vụ Đảng uỷ Quân chủng xác định: “Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để họ chiếm giữ sẽ khống chế đường qua lại của ta tiếp tế, bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa”. Vì vậy, Quân chủng hạ quyết tâm đóng giữ các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khẩn trương, bởi trong cùng một lúc ta phải triển khai đóng giữ cả 3 bãi đá trong điều kiện phương tiện, trang bị cũ, thô sơ, lực lượng hạn chế, thời tiết sóng gió không thuận lợi. Thường vụ Đảng uỷ Quân chủng giao cho Lữ đoàn 125 huy động lực lượng tàu thực hiện nhiệm vụ này.
Đầu tháng 3 năm 1988, Trung Quốc huy động lực lượng của hạm đội Nam Hải và Đông Hải xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên từ 9 đến 12 tàu chiến, gồm: khu trực tên lửa số hiệu 164, 7 tàu hộ vệ tên lửa mang số hiệu 808, 810, 531, 552, 553, 556 và 1 chiếc khác; 2 tàu hộ vệ pháo số hiệu 502, 503; 2 tàu đổ bộ 929, 937; 3 tàu vận tải LSM số hiệu 811, 813, 463; tàu đo đạc 833, tàu kéo 147 và 1 pông-tông lớn.
Thực hiện quyết tâm của Thường vụ Đảng uỷ Quân chủng, 22 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1988, tàu HQ605 (Lữ đoàn 125), do đồng chí Lê Lệnh Sơn làm Thuyền trưởng được lệnh từ bãi đá Tốc Tan đến đóng giữ bãi đá Len Đao. 5 giờ ngày 14 tháng 3, tàu HQ605 đến Len Đao cắm cờ Tổ quốc trên đó, khẳng định chủ quyền của ta.
Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ bãi đá Gạc Ma và Cô Lin, lúc 12 giờ ngày 13 tháng 3, tàu HQ604 do đồng chí Vũ Phi Trừ làm Thuyền trưởng và tàu HQ505 do đồng chí Vũ Huy Lễ làm Thuyền trưởng được lệnh từ bãi Đá Lớn tiến về Gạc Ma, Cô Lin, 16 giờ thì đến nơi. Phối hợp với hai tàu HQ604 và HQ505 có 2 phân đội công binh (70 người) thuộc Trung đoàn 83, 4 tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146 và 4 chiến sĩ đo đạc và biên vẽ bản đồ (Bộ Tổng Tham mưu) do đồng chí Trần Đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 chỉ huy. Sau khi 2 tàu của ta thả neo được 30 phút, tàu hộ vệ của Trung Quốc từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma, có lúc cách tàu ta 500 mét. 17 giờ ngày 13 tháng 3, tàu hộ vệ 502 của Trung Quốc áp sát tàu HQ604 cách 50 mét, gọi loa khiêu khích. Bị tàu của Trung Quốc uy hiếp, cán bộ, chiến sĩ hai tàu HQ604 và HQ505 động viên nhau giữ vững quyết tâm không để mắc mưu, kiên trì neo giữ quanh bãi đá. Tàu 502 cùng 1 tàu hộ vệ, 2 tàu vận tải của Trung Quốc thay nhau cơ động, chạy quanh bãi đá Gạc Ma.
Lúc 17 giờ 30 phút ngày 13 tháng 3, Sở chỉ huy Quân chủng nhận được báo cáo của tàu HQ604 về tình hình đang diễn ra. Sở chỉ huy Quân chủng nhận định những diễn biến có thể xảy ra, một mặt báo cáo kịp thời lên Bộ Tổng Tham mưu và yêu cầu không quân cho máy bay quan sát và yểm trợ cho bộ đội trong khu vực đá Gạc Ma… Đề nghị Bộ Ngoại giao phản đối hành động của Trung Quốc”; một mặt chỉ đạo điều các tàu HQ13 từ bãi đá Tốc Tan lên khu vực Cô Lin, Gạc Ma; HQ931 từ Đá Đông và HQ671 từ Đá Lớn đến Gạc Ma. Phát hiện sự hoạt động của ta ở khu vực Cô Lin, Gạc Ma, tàu hộ vệ 502 của Trung Quốc cơ động từ Gạc Ma sang Cô Lin, cách HQ505 khoảng 500 mét quan sát và đi về Tây Gạc Ma. Tàu 502 tiến sát HQ604 đang ở gần Gạc Ma và gọi loa khiêu khích: “Đây là lãnh thổ của Trung Quốc, các ngươi phải rời ngay”. Đến 20 giờ, tàu 502 của Trung Quốc lùi ra xa, nhập với nhóm 2 tàu vận tải đổ bộ đang ở cách đó không xa.
Lúc 21 giờ ngày 13 tháng 3, Bộ Tư lệnh chỉ thị cho các đồng chí Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Tiếp đó, Bộ Tư lệnh chỉ thị: “Cần khẩn trương thả xuồng máy, xuồng nhôm, chuyển vật liệu làm nhà lên đảo ngay trong đêm 13 tháng 3”. Thực hiện mệnh lệnh, cán bộ, chiến sĩ tàu HQ604 cùng lực lượng công binh Trung đoàn 83 chuyển vật liệu lên đá Gạc Ma, tiếp đó, lực lượng của Lữ đoàn 146 đổ bộ lên cắm cờ Tổ quốc và triển khai 4 tổ bảo vệ bãi đá.
Lúc 4 giờ 30 phút ngày 14 tháng 3, tàu HQ605 đến đổ bộ lên cắm cờ trên bãi đá Len Đao. Lúc 4 giờ 55 phút, 2 tàu hộ vệ 556, 531 của Trung Quốc từ bãi đá Chữ Thập đến Gạc Ma hỗ trợ, đe dọa. Ban chỉ huy tàu HQ604 họp nhận định tàu Trung Quốc có thể dùng vũ lực can thiệp, quyết định chỉ huy bộ đội bình tĩnh xử trí, thống nhất thực hiện theo phương án tác chiến, không nổ súng nhưng phải quyết tâm bảo vệ Gạc Ma.
Lúc 6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988, tàu Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên bãi đá Gạc Ma, hùng hổ tiến về phía ta đang cắm cờ. Dựa vào thế đông người, đối phương hung hăng tiến vào giật cờ của ta. Các đồng chí của Lữ đoàn 146 và của Trung đoàn công binh 83 do Thiếu uý Trần Văn Phương chỉ huy đã bình tĩnh, dũng cảm đứng vây quanh kiên quyết bảo vệ cờ Tổ quốc không cho đối phương lao vào. Phương đã động viên các đồng đội: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ Tổ quốc và truyền thống của Quân chủng”. Giành giật với lực lượng của ta không được, binh lính của Trung Quốc điên cuồng nổ súng vào người chỉ huy dũng cảm, kiên cường bảo vệ chủ quyền Tổ quốc của chiến sĩ hải quân Việt Nam. Trần Văn Phương đã ngã xuống. Ngay lúc đó, binh nhất Nguyễn Văn Lanh, chiến sĩ công binh của Trung đoàn 83 tiếp tục xông lên cùng đồng đội xiết chặt xung quanh để bảo vệ lá cờ Tổ quốc. Trước hành động của đồng chí Lanh dũng cảm đánh bật khẩu súng ngắn trên tay của tên chỉ huy, một tên khác đã hèn hạ dùng lê lén đâm đồng chí Lanh từ phía sau. Máu của hai người đồng đội của chúng ta đã đổ để giữ vững lá cờ của Tổ quốc hiên ngang tung bay trên bãi đá Gạc Ma.
Trước những hành động dũng cảm và kiên cường bảo vệ cờ của cán bộ, chiến sĩ ta, binh lính Trung Quốc đã phải rút về tàu. Không uy hiếp được bộ đội ta rút khỏi bãi đá, lúc 7 giờ 50 phút ngày 14 tháng 3 năm 1988, hai tàu hộ vệ 502, 531 của Trung Quốc đã điên cuồng dùng pháo bắn dã man vào tàu HQ604, làm cho tàu bốc cháy, chìm tại phía Nam bãi đá Gạc Ma. Các đồng chí Vũ Phi Trừ, Trần Đức Thông và một số cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã anh dũng hy sinh.
Tại Cô Lin, lúc 6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988, tàu HQ505 đã cắm 2 lá cờ trên bãi đá. Khi thấy tàu của Trung Quốc bắn vào tàu HQ604, đồng chí Vũ Huy Lễ, Thuyền trưởng tàu HQ505 lập tức ra lệnh nhổ neo, ủi bãi, kiên quyết bảo vệ đảo của ta. Trong lúc tàu đang cơ động lên bãi đá Cô Lin thì 8 giờ 15 phút ngày 14 tháng 3, hai tàu 502, 531 của Trung Quốc lại điên cuồng bắn vào tàu HQ505, làm tàu hỏng lái. Song tàu HQ505 vẫn kiên cường ủi bãi, chạy hết tốc độ trườn lên bãi đá được hai phần ba thân tàu thì bốc cháy. Bất chấp hiểm nguy, cán bộ, chiến sĩ trên tàu dũng cảm dập lửa bảo vệ tàu và tổ chức cấp cứu thương binh. Đồng thời nhanh chóng đưa xuồng đến Gạc Ma để cứu vớt các đồng chí ở tàu HQ604 bị chìm.
Ở hướng Len Đao, 5 giờ ngày 14 tháng 3, tàu HQ605 cho bộ đội lên cắm cờ trên bãi đá. Đến 8 giờ 20 phút, tàu hộ vệ 556 của Trung Quốc từ Gạc Ma tới dùng pháo bắn mãnh liệt vào tàu HQ605 làm cho tàu bốc cháy. Bộ đội đã dũng cảm dập lửa cứu tàu nhưng do cháy quá lớn nên không thể cứu được, bộ đội phải rời tàu bơi xuồng về đảo Sinh Tồn. Đến 3 giờ ngày 15 tháng 3, tàu HQ605 chìm xuống lòng biển ở bãi đá Len Đao.
Sau khi nhận được tin các tàu HQ604, HQ505, HQ605 bị bắn cháy, Bộ Tư lệnh Hải quân đã lệnh cho tàu HQ13 không đến Gạc Ma nữa; lệnh cho HQ671 và HQ931 treo cở chữ thập đỏ đến khu vực Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao làm nhiệm vụ cấp cứu, cứu hộ. Mặc dù bị tàu của Trung Quốc ngăn chặn, khiêu khích, tàu HQ671 vẫn tới CôLin lúc 15 giờ ngày 14 tháng 3 để đưa số cán bộ, chiến sĩ tàu HQ604 đã cứu được về đảo Sinh Tồn vào lúc 22 giờ. Tàu HQ931 cũng đã vượt qua sự ngăn chặn, khiêu khích của tàu Trung Quốc. 13 giờ thì tàu đến Len Đao, sau khi quan sát chỉ thấy lá cờ của Tổ quốc đang tung bay trên đảo còn chiếc tàu HQ605 đang cháy và dần chìm. Không đón được ai, tàu HQ931 quay về Sinh Tồn.
Sự kiện ngày 14 tháng 3 năm 1988, tàu của Trung Quốc đã bắn cháy và chìm 3 tàu, 64 đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương.
Với hành động dũng cảm, kiên quyết đấu tranh để bảo vệ lá cờ, bảo vệ chủ quyền Tổ quốc của Thiếu úy Trần Văn Phương và các đồng đội liệt sĩ của anh mãi sống cùng lịch sử dân tộc với tư cách là những tấm bia chủ quyền bất tử. Các anh là niềm kiêu hãnh, tự hào của mọi thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam. Hành động anh hùng, lẫm liệt đó của Phương và các đồng đội đã thực sự góp phần khơi dậy truyền thống yêu nước của mỗi người dân Việt Nam trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo trong giai đoạn mới.
Mặc dù so sánh lực lượng chênh lệch, phương tiện, vũ khí hạn chế cả về số lượng và chất lượng nhưng cán bộ, chiến sĩ hải quân đã dũng cảm, kiên quyết trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Bộ Chính trị, Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng giao phó. Với chiến công oanh liệt, tàu HQ505 vinh dự được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Các đồng chí Liệt sĩ Trần Văn Phương, Liệt sĩ Vũ Phi Trừ, Liệt sĩ Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Nguyễn Văn Lanh, được truy tặng và phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều tập thể và cá nhân được tặng thưởng huân chương các loại.
Ngày 31 tháng 3 năm 1988, Tư lệnh Hải quân lệnh cho Vùng 4, các lữ đoàn 125, 146 và một số hải đội của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao; đồng thời lệnh cho Vùng 1, Vùng 3 và một bộ phận của Lữ đoàn 125 ở Hải Phòng chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường; điều 41 tàu thuyền và phương tiện nổi của Lữ đoàn 125, Cục Kinh tế, Vùng 1, Vùng 3, Vùng 5, Trường Sĩ quan chỉ huy-kỹ thuật Hải quân, các xưởng Ba Son, X51 và tổ chức tiếp nhận 3 tàu của Nhà nước, 3 tàu của Tổng cục Hậu cần, 2 tàu của Quân khu 5 đến phối thuộc hoạt động khi cần thiết. Đồng thời, Quân chủng tổ chức đưa đón các đoàn cán bộ của Đảng, Nhà nước ra thăm, động viên cán bộ, chiến sĩ và làm việc tại quần đảo Trường Sa.
Ngày 7 tháng 5 năm 1988, Đại tướng Lê Đức Anh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra thăm quần đảo Trường Sa. Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 33 năm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam tổ chức ở đảo Trường Sa, Đại tướng đã biểu dương: “Hải quân đã tích cực, kiên trì thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng về bảo vệ quần đảo Trường Sa. Mặc dù có nhiều khó khăn, song Quân chủng đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ được giao”. Và đồng chí Bộ trưởng đã nhấn mạnh: “Nhân kỷ niệm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ các tổng cục, các quân chủng, đại biểu tỉnh Phú Khánh (nay là Phú Yên và Khánh Hoà), chúng ta xin thề trước hương hồn của Tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa trước đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa, một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.
Để tăng cường khả năng xây dựng, bảo vệ quần đảo Trường Sa, DK1, từ năm 1987, Quân chủng được Bộ Tổng Tham mưu điều chuyển bổ sung, tăng cường nhiều loại vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các đảo. Nhà nước điều các tàu Sông Thao, Hạ Long 01, Bạch Đằng 18 cho Hải quân. Liên Xô viện trợ cho hải quân ta 1 tàu kéo 3000CV, 1 tàu nước 1300CV, 6.200 mét xích neo, 38 neo lớn… Chính phủ đã quyết định cấp 5.150 tấn thép, 20 tấn tôn múi, 50 tấn tôn mạ, 20 tấn cát thép, 1.080 tấn xi măng M500, 6450 tấn xi măng M300, 1962 mét khối gỗ (700 mét khối gỗ tròn), 2500 m vải bạt, 181,5 tấn que hàn, 1500 tấn xăng dầu, 200 bộ xăm lốp, 4 xe Kpan, 1 xe xúc, 2 xe cần cẩu cùng một số vật tư khác để đóng 10 pông -tông, làm 12 nhà cấp 2 cho các đảo chìm; huy động 6 pông-tông của Bộ Giao thông vận tải, giao cho Bộ này thiết kế xây dựng cầu tàu ở đảo Trường Sa, lắp pin mặt trời cho các điểm đảo cùng một số bộ video, cátséc cho bộ đội. Chính phủ, Bộ Quốc phòng giao cho Quân chủng Hải quân ký hợp đồng với các nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, Hạ Long để đóng tàu vận tải 1.000 tấn, 980CV biên chế cho Lữ đoàn 125. Hoạt động của Quân chủng đã thu hút được sự quan tâm của quân và dân cả nước vì Trường Sa, hết lòng chi viện sức người, sức của cho Trường Sa. Đây là cơ sở bảo đảm cho Quân chủng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đóng giữ, bảo vệ quần đảo Trường Sa và thềm lục địa phía Nam.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và chỉ thị của Ban Bí Thư Trung ương Đảng, theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Hải quân, từ tháng 6 năm 1988, các tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Quảng Ninh, Bình-Trị-Thiên; Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo, mỗi địa phương đảm nhận làm nhà cấp 1 ở đảo. Tháng 8 năm 1988, các tỉnh Bình-Trị- Thiên, Nghĩa Bình, Quảng Nam-Đà Nẵng đã hoàn thành làm nhà ở các đảo Đá Nam, Đá Lớn, Tốc Tan. Các địa phương khác do triển khai chậm, bị ảnh hưởng thời tiết nên chậm hoàn thành. Bộ Tư lệnh Công binh triển khai làm 8 khung nhà cấp 2, cử cán bộ kỹ thuật, lực lượng thi công ra xây dựng ở các bãi Đá Tây, Đá Thị. Quân chủng tổ chức xây dựng nhà cấp 2 (khung nhà sắt do Bộ Tư lệnh Công binh thiết kế) ở bãi đá Cô Lin và Len Đao.
Liên tục trong hơn 8 tháng, từ 24 tháng 10 năm 1987 đến tháng 7 năm 1988, dưới sự lãnh đạo, chỉ huy sáng suốt, kịp thời, kiên quyết của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh, các lực lượng hải quân đã dũng cảm, ngoan cường đóng giữ bảo vệ được 12 bãi đá với 23 điểm đóng quân. Tính cả 9 đảo nổi đã đóng giữ trước, đến thời điểm này chúng ta đã đóng giữ bảo vệ được 21 đảo, bãi đá với 32 điểm đóng quân trên quần đảo Trường Sa, ngăn chặn được sự mở rộng xâm chiếm trái phép của Trung Quốc trên quần đảo chủ quyền của ta.
Ngày 5 tháng 7 năm 1988, Đảng uỷ Quân chủng họp đánh giá: “Mặc dù có nhiều khó khăn, song Hải quân đã tích cực, kiên quyết nỗ lực thực hiện nhiệm vụ được giao, đã hoàn thành được một khối lượng công tác rất lớn, bảo vệ được chủ quyền ở các đảo đã đóng quân, hoàn chỉnh thêm thế bố trí chung của ta trong quần đảo, thể hiện chủ quyền của nhân dân ta đối với quần đảo Trường Sa, củng cố thế chiến lược của ta trong quần đảo…”.
Từ sau sự kiện 14 tháng 3, trên khu vực quần đảo Trường Sa, Trung Quốc thường xuyên duy trì từ 10 đến 15 tàu, trong đó có 4-6 tàu chiến. Đầu tháng 9 năm 1988, họ đưa tàu trinh sát bằng vô tuyến điện xuống trinh sát 21 đảo, bãi đá ta đang đóng giữ, uy hiếp chiếm lại và tuyên truyền về chiến lược biển và kinh tế biển, tập trung vào khu vực những lô dầu khí, thềm lục địa phía Nam của ta.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Cụm kinh tế- khoa học- dịch vụ tại khu vực thềm lục địa Đông Nam thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để phục vụ phát triển kinh tế đất nước và giao cho Quân chủng Hải quân bảo vệ. Ngày 26 tháng 10 năm 1988, Đồng chí Tư lệnh, Phó Đô đốc Giáp Văn Cương giao cho Lữ đoàn 171 làm nhiệm vụ bảo vệ thềm lục địa phía Đông Nam (DK1), đây là vùng có ý nghĩa chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế và quốc phòng, an ninh của đất nước.
Chấp hành chỉ thị của Tư lệnh Quân chủng, ngày 6 tháng 11 năm 1988, Biên đội 2 tàu HQ713, HQ688 thuộc Lữ đoàn 171 do đồng chí Phạm Văn Thư chỉ huy rời cảng. Hơn 10 ngày, 2 tàu tiến hành đo đạc khảo sát, đánh dấu, xác định vị trí thả neo làm nhà trên khu vực biển DK1 rộng 60.000 ki lô mét vuông. Ngày 26 tháng 11, Sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho 2 tàu HQ713 và HQ668 do Trung tá Hoàng Kim Nông, Phó Lữ đoàn trưởng về Chính trị Lữ đoàn 171 chỉ huy cùng hai tàu HQ727, HQ723 thuộc Hải đoàn 129 do Trung tá Trần Xuân Vọng, Hải đoàn trưởng chỉ huy làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu ở DK1. Ngày 28 tháng 11 năm 1988, 4 lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên 4 điểm ở khu vực biển DK1 khẳng định chủ quyền vùng biển của Tổ quốc.
Sang năm 1989, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vẫn là trọng tâm. Ngày 3 tháng 1 năm 1989, Bộ Tư lệnh Hải quân ra Mệnh lệnh số 15/B0.1 về tổ chức bảo vệ khu vực thăm dò và khai thác dầu khí, giao nhiệm vụ cho Hải đoàn 129, Lữ đoàn 171 đóng giữ, tuần tra bảo vệ; trong đó việc khảo sát, đánh dấu do Hải đoàn 129 chỉ huy, việc đóng giữ do Lữ đoàn 171 chỉ huy.
Từ tháng 6 năm 1989 đến tháng 11 năm 1990, Bộ Tư lệnh điều động các lực lượng đến đóng giữ bảo vệ các bãi đá ngầm Tư Chính, Phúc Nguyên, Phúc Tần, Ba Kè thuộc khu vực DK; phối hợp với các lực lượng dựng 5 nhà giàn, hiện thực hóa việc quản lý bảo vệ trên vùng biển thuộc quyền chủ quyền, tài phán của Việt Nam.
Phần tư liệu trên được trích mục 2 “Nâng cao sức mạnh tổng hợp, kiên quyết bảo vệ, giữ vững chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc,” thuộc chương 7 “Xây dựng và phát triển lực lượng theo đường lối đổi mới của Đảng, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo trong tình hình mới (1986-2000)”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét