Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

PHÁT BIỂU CỦA TỔNG THỐNG OBAMA TẠI HIROSHIMA 27.05.2016




Bảy mươi mốt năm trước, trong một buổi sáng trời quang mây tạnh, cái chết đã từ bầu trời giáng xuống mặt đất và thế giới từ đó đã đổi thay. Một ánh chớp sáng lòa, và rồi một bức tường lửa đã phá hủy cả một thành phố. Sự kiện này chứng minh rằng loài người giờ đây đã sở hữu những phương tiện hủy diệt chính mình.

Vì sao hôm nay chúng ta đến nơi này, đến Hiroshima? Chúng ta đến để suy ngẫm về một sức mạnh khủng khiếp đã được phóng ra trong một quá khứ còn chưa xa lắm. Chúng ta đến để tưởng niệm những người đã mất, trong đó có trên một vạn người lớn và trẻ em Nhật, hàng ngàn người Hàn Quốc, và vài chục người Mỹ lúc đó đang ở trong tù.

Hồn thiêng của họ đang nói với chúng ta. Họ yêu cầu chúng ta nhìn lại cho kỹ những gì đã xảy ra, để đánh giá lại chúng ta là ai, và chúng ta có thể trở thành cái gì.

Không phải chiến tranh đã làm cho Hiroshima trở thành ngoại lệ. Nhiều chứng tích cho chúng ta biết rằng xung đột bạo lực đã xảy ra từ khi bắt đầu có con người. Tổ tiên chúng ta xưa kia đã học cách chế tạo lưỡi rìu từ đá, giáo mác từ gỗ, và dùng những thứ đó không phải chỉ để săn bắn mà còn để chiến đấu với đồng loại. Ở bất cứ lục địa nào, lịch sử của nền văn minh cũng chứa đầy dấu ấn của chiến tranh, hoặc là do khan hiếm lương thực, hoặc do khao khát vàng bạc châu báu, và bị thôi thúc bởi tinh thần dân tộc cực đoan hoặc sự cuồng tín tôn giáo. Các triều đại hình thành và rồi tàn lụi. Các dân tộc bị đô hộ rồi được giải phóng. Ở từng thời điểm như vậy, những người vô tội là những người phải gánh chịu, rất nhiều người đã chết mà tên tuổi đã bị lãng quên theo thời gian.

Cuộc chiến tranh thế giới đã tiến tới một kết thúc tàn bạo ở Hiroshima và Nagasaki là cuộc chiến giữa những quốc gia giàu mạnh nhất. Nền văn minh của họ đã đem lại cho thế giới những thành phố tuyệt vời và những thành quả nghệ thuật tráng lệ, huy hoàng. Các nhà tư tưởng của họ có những ý tưởng tiến bộ về công lý, sự hài hòa, và sự thật. Và nếu như chiến tranh, nảy sinh do bản năng thống trị hay chinh phục, là thứ vốn đã gây ra xung đột giữa những bộ lạc thô sơ nhất, thì ngày nay khuôn mẫu cổ điển ấy đã được nhân lên nhiều lần với những tiến bộ kỹ thuật mới mà không có gì mới để cản lại.

Trong khoảng chỉ vài năm, 60 triệu người đã chết. Đàn ông, phụ nữ, trẻ em, không khác gì chúng ta. Bị bắn chết, bị đánh đập, bom nổ, chết trong tù, chết vì đói khát, chết vì hơi độc. Có rất nhiều nơi trên thế giới ghi lại biên niên sử cuộc chiến tranh này, có những đài tưởng niệm để kể lại câu chuyện của lòng can đảm, của chủ nghĩa anh hùng, có những phần mộ, những trại tù trống trơn như tiếng vang vọng của sự suy đồi đạo đức không thể nói hết bằng lời.

Trong hình ảnh đám mây hình nấm trên bầu trời này, chúng ta được nhắc nhở mạnh mẽ nhất về những mâu thuẫn cốt lõi nhất của loài người. Làm thế nào mà tia lửa đánh dấu chúng ta như một tạo vật, tư tưởng của chúng ta, sự tưởng tượng, ngôn ngữ, công cụ làm việc của chúng ta, khả năng của chúng ta tách mình ra khỏi tự nhiên và làm biến đổi tự nhiên theo ước muốn của chúng ta —tất cả những thứ đó cũng đã cho chúng ta một khả năng phá hủy vô song.

Đã bao nhiêu lần những tiến bộ vật chất hay những sáng kiến đổi mới xã hội đã che mắt chúng ta để chúng ta không nhìn thấy sự thật ấy? Chúng ta đã học cách biện minh cho bạo lực nhân danh một sự nghiệp cao cả nào đó mới dễ dàng làm sao!

Tất cả mọi tôn giáo tốt đẹp đều hứa hẹn con đường dẫn đến tình yêu, hòa bình và công lý, vì thế không có tôn giáo nào dung thứ cho tín đồ của mình dùng niềm tin tôn giáo như một thứ giấy phép để giết người.

Những nước đang trỗi dậy đã cho chúng ta thấy việc người dân gắn kết cùng nhau trong sự hợp tác và hy sinh, đã tạo ra những chiến công nổi bật như thế nào. Nhưng những thứ tương tự như thế cũng rất thường bị dùng để áp bức và đối xử vô nhân đạo với những người khác biệt.

Khoa học cho phép chúng ta giao tiếp xuyên qua khoảng cách biển cả và bay trên những đám mây, chữa lành nhiều thứ bệnh và giúp chúng ta hiểu biết về vũ trụ, nhưng những khám phá đó cũng có thể được dùng để làm ra những máy móc giết người hiệu quả chưa từng có trước đây.

Chiến tranh thời hiện đại đã dạy cho chúng ta sự thật ấy. Hiroshima đã dạy chúng ta sự thật ấy. Tiến bộ công nghệ mà không đi cùng những tiến bộ tương xứng trong thiết chế tổ chức của loài người sẽ có thể tiêu diệt chúng ta. Cuộc cách mạng khoa học dẫn tới những khám phá về phân hạch đòi hỏi một cuộc cách mạng về đạo đức đi cùng.

Đó là lý do chúng ta đến nơi đây. Chúng ta đứng ở nơi đây giữa thành phố này và buộc mình hình dung giây phút quả bom hạt nhân rơi xuống. Chúng ta buộc mình cảm nhận nỗi kinh hoàng của trẻ em khi chúng nhìn thấy cái gì đang xảy ra lúc đó. Chúng ta lắng nghe những tiếng khóc lặng câm. Chúng ta tưởng niệm tất cả những người vô tội bị giết chết trong vòng cung của cuộc chiến khủng khiếp này, trong những cuộc chiến đã diễn ra trước đó, và cả những cuộc chiến có thể sẽ còn xảy ra sau này.

Bản thân chỉ riêng ngôn từ không thể nào nói lên được hết những nỗi đau khổ ấy. Nhưng chúng ta cùng có trách nhiệm nhìn thẳng vào đôi mắt của lịch sử và tự hỏi mình rằng chúng ta phải làm gì khác đi để những nỗi đau khổ ấy không xảy ra một lần nữa.

Một ngày nào đó, tiếng nói của những người sống sót trong cuộc tấn công hạt nhân này sẽ không còn với chúng ta với tư cách là những nhân chứng. Nhưng ký ức về buổi sáng ngày 6 tháng 8 năm 1945 phải vĩnh viễn không phai mờ. Ký ức ấy giúp chúng ta tranh đấu chống lại sự tự mãn. Nó đem lại nguồn năng lượng cho trí tưởng tượng của chúng ta. Nó cho phép chúng ta thay đổi.

Và kể từ cái ngày định mệnh ấy, chúng ta đã lựa chọn những gì mang lại niềm hy vọng. Hoa Kỳ và Nhật Bản đã xây dựng được không chỉ một liên minh mà còn là một tình hữu nghị vượt xa những gì hai dân tộc chúng ta từng tuyên bố trong chiến tranh. Các nước châu Âu đã xây dựng một liên hiệp thay thế chiến trường bằng những ràng buộc thương mại và nền dân chủ. Những dân tộc và quốc gia bị áp bức đã được giải phóng. Cộng đồng quốc tế đã thiết lập những thiết chế và hiệp ước có thể giúp tránh được chiến tranh, mong muốn hạn chế và tiến tới mục tiêu giải trừ vũ khí hạt nhân.

Vẫn còn đó, mỗi hành động xâm lược giữa các nước, mỗi hành động khủng bố và tham nhũng, tội ác và đàn áp mà chúng ta thấy khắp nơi trên thế giới đều cho chúng ta thấy rằng công việc của mình chưa bao giờ hoàn tất.

Chúng ta không đủ sức xóa bỏ khả năng gây ra tội ác của con người, vì vậy các quốc gia và các liên minh mà chúng ta đã xây dựng phải sở hữu những phương tiện để tự vệ. Nhưng trong những nước sở hữu vũ khí hạt nhân như Hoa Kỳ chẳng hạn, chúng ta phải có can đảm tránh cái logic của sự sợ hãi, và theo đuổi một thế giới không vũ khí hạt nhân.

Chúng ta có thể sẽ không được nhìn thấy ngày ấy trong giới hạn đời mình, nhưng những nỗ lực kiên trì có thể giảm trừ khả năng của những tai họa ấy. Chúng ta có thể vẽ ra một lộ trình dẫn tới việc phá hủy những kho dự trữ vũ khí này. Chúng ta có thể ngăn chặn sự lan rộng hạt nhân tới những nước mới và bảo đảm thứ vật liệu chết người này không rơi vào tay những người cuồng tín.

Và như thế vẫn chưa đủ. Vì chúng ta thấy ngày nay trên thế giới thậm chí súng thô sơ và bom tự chế cũng có thể đủ để khủng bố trên quy mô lớn. Chúng ta phải thay đổi cách nghĩ của mình về bản thân chiến tranh. Để tránh xung đột thông qua con đường ngoại giao và phấn đấu để chấm dứt xung đột khi nó mới bắt đầu. Để thấy sự tương thuộc của chúng ta ngày càng lớn, như một lý do cho hợp tác hoà bình thay vì cạnh tranh bạo lực. Để định nghĩa quốc gia của chúng ta không phải bằng khả năng phá hủy mà là bằng những gì chúng ta xây dựng. Và có lẽ, trên hết tất cả, chúng ta cần phải tái hình dung mối dây gắn kết chúng ta cùng nhau như là những thành viên của một nhân loại.

Vì điều này cũng là điều đã khiến chúng ta trở thành tạo vật duy nhất khác với muôn loài. Chúng ta không bị ràng buộc bởi một thứ gen khiến chúng ta lặp lại những sai lầm trong quá khứ. Chúng ta có thể học. Chúng ta có thể lựa chọn. Chúng ta có thể kể một câu chuyện khác cho con cái mình, câu chuyện về sự nhân đạo, là điều khiến chiến tranh khó lòng xảy ra và tội ác không được chấp nhận một cách dễ dàng.

Chúng ta thấy câu chuyện này trong những người sống sót ở Hiroshima. Đó là người phụ nữ đã tha thứ cho viên phi công lái máy bay thả bom nguyên tử bởi vì bà nhận ra rằng thứ mà bà ta căm ghét là bản thân chiến tranh. Đó là người đàn ông đã tìm kiếm gia đình của những người Mỹ bị giết nơi đây, vì ông tin rằng mất mát của họ cũng không kém gì những mất mát mà chính ông đã phải chịu đựng.

Câu chuyện của nước tôi bắt đầu với những lời đơn giản: “Tất cả mọi người được sinh ra bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc." Nhận biết lý tưởng ấy chưa bao giờ là điều dễ dàng, ngay cả trong phạm vi biên giới nước chúng tôi, ngay cả trong số công dân của chúng tôi. Nhưng trung thành với câu chuyện ấy là điều đáng giá với những nỗ lực của chúng tôi. Nó là một lý tưởng để chúng tôi phấn đấu, một lý tưởng mở rộng qua mọi lục địa và mọi đại dương. Giá trị không thể làm giảm nhẹ của từng con người, sự kiên trì với quan niệm rằng mỗi cuộc đời đều là quý giá, ý tưởng cơ bản và tất yếu rằng chúng ta là một phần của gia đình nhân loại— đó là câu chuyện mà tất cả chúng ta đều cần phải kể lại với mọi người.

Đó là lý do chúng ta đến Hiroshima. Để chúng ta có thể nghĩ về những người chúng ta yêu quý. Nụ cười đầu tiên của con cái chúng ta mỗi sáng sớm khi chúng thức dậy. Cái chạm nhẹ âu yếm của bạn đời bên kệ bếp. Cái ôm an ủi của mẹ cha. Chúng ta có thể nghĩ về tất cả những điều này và biết rằng những khoảnh khắc quý báu như thế đã từng xảy ra ở nơi đây, bảy mươi mốt năm về trước.

Những người đã chết, họ cũng giống như chúng ta. Tôi nghĩ những người bình thường hiểu rõ điều này. Họ không muốn có thêm chiến tranh. Thay vào đó, họ muốn những thành tựu kỳ diệu của khoa học sẽ tập trung vào việc cải thiện đời sống thay vì phá hủy nó. Khi các nhà lãnh đạo quyết định lựa chọn điều này, một điều khôn ngoan đơn giản, là lúc bài học Hiroshima đã hoàn tất sứ mạng của nó.



Thế giới đã vĩnh viễn thay đổi ở nơi đây, nhưng ngày nay trẻ em của thành phố này sẽ đi qua cuộc đời trong hòa bình. Điều này mới quý giá làm sao! Nó thật đáng được bảo vệ, và mở rộng ra cho mọi đứa trẻ. Đó là một tương lai mà chúng ta có thể chọn, một tương lai mà Hiroshima và Nagasaki sẽ được biết tới không phải như là nơi bắt đầu của chiến tranh hạt nhân, mà là khởi đầu của sự thức tỉnh về đạo đức của chúng ta.

Thứ Hai, 30 tháng 5, 2016

Thêm bằng chứng Hoàng Sa - Trường Sa không thuộc Trung Quốc

TTO - Hai tập bản đồ cổ Trung Quốc ở Thư viện Harvard-Yenching đã góp thêm chứng cứ để bác bỏ những tuyên bố dối trá của Trung Quốc về cái gọi là “chủ quyền lịch sử từ lâu đời của Trung Quốc” đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Thêm bằng chứng Hoàng Sa - Trường Sa không thuộc Trung Quốc
Bản đồ tổng thể Trung Quốc in ở đầu tập I bộ “Atlas von China” chỉ vẽ lãnh thổ Trung Quốc đến đảo Hải Nam - Ảnh: T.Đ.A.S.

TS TRẦN ĐỨC ANH SƠN
Sau khi tìm kiếm, thu thập các tư liệu và bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Thư viện Đại học Yale và Thư viện Quốc hội Mỹ, tôi đến Thư viện Đại học Harvard ở Cambrigde (Massachusetts), tiếp cận kho tư liệu đồ sộ ở trường đại học danh tiếng này với hi vọng tìm thêm nhiều tư liệu quý.
Không hề có Hoàng Sa - Trường Sa
Nhờ sự giới thiệu của cô Phan Thị Ngọc Chấn, thủ thư kho sách Việt Nam ở Thư viện Harvard-Yenching, tôi tiếp cận được kho tư liệu hiếm, hoàn toàn là những tư liệu gốc, độc bản, có niên đại hàng trăm năm tuổi.
Ngay trong ngày đầu tiên, tôi đã tìm thấy và sao chụp một số tư liệu rất có giá trị, trong đó đáng chú ý là hai tập bản đồ vẽ lãnh thổ Trung Hoa thời nhà Thanh.
Thứ nhất là tập bản đồ Càn Long thập tam bài đồng dư địa đồ, niên đại năm Càn Long Canh Thìn (1760).
Đây là tập bản đồ gồm khoảng 200 tờ bản đồ được in theo kỹ thuật “đồng bản họa” (khắc hình lên lá đồng dát mỏng, phun mực rồi in lên giấy, một kỹ thuật in rất phổ biến ở Trung Hoa thời nhà Thanh).
Các bản đồ này vẽ chi tiết địa hình toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa dưới triều Càn Long (1735-1796), từ đại lục đến hải đảo và các vùng biển bao quanh Trung Hoa.
Trong gần 200 tờ bản đồ thuộc bộ dư địa đồ đồ sộ này, không có tờ nào vẽ hay đề cập đến hai địa danh “Tây Sa quần đảo” và “Nam Sa quần đảo”, những cái tên mà sau này người Trung Quốc đặt ra để gọi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Đáng chú ý là tờ bản đồ gần cuối của tập dư địa đồ này vẽ vùng biển đảo cực nam của Trung Quốc đương thời chỉ đến đảo Hải Nam.
Thứ hai là bộ Atlas von China (Tập bản đồ Trung Quốc) gồm 2 tập do NXB Verlag von Dietrich Reimer xuất bản tại Berlin năm 1885 (kích thước 55cm x 45cm).
Hai tập của bộ atlas này có 16 trang diễn giải bằng tiếng Đức và 55 bản đồ in màu, là những bản đồ hành chính và bản đồ địa hình vẽ kinh đô Bắc Kinh và 26 phủ ở Trung Quốc dưới triều hoàng đế Quang Tự (1875 - 1908).
Bản đồ đầu tiên trong tập I của bộ Atlas von China là bản đồ tổng thể Trung Quốc lúc đó. Phần cực nam của bản đồ này chỉ vẽ đến đảo Hải Nam. Trong tập II có bản đồ hành chính và bản đồ địa hình Quảng Đông (Canton).
Tuy nhiên khác với các bản đồ vẽ vào cuối thời nhà Thanh và bản đồ thời Trung Hoa dân quốc, hai bản đồ Quảng Đông này không có đảo Hải Nam, lúc bấy giờ vẫn được gọi là Quỳnh phủ.
Trong các thư tịch cổ Trung Quốc, vùng đất phía nam Quỳnh phủ (sau này Trung Quốc gọi là Hải Nam) luôn được gọi là “hải giác thiên nhai” (góc biển, chân trời), ám chỉ đó là vùng biên viễn xa xôi của Trung Quốc.
“Sản phẩm 
tưởng tượng”
Có thể nhận thấy rằng các bản đồ Trung Quốc ở trong các atlas được xuất bản chính thức vào thời nhà Thanh và thời Trung Hoa dân quốc luôn xác định rõ cương giới cực nam của Trung Quốc chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam.
Có nghĩa là vào năm 1885 (năm xuất bản bộ Atlas von China), thậm chí tới năm 1933 (năm tái bản bộ Postal Atlas of China) thì Thanh triều và Chính phủ Trung Hoa dân quốc vẫn không coi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là thuộc về Trung Quốc.
Vì thế mà hai quần đảo này không được vẽ hay ghi danh lên những bản đồ do Trung Quốc soạn vẽ, hay trong những tập bản đồ do Trung Quốc hợp tác với các nhà bản đồ học phương Tây biên soạn và ấn hành.
Ngoài tập bản đồ Càn Long thập tam bài đồng dư địa đồ và các bộ atlas, tôi còn sưu tầm được nhiều bản đồ riêng lẻ, cũng do Nhà nước Trung Quốc ấn hành chính thức từ cuối thế kỷ 19 đến thập niên 1930, đều không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, mà Trung Quốc sau này gọi là Tây Sa và Nam Sa.
Vì vậy mà trong hội thảo “Conflict in the South China Sea” (Xung đột ở Biển Đông) tổ chức ở Đại học Yale (Mỹ) vào đầu tháng 5-2016, nhà báo Bill Hayton (BBC, Anh quốc) đã phát biểu rằng: Nhà nước Trung Quốc hiện nay đã dựa vào một “sản phẩm tưởng tượng” được Trung Hoa dân quốc phát minh vào năm 1947 để vẽ nên cái “đường chữ U” trên bản đồ Trung Quốc hiện đại.
Họ đưa hầu hết biển và hải đảo của các nước láng giềng của Trung Quốc vào trong cái “đường chữ U” mơ hồ và tham lam ấy rồi tuyên bố là “thuộc về chủ quyền lâu đời” của Trung Quốc. Điều này hoàn toàn không đúng với sự thật lịch sử.
Thêm bằng chứng Hoàng Sa - Trường Sa không thuộc Trung Quốc
Bản đồ Canton (Quảng Đông) trong tập II bộ “Atlas von China” không vẽ đảo Hải Nam - Ảnh: T.Đ.A.S.
Khoa học, rõ ràng
Hai tập bản đồ vừa tìm thấy ở kho sách hiếm của Thư viện Harvard-Yenching là sản phẩm của chương trình thiết lập bản đồ quốc gia do hoàng đế nhà Thanh là Khang Hi (1662-1722) khởi xướng và tổ chức thực hiện trong hàng chục năm trời, với sự hợp tác của các nhà bản đồ học phương Tây.
Vì thế các bản đồ này vẽ rất khoa học và rõ ràng, kèm theo các bản đồ còn có các trang chú dẫn rất chi tiết.

Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2016

Di sản của Obama và Bàn cờ Biển Đông

Nguyễn Quang Dy

Tuần này, tổng thống Obama thăm chính thức Việt Nam (23-25/5/2016). Đây là chuyến thăm đầu tiên và cũng là cuối cùng với cương vị tổng thống (trong 8 năm cầm quyền). Chuyến thăm này quan trọng, vào một thời điểm quan trọng, có thể so sánh với chuyến thăm của Bill Clinton, với bài diễn văn nổi tiếng (17/11/2000). Nếu Bill Clinton đã đi vào lịch sử với quyết định bình thường hóa với Việt Nam (11/7/1995), thì hôm nay Barack Obama cũng đi vào lịch sử với quyết định bỏ cấm vận vũ khí, để hoàn tất quá trình đó (23/5/2016).  
Mỹ-Việt: Trở lại tương lai?
Bill Clinton còn quay lại Việt nam nhiều lần, với cương vị cựu tổng thống và chủ tịch quỹ Clinton. Gần đây nhất là khi Bill Clinton tới Việt Nam để dự lễ kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ (2/7/2015), và quan trọng hơn là để chuẩn bị và “hộ tống” Tổng Bí thư Nguyễn phú Trọng sang thăm Mỹ (6-10/7/2015). Hillary Clinton cũng đã thăm Việt Nam nhiều lần, với cương vị phu nhân tổng thống hoặc ngoại trưởng. Ông bà Clinton đã để lại một di sản lớn và những dấu ấn khó quên trong lịch sử quan hệ Mỹ-Việt.
Vậy sau chuyến thăm này, tổng thống Obama sẽ để lại di sản gì cho quan hệ Mỹ-Việt? Có lẽ trong bối cảnh hiện nay, vấn đề then chốt nhất là bỏ hoàn toàn cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Điều đó không những có ý nghĩa hoàn tất quá trình bình thường hóa quan hệ hai nước, mà còn có tác dụng thúc đẩy chiến lược xoay trục (hay tái cân bằng lực lượng) của Mỹ tại Đông Á, vì lợi ích sống còn của hai nước tại Biển Đông.
Trong nhiệm kỳ hai, Tổng thống Obama đã làm được hai việc lớn: Đó là ký thỏa thuận hạt nhân với Iran và bình thường hóa quan hệ với Cuba. Hôm nay, quyết định bỏ nốt cấm vận vũ khí cho Việt Nam có lẽ là một sự kiện quan trọng không kém, để biến Việt Nam thành đối tác chiến lược, và hiện thực hóa chủ trương xoay trục (tái cân bằng lực lượng). Chỉ còn mấy tháng nữa để Obama củng cố vị trí lịch sử của mình tại Châu Á, có thể sánh vai với Bill Clinton, như một chính khách lớn và người bạn lớn của Việt Nam.
Nhận xét về quan hệ Mỹ-Việt 40 năm qua, Patrick Cronin, giám đốc Chương trình An ninh Châu Á-Thái Bình Dương (tại CNAS), cho rằng trong 20 năm hậu chiến (1975-1995), quan hệ Mỹ-Việt đã chuyển đổi từ cựu thù thành bình thường hóa. Trong 20 năm tiếp theo (1995-2015), Mỹ- Việt đã chuyển đổi từ bình thường hóa thành đối tác chiến lược “trên thực tế” (de facto). Vậy trong 10-20 năm tới, quan hệ hai nước là gì, nếu không phải là đối tác chiến lược “thực sự”. Nhưng xét cho cùng thì hai nước cũng chỉ “trở lại tương lai”.
Trong quá khứ không xa lắm, hai nước đã là đồng minh chống phát xít Nhật tại Đông Á. Lịch sử hay lặp lại như một trò chơi tốn kém. Năm 1945, Mỹ đã cử nhóm “Con Nai” (Deer Team) gồm 18 người do thiếu tá Allison Thomas chỉ huy, nhảy dù xuống chiến khu Việt Bắc giúp Việt Minh huấn luyện lực lượng quân sự còn non trẻ. Đại tá Archimedes Patti (1913-1998), tác giả cuốn “Why VietNam”, lúc đó đại diện cho OSS (Office of Strategic Services) là tiền thân của CIA, đã đến Hà Nội vào năm 1945 khi Hồ Chí Minh lập chính phủ lâm thời và viết Tuyên ngôn Độc lập. Ông Patti đã giúp cụ Hồ sửa Tuyên ngôn Độc lập (giống của Mỹ).
Lúc đó (1945-1946) Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách để bang giao với Mỹ, giống như ông Bùi Viện (1839-1878) đã cố gắng làm trong thế kỷ trước, nhưng không thành (vì những trớ trêu của lịch sử). Theo tư liệu lịch sử, ông Bùi Viện đã hai lần cất công sang tận Washington DC, gặp được tổng thống Ulysses Grant (1873-1875) để cầu viện chống Pháp, nhưng đã bị “nhỡ tàu”. Năm 1978, cơ hội bình thường hóa quan hệ hai nước sau chiến tranh Việt Nam cũng bị “nhỡ tàu” (cho đến năm 1995). Nhìn lại, cái giá phải trả cho việc “nhỡ tàu” nhiều lần, làm mất cơ hội hợp tác chiến lược, là quá lớn đối với cả hai nước. Vậy phải làm thế nào để khi “trở lại tương lai” hai nước không bị “nhỡ tàu” một lần nữa?    
Robert McNamara (cựu bộ trưởng quốc phòng dưới thời John Kennedy) đã thừa nhận sai lầm trong cuốn sách về chiến tranh Việt Nam (In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam, McNamara, Vintage Books, 1996) và ông ấy đã đến Hà Nội gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp để lý giải và hòa giải quá khứ. Muộn còn hơn không. Họ đã cố gắng thanh lý di sản của một cuộc chiến tranh vô nghĩa (do nhầm lẫn).
Ông Phạm Xuân Ẩn (“điệp viên hoàn hảo”) tuy chống Mỹ vì nhiệm vụ của một người yêu nước, nhưng cũng yêu nước Mỹ (với vai trò ký giả của Time magazine). Ông Ẩn là một nghịch lý của một cuộc chiến không đáng có. Đến cuối đời, ông ấy vẫn mong hai nước trở thành bạn và đồng minh. Con ông ấy (Phạm Xuân Hoàng Ân) đã phiên dịch cho chủ tịch nước Trương Tấn Sang và tổng thống Obama trong chuyến thăm Mỹ (24-26/7/2014).     
Obama: Tiếng kèn ngập ngừng?
Theo Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm), Việt Nam đang tách xa dần Trung Quốc, nhưng “không quá xa”, và đang nhích lại gần Mỹ, nhưng “không quá gần”. Nói cách khác, quan hệ Mỹ-Việt tuy đã sang trang (sau chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng), nhưng vẫn như “tiếng kèn ngập ngừng”. Việt Nam vẫn tiếp tục đi dây để giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Hai vấn đề then chốt đang cản trở quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ (là nhân quyền và căn cứ Cam Ranh) vẫn chưa được tháo gỡ.    
Trong khi đó, nhiều người cho rằng Chính quyền Obama đã mắc vào cái bẫy duy trì hòa bình bằng mọi giá và sẽ phải trả giá đắt cho chủ trương này. Thái độ này làm cho Bắc Kinh càng thêm cứng rắn và hành động táo bạo hơn để thay đổi nguyên trạng Biển Đông, biến những gì họ đã chiếm được thành việc đã rồi. Những gì Washington đã làm, gồm những lời tuyên bố suông (rhetoric) và các cuộc tuần tra FONOP “vô hại” (innocent passage) không làm Bắc Kinh chùn bước trong kế hoạch lấn chiếm và quân sự hóa Biển Đông.
Chuyến tuần tra FONOP thứ ba sau khi bị hoãn, đã được USS William Lawrence triển khai (10/5/2016) đi qua đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) chứ không qua đá Vành Khăn (Mischief Reef) và vẫn theo hình thức “đi qua vô hại” (innocent passage). Tuy quyết định này có thể liên quan đến tính toán thời điểm Tòa án Trọng tài Quốc tế ra phán quyết, nó phản ánh tâm lý sợ rủi ro (risk-averse) của tổng thống Obama, muốn tránh mọi tình huống gây ra khủng hoảng với Trung Quốc, trong mấy tháng cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống. Nhưng càng tránh rủi ro thì rủi ro càng tìm đến, với nguy cơ cao hơn. FONOP theo kiểu “đi qua vô hại” không có tác dụng răn đe Trung Quốc, và làm đồng minh và đối tác bất an.   
Việc trì hoãn bỏ cấm vận vũ khí sát thương bằng cách gắn nó với điều kiện cải thiện nhân quyền như một kiểu trao đổi (trade-off) không phải là cách làm hiệu quả, thậm chí còn phản tác dụng (counter-productive). Trong khi Trung Quốc nhảy “Rock n Roll” thì Mỹ-Việt vẫn nhảy “Slow Waltz”, theo “tiếng kèn ngập ngừng”. Trong khi Trung Quốc ráo riết quân sự hóa các đảo họ lấn chiếm và bồi đắp tại Biển Đông (xây dựng các sân bay quân sự và quân cảng, lắp đặt các trạm ra đa và tên lửa hiện đại) biến thành các cứ điểm mạnh, thì Mỹ-Việt vẫn sa vào trò chơi “mèo vờn chuột”, tiếp tục mà cả để đổi chác nhân quyền lấy vũ khí (human rights for arms). Việc này chỉ có lợi cho phái cực đoan và bảo thủ tại Bắc Kinh (và Hà Nội), đồng thời làm vô hiệu hóa chiến lược xoay trục của Mỹ và đồng minh.
Đòi hỏi Việt Nam tôn trọng và cải thiện nhân quyền là cần thiết. Nhưng chấp nhận việc thả tù chính trị nhỏ giọt để đánh đổi lấy bỏ cấm vận vũ khí từng phần, sẽ dẫn đến tiến thoái lưỡng nan (như “catch 22”). Nó chỉ kéo dài sự ngược đãi giới bất đồng chính kiến, và đẩy hàng vạn ngư dân vô tội đến chỗ tuyệt vọng, vì họ bị tàu thuyền Trung Quốc xua đuổi không cho đánh cá tại vùng biển của mình, trong khi bờ biển Miền Trung bị nhiễm độc nặng trong một thảm họa môi trường lớn. Chẳng lẽ đây không phải là vấn đề nhân quyền?
Muốn ngăn chặn Trung Quốc bành trướng tại Biển Đông mà lại sợ làm họ mất lòng thì thật vô lý. Trong khi Trung Quốc bành trướng, thách thức Mỹ và bắt nạt Việt Nam, tại sao họ không sợ làm mất lòng Mỹ hay Việt Nam? Tại sao Mỹ tuần tra FONOP tại Biển Đông lại phải áp dụng innocent passage? (sợ Trung Quốc phản ứng?). Tại sao Viêt Nam không dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế như Philippines (sợ Trung Quốc tức giận?).
Về quan hệ Việt-Trung, Patrick Cronin nhận xét, Việt Nam rất thận trọng không muốn vượt qua “vạch đỏ” (red lines) với Trung Quốc, và Mỹ tôn trọng điều này. Cronin nói “chúng tôi không tìm kiếm căn cứ quân sự”. Trong khi đó Jonathan London cho rằng lãnh đạo Việt Nam không muốn làm “đứt cầu chì” (circuit breaker), để Trung Quốc có lý do phản ứng quá mạnh…Theo Carl Thayer, lý do chính Việt Nam muốn bỏ cấm vận vũ khí là ý nghĩa chính trị tượng trưng, chứ không phải là nhu cầu quân sự cấp bách.
Trong khi đó, Alexandere Vuving lập luận rằng muốn hóa giải sự lưỡng lự của giới quân sự Việt Nam, “Mỹ phải chứng tỏ thiện chí bằng cách bỏ hẳn cấm vận vũ khí”... Làm như vậy sẽ “mở rộng cửa” để hợp tác quân sự chặt chẽ hơn, và để thực hiện bước tiếp theo là tiếp cận căn cứ Cam Ranh. Nếu thường xuyên tiếp cận căn cứ Cam Ranh, “Mỹ sẽ có nhiều lợi thế để duy trì cân bằng lực lượng với Trung Quốc”. Có lẽ, Mỹ cần Việt Nam vì ba lý do chính: (1) VN có vị trí chiến lược quan trọng, (2) VN có căn cứ chiến lược Cam Ranh và quân đội thiện chiến, (3) VN có truyền thống chống Trung Quốc.
John McCain & John Kerry: Không thể thiếu?
Không thể hòa giải và bình thường hóa quan hệ hai nước nếu thiếu vai trò dẫn đầu của TNS John McCain (Chủ tịch Tiểu ban Quân lực Thượng viện) và John Kerry (Ngoại trưởng), cũng như hàng ngàn cựu binh khác (như đại sứ Pete Peterson). Họ đang chiến đấu dũng cảm vì hòa bình và hòa giải, cũng như khi họ chiến đấu dũng cảm trong chiến tranh. Di sản của tổng thống Obama (và Clinton) trong quan hệ Mỹ-Việt không thể tách rời vai trò của John Kerry và John McCain, cùng những người khác. Dù trước đây là thương binh hay tù bình, họ không trở thành “tù binh của quá khứ” (prisoner of the past). Trong chuyến thăm Việt Nam lần này, cùng với Tổng thống Obama, Ngoại trưởng John Kerry sẽ dự lễ khởi công dự án Đại học Fulbright. John Kerry là người bảo trợ cho dự án này ngay từ đầu.
Không phải ngẫu nhiên mà TNS John McCain phát biểu, “Đã đến lúc chúng ta phải chuyển hướng, trong chính sách của Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương…Mỹ cần hành động mạnh mẽ hơn là những cử chỉ tượng trưng tại Biển Đông” (Americda Needs More than Symbolic Gestures in the South China Sea, John McCain, Financial Times, April 12, 2016). John McCain có vai trò chính trong việc vận động bỏ một phần cấm vận vũ khí (năm 2014). McCain lập luận rằng không nên hạn chế việc bán công nghệ quốc phòng cho Việt Nam để đảm bảo an ninh hàng hải, nhưng việc chuyển giao các chủng loại vũ khí khác cần phải xét “từng trường hợp một” (case by case) và gắn với tiến bộ về nhân quyền.
Ngày 18/5/2016, trước chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama, McCain đã khẳng định chuyến thăm của Obama là một bước tiến tích cực nữa trong quan hệ hai nước. Theo McCain, Việt Nam đang nổi lên như “một đối tác quan trọng” của Mỹ tại khu vực, cam kết bảo đảm các nguyên tắc của trật tự châu Á - TBD, trong đó có tự do hàng hải, tự do thương mại và giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế. McCain cho rằng đã đến lúc Mỹ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, một tồn đọng của quá khứ đang cản trở quan hệ hợp tác quân sự. McCain nói, “Chúng ta không thể yêu cầu đối tác đóng góp nhiều hơn trong khi vẫn thực hiện các biện pháp trực tiếp hạn chế khả năng đóng góp của họ”.
Cũng như TNS John McCain, Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter trong một cuộc điều trần tại Thượng viện (28/4/2016) đã lên tiếng ủng hộ việc bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí sát thương cho Viet Nam. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng Việt Nam đã có tiến bộ về vấn đề nhân quyền (so với Saudi Arabia hay Egypt). Bỏ cấm vận vũ khí sẽ buộc Việt Nam thực hiện cam kết về nhân quyền (giống như thực hiện cam kết về TPP). Nếu Viêt Nam vi phạm cam kết thì Mỹ có thể tạm dừng việc chuyển giao vũ khí, và trừng phạt kinh tế những trường hợp vi phạm nghiêm trọng các cam kết như đã thỏa thuận.
Tổng thống Hillary Clinton: Déjà vu?
Chỉ còn mấy tháng nữa, (từ 1/2017), Việt Nam (và Trung Quốc) phải làm quen với tổng thống Hillary Clinton (hay tổng thống Donald Trump?). Ngoài hai ứng cử viên đại diện cho hai đảng, không còn ai khác. Dù ai sẽ sẽ là chủ Nhà trắng, thì cũng phải tiếp thu di sản của ông Obama, để đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông.     
Mặc dù thua Barack Obama trong cuộc đua vào Nhà trắng (cách đây 8 năm) Hillary Clinton đã nhận lời Obama làm ngoại trưởng. Với vai trò ngoại trưởng, Hillary Clinton là kiến trúc sư của chính sách xoay trục (hay tái cân bằng) của Mỹ. Nay ra tranh cử tổng thống lần thứ hai, Hillary Clinton có cơ hội lớn để thắng cử, trở thành tổng thống nữ đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ. Với kinh nghiệm của đệ nhất phu nhân và ngoại trưởng, Hillary Clinton sẽ là một “tổng thống tuyệt vời” (excellent president) như nhận xét của Barack Obama.
Mặc dù Bill Clinton mắc vào bê bối tình dục (trong nhiệm kỳ đầu), nhưng Hillary đã giúp Bill Clinton vượt qua thử thách và trở thành cặp đôi quyền lực (partners in power). Bill Clinton không thể thành công trong hai nhiệm kỳ, nếu thiếu vai trò của Hillary (và ngược lại). Barack Obama và Hillary Clinton từ đối thủ tranh cử (rivals in election) đã trở thành đối tác trên chính trường (partners in politics). Đây là lần đầu tiên một tổng thống đắc cử đã mời đối thủ vừa bị thua cuộc làm ngoại trưởng (và Hillary Clinton đã nhận lời).
Tuy tính cách và tầm nhìn có thể khác nhau, nhưng Barack Obama và Hillary Clinton đã “cộng tác lành mạnh” trong chiến lược “xoay trục sang Châu Á” (mà cả hai đều muốn nhận là tác giả). Họ “nhất trí nhiều hơn là bất đồng”, khác biệt “về phong cách và bản năng, chứ không phải bản chất và nguyên tắc”. Nhưng khi cần phải tranh thủ cử tri, thì Hillary Clinton sẵn sàng né tránh hoặc thay đổi lập trường đối với những vấn đề nhạy cảm (như TPP). Bản năng chính trị thực dụng đó có thể làm nhiều người thất vọng, vì Hillary Clinton “luôn ứng xử như một ứng cử viên”. (“Alter Ego”, Landler, Random house, 2016). 
Trong khi con đường dẫn đến Nhà trắng của Hillary Clinton không bằng phẳng, vì đa số cử tri Mỹ đã chán những nhân vật trong giới quyền lực (establishment), thì Donald Trump cũng mất dần lợi thế ban đầu. Trong khi Hillary Clinton được sự ủng hộ của những nhân vật hàng đầu như Bill Clinton và Barack Obama, thì Donald Trump không được sự ủng hộ của lãnh đạo đảng Cộng Hòa. Trong khi Barack Obama bị ám ảnh bởi vai trò lịch sử, thì Hillary Clinton tính toán mọi nước cờ thực dụng để tiến thân. Obama hiểu rằng di sản của mình phụ thuộc nhiều vào thắng lợi của Hillary Clinton. Vì vậy, họ vừa là đối thủ, vừa là đồng đội.
Trước đây, cử tri Mỹ đã từng tỏ thái độ khi họ ủng hộ “Tea Party”, nhưng dường như tiếng nói của họ chưa được để ý. Vì vậy, lần này họ bỏ phiếu cho Donal Trump trong vòng tranh cử sơ bộ (primary election) như một cảnh cáo mạnh mẽ lãnh đạo đảng Công hòa (cũng như Dân chủ). Nhưng Donald Trump không thể coi sự ủng hộ của cử tri là mặc nhiên và vô điều kiện. Trước đây cử tri Mỹ đã không bầu ứng cử viên độc lập Ross Perot thì nay chưa chắc họ bầu Donald Trump làm tổng thống? Có lẽ đến phút chót, họ mới quyết định xem họ có muốn những rủi ro mà tổng thống Donald Trump có thể đem lại cho nước Mỹ.  
Bài diễn văn về chính sách đối ngoại duy nhất của Donald Trump lấy cảm hứng từ trong quá khứ khi nước Mỹ theo đuổi chủ nghĩa biệt lập (isolationism), chỉ biết đến Mỹ (American first). Quan điểm cổ lỗ sĩ này (của thế kỷ 19) cản trở chứ không thúc đẩy quá trình hòa bình và thịnh vượng trong nước cũng như ngoài nước. Trong thê giới ngày càng phức tạp, nước nào nhiều quan hệ liên kết nhất sẽ là nước mạnh nhất. Nhưng Donald Trump hoài nghi giá trị của các liên minh. Vì vậy, chính sách của Donald Trump sẽ làm cho các liên minh của Mỹ suy yếu và không thể làm cho nước Mỹ vĩ đại được. (Joseph Nye).             
Tham khảo  
1. “How Clinton and Obama tried to run the world while trying to manage each other”, Carlos Lozada, Washington Post, April 29, 2016. Book review of “Alter Ego”, Mark Landler, Random House, 2016
2. “How Trump Would Weaken America”, Joseph Nye, Project Syndicate, May 10, 2016
3. “US Likely to Lift Ban on Arms Sales to Vietnam”, Dan De Luce & Keith Johnson, Foreign Policy, May 9, 2016
4. “Two Myths About the United States and Vietnam: Setting the record straight”, Jonathan Zimmerman, Foreign Affairs, May 19, 2016
5. “America needs more than symbolic gestures in the South China Sea”, John McCain, Financial Times, April 12, 2016
6. “How America Picks Its Next Move in the South China Sea”, Zack Cooper & Bonnie Glaser, Asia Times, May 11, 2016
NQD. 23/5/2016

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 23-5-16

Thứ Ba, 24 tháng 5, 2016

Toàn văn bài phát biểu của Tổng thống Mỹ Obama tại Hà Nội sáng 24/5/2016 (bản dịch của Đại sứ quán Hoa Kỳ)






Trưa 24/5, Tổng thống Barack Obama đã có bài phát biểu trước trước 2.000 trí thức, sinh viên, doanh nhân Việt Nam tại Hà Nội. 



ĐÂY LÀ TOÀN VĂN BÀI PHÁT BIỂU CỦA TỔNG THỐNG OBAMA (Bản địch hoàn chỉnh của Đại sứ quán Mỹ, có đoạn về phong trào bảo vệ cây xanh ở Hà nội và Thích Nhất Hạnh, mà nhiều báo Việt không đăng)
TỔNG THỐNG OBAMA: Xin chào! (Vỗ tay). Xin chào Việt Nam! (Vỗ tay). Xin cảm ơn. Cảm ơn các bạn rất nhiều. Xin cảm ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng nhiệt và lòng mến khách trong chuyến thăm này. Và cảm ơn tất cả các bạn đã có mặt ở đây ngày hôm nay. (Vỗ tay). Chúng ta thấy, tới đây hôm nay là người Việt từ khắp mọi miền của đất nước vĩ đại này, trong đó có rất nhiều bạn trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.

Trong chuyến thăm này, trái tim tôi thực sự xúc động trước tấm lòng nhân hậu vốn nổi tiếng của người Việt Nam. Qua vô số những người đứng xếp hàng trên các con phố, tươi cười và vẫy tay chào, tôi cảm nhận được tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Tối qua, tôi đã đến thăm phố cổ Hà Nội và thưởng thức một vài món ăn đặc sắc của Việt Nam. Tôi đã ăn Bún Chả. (Vỗ tay). Uống một chút bia Hà Nội. Nhưng tôi phải thú thực là đường phố thật đông đúc, cả đời tôi chưa bao giờ thấy có nhiều xe máy đến vậy. (Cười). Vì vậy tôi chưa thử đi qua đường, nhưng có thể sau này khi có dịp tôi quay trở lại, các bạn có thể chỉ cho tôi cách qua đường.

Tôi không phải là Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam trong những năm gần đây. Nhưng tôi là Tổng thống đầu tiên, cũng giống nhiều bạn ở đây, đã trưởng thành sau cuộc chiến giữa hai nước chúng ta. Khi những lực lượng cuối cùng của Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam, tôi mới tròn 13 tuổi. Do vậy lần đầu tiên tôi trực tiếp biết đến Việt Nam và tiếp xúc với người Việt Nam là khi tôi lớn lên ở Hawaii, với cộng đồng người Mỹ gốc Việt đầy tự hào ở đó.

Đồng thời, nhiều bạn ở đất nước này còn trẻ hơn tôi. Cũng giống như hai cô con gái của tôi, rất nhiều bạn sinh ra và lớn lên cả đời chỉ biết một điều – đó là hòa bình và mối quan hệ đã được bình thường hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Do vậy, khi đến đây, tôi đã ý thức về quá khứ, ý thức về một lịch sử đầy khó khăn của chúng ta, nhưng cũng hướng tới tương lai – sự thịnh vượng, an ninh và nhân phẩm mà chúng ta cùng nhau thúc đẩy.

Tôi cũng đến đây với tinh thần trân trọng sâu sắc những di sản lâu đời của Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm, những người nông dân đã vun xới cho mảnh đất này – một lịch sử được hiển hiện qua trống đồng Đông Sơn. Ở khúc ngoặt của dòng sông Hồng là Hà Nội đã có trên một ngàn năm lịch sử. Thế giới đã biết đến và trân quý những tấm lụa và những bức tranh của Việt Nam, đồng thời Văn Miếu còn là một minh chứng cho tinh thần hiếu học của các bạn. Thế nhưng, trải qua nhiều thế kỷ, vận mệnh của các bạn lại thường xuyên bị định đoạt bởi những thế lực bên ngoài. Mảnh đất thân thương này không phải lúc nào cũng là của các bạn. Nhưng giống như cây tre, tin thần bất khuất của người Việt Nam đã được đúc kết trong áng thơ của Lý Thường Kiệt – “Sông núi nước Nam vua Nam ở. Rành rành định phận ở sách trời”.

Ngày hôm nay, chúng ta cũng nhớ tới giai đoạn lịch sử dài hơn giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vốn vẫn thường bị lãng quên. Cách đây hơn 200 năm, khi Thomas Jefferson, người cha lập quốc của chúng tôi, tìm kiếm giống lúa cho trang trại của mình, ông đã tìm đến Việt Nam, mà theo ông, giống lúa ấy “nổi tiếng là trắng, thơm ngon và năng suất cao nhất”. Chẳng bao lâu sau, những tàu buôn Hoa Kỳ đã cập cảng của các bạn để tìm kiếm cơ hội giao thương.

Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, người Mỹ đã đến đây để giúp các bạn trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Khi những chiếc máy bay Hoa Kỳ bị bắn rơi, người Việt Nam đã cứu những viên phi công gặp nạn. Và vào ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, người dân đã đổ ra khắp những phố phường Hà Nội và Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ. Ông đã nói: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Vào một thời điểm khác, việc tuyên bố những lý tưởng chung đó và cuộc đấu tranh tương tự đánh đuổi thực dân của cả hai dân tộc lẽ ra đã có thể giúp chúng ta sớm xích lại gần nhau hơn. Tuy nhiên, sự đối đầu trong Chiến tranh Lạnh và nỗi lo sợ về chủ nghĩa cộng sản đã đẩy chúng ta tới xung đột. Cũng giống như biết bao cuộc xung đột khác trong lịch sử nhân loại, chúng ta một lần nữa đã rút ra một sự thật cay đắng – rằng chiến tranh, cho dù mục đích của mỗi bên có là gì đi chăng nữa, cũng chỉ đem lại những đớn đau và bi kịch.

Ở tượng đài liệt sỹ của các bạn cách đây không xa, và trên bàn thờ của các gia đình ở khắp nơi trong cả nước, các bạn đang tưởng nhớ tới khoảng ba triệu người Việt Nam, cả những người lính và dân thường, ở cả hai phía, đã ngã xuống. Trên bức tường tưởng niệm ở Washington, chúng ta có thể chạm vào tên của 58.315 người Mỹ đã hy sinh tính mạng của họ trong cuộc chiến. Ở cả hai nước, những cựu binh và gia đình của những người đã ngã xuống vẫn đau đáu đi tìm những người bạn và những người thân đã mất. Đúng như ở Mỹ, chúng tôi đã được học, ngay cả khi chúng ta bất đồng về một cuộc chiến, chúng ta cũng phải luôn tôn vinh những người đã đứng trong quân ngũ và mở rộng vòng tay đón họ trở về với lòng kính trọng mà họ xứng đáng được hưởng, chúng ta có thể cùng bên nhau ngày hôm nay, cả người Việt lẫn người Mỹ và cùng thừa nhận những nỗi đau và hy sinh của cả hai phía.

Gần đây hơn, trong hơn hai thập niên vừa qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ to lớn và hiện nay cả thế giới có thể chứng kiến những nỗ lực lớn lao của các bạn. Nhờ đổi mới kinh tế và các hiệp định thương mại, trong đó có hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, các bạn đã hội nhập kinh tế quốc tế, bán hàng hóa của mình khắp nơi trên thế giới. Đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều hơn. Là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực Châu Á, Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình.

Chúng tôi đã thấy những tiến bộ của Việt Nam qua những tòa tháp cao chọc trời và những tòa nhà cao tầng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, qua những trung tâm mua sắm và khu đô thị mới. Chúng tôi đã thấy những tiến bộ như vậy qua những vệ tinh mà Việt Nam đưa vào không gian và qua một thế hệ mới đang được kết nối trực tuyến, khởi nghiệp và điều hành những doanh nghiệp mới. Chúng tôi đã thấy những tiến bộ như vậy qua hàng chục triệu người Việt Nam kết nối trên Facebook và Instagram. Và các bạn không chỉ đăng những tấm ảnh selfies – mặc dù tôi được biết các bạn rất hay chụp như thế – (Cười) – cho đến giờ có rất nhiều bạn đã mời tôi cùng chụp selfies. Các bạn còn nói lên tiếng nói của mình về những vấn đề mà các bạn quan tâm, như bảo vệ cây cổ thụ ở Hà Nội.

Chính sự năng động như vậy đã đem lại những bước tiến thực sự trong cuộc sống của người dân. Ở đây, ở Việt Nam, các bạn đã giảm mạnh tỷ lệ nghèo đói cùng cực, nâng mức thu nhập của các hộ gia đình và giúp hàng triệu người vươn lên trở thành tầng lớp trung lưu ngày càng lớn mạnh. Đói nghèo, bệnh tật, tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ em đều giảm. Số người có nước sạch và điện, số trẻ em trai và trẻ em gái được đến trường, tỷ lệ biết đọc biết viết – tất cả đều tăng lên. Đó là sự tiến bộ vượt bậc. Đó là những thành tựu mà các bạn đã có thể đạt được trong một khoảng thời gian rất ngắn.

Cùng với sự chuyển mình của Việt Nam là sự chuyển biến trong mối quan hệ giữa hai nước. Chúng tôi đã rút ra một bài học từ lời răn dạy của Thiền sư Thích Nhật Hạnh, rằng “Bằng đối thoại chân thành, cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi”. Bằng cách đó, chính cuộc chiến vốn đã chia rẽ chúng ta lại trở thành nguồn cội để hàn gắn. Điều đó đã cho phép chúng ta tìm kiếm những người đã mất tích và cuối cùng đưa họ trở về quê hương. Điều đó đã cho phép chúng ta tháo gỡ bom mìn còn sót lại, vì chúng ta không thể để những đứa trẻ phải mất chân chỉ vì vui chơi ở ngoài trời. Ngay cả khi chúng tôi tiếp tục giúp đỡ những người Việt Nam khuyết tật, bao gồm cả trẻ em, chúng tôi cũng vẫn tiếp tục loại bỏ chất độc da cam – dioxin – để Việt Nam có thể giành lại những mảnh đất của mình. Chúng tôi tự hào về công việc mà chúng ta đã cùng làm ở Đà Nẵng, và mong muốn tiếp tục hỗ trợ những nỗ lực của các bạn ở Biên Hòa.

Chúng ta cũng không nên quên rằng việc hàn gắn giữa hai nước đã có những đóng góp lớn lao của những cựu binh vốn đã từng đối mặt ở hai đầu chiến tuyến. Hãy nhớ tới Thượng Nghị sỹ John McCain, người đã từng là tù binh chiến tranh trong nhiều năm ở đây, đã gặp Tướng Giáp, người đã nói hai nước không nên cứ là kẻ thù, mà hãy làm bạn. Hãy nhớ tới tất cả những cựu binh, cả Việt Nam và Hoa Kỳ, đã giúp chúng ta hàn gắn và gây dựng những mối quan hệ mới. Ít ai có thể làm nhiều hơn thế trong lĩnh vực này qua nhiều năm so với cựu Trung úy Hải quân, nay là Ngoại trưởng Hoa Kỳ, John Kerry, người cũng có mặt ở đây ngày hôm nay. Thay mặt cho tất cả mọi người, xin trân trọng cảm ơn John vì những nỗ lực vượt bậc của mình. (Vỗ tay).

Nhờ những cựu binh đã dẫn đường cho chúng ta, nhờ những chiến binh đã có lòng quả cảm vươn tới hòa bình mà hai dân tộc chúng ta giờ đây đã gần gũi nhau hơn bao giờ hết. Thương mại song phương đã tăng mạnh. Sinh viên và học giả của cả hai bên cùng học hỏi lẫn nhau. Chúng tôi đón nhiều sinh viên từ Việt Nam sang Hoa Kỳ học tập hơn bất kỳ quốc gia nào khác ở Đông Nam Á. Và mỗi năm, các bạn cũng đón ngày càng nhiều khách du lịch từ Hoa Kỳ, bao gồm cả các bạn trẻ người Mỹ đeo ba lô, tới 36 phố phường ở Hà Nội, những cửa hàng ở phố cổ Hội An và cố đô Huế. Cả người Việt và người Mỹ đều có thể đồng cảm với những lời ca của nhạc sỹ Văn Cao – “Từ đây người biết quê người; từ đây, người biết thương người”.

Với tư cách là Tổng thống, tôi đã phát huy những tiến bộ như vậy. Với mối quan hệ đối tác toàn diện mới, chính phủ của cả hai nước đang hợp tác chặt chẽ với nhau hơn bao giờ hết. Và cùng với chuyến thăm này, chúng ta đã đặt nền tảng vững chắc hơn cho mối quan hệ song phương trong nhiều thập niên tới. Xét từ góc độ nào đó, sợi dây dài kết nối hai nước vốn bắt đầu từ Thomas Jefferson cách đây hơn hai thế kỷ đến bây giờ đã kết trọn một vòng. Quá trình đó đã diễn ra qua bao nhiêu năm và đòi hỏi những nỗ lực to lớn. Nhưng giờ đây, chúng ta có thể nói điều mà trước kia khó có thể tưởng tượng nổi: ngày hôm nay, Việt Nam và Hoa Kỳ đã là đối tác.

Và tôi tin rằng kinh nghiệm của chúng ta sẽ là những bài học cho cả thế giới. Vào thời điểm mà nhiều cuộc xung đột dường như vô cùng nan giải, dường như không có hồi kết, chúng ta đã minh chứng rằng trái tim có thể thay đổi và rằng một tương lai khác sẽ đến nếu như chúng ta khước từ làm tù binh của quá khứ. Chúng ta đã cho thấy hòa bình có thể tốt đẹp hơn chiến tranh như thế nào. Chúng ta đã minh chứng rằng tiến bộ và nhân phẩm chỉ có thể được thúc đẩy tốt nhất qua hợp tác, chứ không phải xung đột. Đó là những gì mà Việt Nam và Hoa Kỳ có thể chứng minh với thế giới.

Giờ đây, mối quan hệ đối tác mới của Hoa Kỳ với Việt Nam được bắt nguồn từ một vài chân lý cơ bản. Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, và không có bất kỳ quốc gia nào khác có thể áp đặt ý chí hay định đoạt vận mệnh của các bạn. (Vỗ tay). Bây giờ, Hoa Kỳ có mối quan tâm ở đây. Chúng tôi quan tâm tới sự thành công của Việt Nam. Nhưng mối quan hệ đối tác toàn diện của chúng ta vẫn đang ở giai đoạn đầu. Trong thời gian còn lại trong nhiệm kỳ của mình, tôi muốn chia sẻ với các bạn một tầm nhìn mà tôi tin rằng có thể định hướng cho chúng ta trong nhiều thập niên tới đây.

Trước hết, chúng ta hãy cùng nhau hợp tác để tạo ra những cơ hội thực sự và sự thịnh vượng cho tất cả người dân của mình. Chúng ta biết những thành tố của thành công kinh tế trong thế kỷ 21. Trong nền kinh tế toàn cầu, đầu tư và thương mại sẽ đến bất kỳ nơi nào có pháp quyền, bởi vì không ai muốn phải hối lộ để được khởi nghiệp. Không ai muốn bán hàng hay đi học nếu họ không biết mình sẽ được đối xử ra sao. Trong các nền kinh tế tri thức, việc làm sẽ được tạo ra ở những nơi mà người dân có quyền tự do suy nghĩ, trao đổi ý tưởng và đổi mới sáng tạo. Và mối quan hệ đối tác kinh tế thực sự không phải là chuyện nước này đi khai thác tài nguyên của nước khác, mà là đầu tư vào nguồn lực quý báu nhất của mình – đó chính là con người, kỹ năng và tài năng của họ, cho dù họ sống ở thành phố lớn hay ở làng quê. Và đó chính là mối quan hệ đối tác mà Hoa Kỳ đem tới.

Như tôi đã công bố ngày hôm qua, Peace Corps (Tổ chức Hòa bình) lần đầu tiên sẽ tới Việt Nam, tập trung giảng dạy tiếng Anh. Một thế hệ sau khi những thanh niên Mỹ đến đây để chiến đấu, một thế hệ người Mỹ mới sẽ tới đây để giảng dạy, xây dựng và làm sâu sắc hơn tình hữu nghị giữa hai dân tộc. (Vỗ tay). Một số công ty công nghệ hàng đầu và những cơ sở đào tạo của Hoa Kỳ đang hợp tác với các trường đại học của Việt Nam để tăng cường đào tạo trong lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật, toán và y học. Ngay cả khi chúng tôi tiếp tục đón nhận thêm nhiều sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ học tập, chúng tôi cũng tin rằng các bạn trẻ hoàn toàn xứng đáng được tiếp cận nền giáo dục đẳng cấp quốc tế ngay tại đây ở Việt Nam.

Đó là một trong những lý do chúng tôi rất phấn khởi khi mùa thu này, trường đại học Fulbright Việt Nam sẽ đi vào hoạt động tại Thành phố Hồ Chí Minh – đây sẽ là trường đại học phi lợi nhuận, độc lập đầu tiên của Việt Nam – đó sẽ là nơi có tự do học thuật hoàn toàn và học bổng cho những người có hoàn cảnh khó khăn. (Vỗ tay). Sinh viên, học giả và các nhà nghiên cứu sẽ tập trung vào chính sách công, quản trị và kinh doanh; vào khoa học máy tính và kỹ thuật, và các môn nghệ thuật tự do – mọi lĩnh vực từ thơ của Nguyễn Du, cho đến triết lý của Phan Chu Trinh và toán học của Ngô Bảo Châu.

Và chúng tôi sẽ tiếp tục đồng hành cùng các bạn trẻ và doanh nhân khởi nghiệp, bởi chúng tôi tin rằng khi các bạn có thể tiếp cận các kỹ năng, công nghệ và vốn mà mình cần thì không có gì có thể cản đường các bạn – và điều đó bao gồm cả những phụ nữ tài năng của Việt Nam. (Vỗ tay). Chúng tôi cho rằng bình đẳng giới là một nguyên tắc quan trọng. Từ thời Bà Trưng Bà Triệu đến nay, những người phụ nữ mạnh mẽ và tự tin luôn luôn có thể giúp Việt Nam tiến về phía trước. Bằng chứng rất rõ ràng – tôi nói điều này ở bất cứ nơi nào tôi đến trên khắp thế giới – gia đình, cộng đồng, và các quốc gia đều thịnh vượng hơn khi trẻ em gái và phụ nữ có cơ hội ngang bằng để thành công ở trường học và ở nơi làm việc và trong chính phủ. Điều đó đúng ở mọi nơi và điều đó đúng ở Việt Nam. (Vỗ tay).

Chúng tôi sẽ tiếp tục nỗ lực để giải phóng tối đa tiềm năng của nền kinh tế của các bạn thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ngay tại Việt Nam, TPP sẽ giúp các bạn bán được nhiều sản phẩm hơn ra thế giới và hiệp định này sẽ thu hút đầu tư mới. TPP sẽ đòi hỏi cải cách để bảo vệ công nhân và pháp quyền và quyền sở hữu trí tuệ. Và Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam khi Việt Nam nỗ lực thực hiện đầy đủ các cam kết của mình. Tôi muốn các bạn biết rằng, với tư cách là Tổng thống Hoa Kỳ, tôi ủng hộ mạnh mẽ TPP bởi các bạn còn có thể mua nhiều hơn các sản phẩm có xuất xứ từ Mỹ.

Hơn nữa, tôi ủng hộ TPP bởi những lợi ích chiến lược quan trọng của hiệp định này. Việt Nam sẽ bớt phụ thuộc vào bất kỳ một đối tác thương mại duy nhất nào và hưởng lợi từ quan hệ rộng rãi hơn với nhiều đối tác, bao gồm Hoa Kỳ. (Vỗ tay). Và TPP sẽ củng cố hợp tác khu vực. TPP sẽ giúp Việt Nam giải quyết bất đình đẳng kinh tế, và sẽ thúc đẩy nhân quyền, với mức lương cao hơn và điều kiện lao động an toàn hơn. Lần đầu tiên ở Việt Nam, quyền lập công đoàn độc lập và luật cấm lao động cưỡng bức và lao động trẻ em. Và hiệp định có các biện pháp bảo vệ môi trường mạnh mẽ nhất và những tiêu chuẩn chống tham nhũng cao nhất so với bất kỳ hiệp định thương mại nào trong lịch sử. Đó là tương lai mà TPP mang lại cho tất cả chúng ta, bởi tất cả chúng ta – Hoa Kỳ, Việt Nam và các quốc gia tham gia – sẽ phải tuân thủ các quy định mà chúng ta đã cùng nhau tạo nên. Đó là tương lai dành cho tất cả chúng ta. Vì thế chúng ta phải đạt được hiệp định này – vì sự thịnh vượng kinh tế và an ninh quốc gia của chúng ta.

Tiếp theo, tôi muốn nói đến lĩnh vực thứ hai mà chúng ta có thể cùng hợp tác với nhau, đó là đảm bảo an ninh chung của chúng ta. Với chuyến thăm này, chúng ta đồng thuận về việc đẩy mạnh hợp tác an ninh và tăng cường lòng tin giữa quân đội hai nước. Chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp các khóa đào tạo và trang thiết bị cho Cảnh sát biển Việt Nam nhằm tăng cường năng lực hàng hải của Việt Nam. Chúng tôi sẽ đồng hành để cung cấp hỗ trợ nhân đạo khi xảy ra thảm họa. Với tuyên bố tôi đã đưa ra ngày hôm qua về việc gỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam, Việt Nam sẽ có được sự tiếp cận lớn hơn với trang thiết bị quân sự các bạn cần để đảm bảo an ninh của mình. Và Hoa Kỳ đang thực hiện cam kết của mình nhằm bình thường hóa quan hệ hoàn toàn với Việt Nam. (Vỗ tay).

Nói một cách rộng hơn, thế kỷ 20 đã cho tất cả chúng ta– cả Hoa Kỳ và Việt Nam – thấy rằng trật tự thế giới làm nền tảng cho an ninh chung của chúng ta được hình thành dựa trên những quy tắc và chuẩn mực nhất định. Các quốc gia đều có chủ quyền, bất luận quốc gia đó lớn hay nhỏ, chủ quyền của họ phải được tôn trọng, và lãnh thổ của họ không nên bị xâm phạm. Các quốc gia lớn không nên bắt nạt các quốc gia nhỏ hơn. Các tranh chấp nên được giải quyết một cách hòa bình. (Vỗ tay). Và các thiết chế khu vực, ví dụ như ASEAN và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, nên tiếp tục được củng cố mạnh mẽ. Đó là điều tôi tin tưởng. Đó là điều Hoa Kỳ tin tưởng. Đó là quan hệ đối tác mà Hoa Kỳ mang đến khu vực này. Tôi mong muốn thúc đẩy tinh thần tôn trọng và hòa giải vào cuối năm nay khi tôi trở thành Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm Lào.

Về Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), Hoa Kỳ không là một quốc gia tuyên bố chủ quyền trong tranh chấp hiện nay. Tuy nhiên chúng tôi sát cánh cùng các đối tác để bảo vệ những nguyên tắc cốt lõi, như quyền tự do hàng hải và hàng không, và thương mại hợp pháp không bị cản trở, và cách giải quyết những tranh chấp một cách hòa bình, thông qua các công cụ pháp lý, theo luật pháp quốc tế. Trong tương lai, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bay và đưa tàu thuyền hoạt động ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép, và chúng tôi sẽ ủng hộ quyền của tất cả các quốc gia thực hiện việc làm tương tự như vậy. (Vỗ tay).

Ngay cả khi chúng ta hợp tác chặt chẽ hơn trong những lĩnh vực mà tôi vừa nói đến, quan hệ đối tác của chúng ta còn bao gồm thành tố thứ ba – giải quyết những lĩnh vực mà chính phủ của chúng ta còn khác biệt, bao gồm nhân quyền. Không quốc gia nào là hoàn hảo cả. Hai thế kỷ đã trôi qua, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cố gắng để thực hiện những lý tưởng có từ thời lập quốc của chúng tôi. Chúng tôi vẫn đang giải quyết những bất cập của mình – quá nhiều tiền đổ vào chính trị, bất bình đẳng kinh tế gia tăng, phân biệt chủng tộc trong hệ thống tư pháp hình sự, phụ nữ vẫn không được trả lương ngang bằng với nam giới trong cùng một công việc. Chúng tôi vẫn còn nhiều vấn đề. Và chúng tôi không phải không bị chỉ trích, tôi thú thực với bạn như vậy. Tôi vẫn nghe những lời chỉ trích hàng ngày. Nhưng chính sự giám sát đó, những cuộc tranh luận công khai, chỉ ra những điểm không hoàn hảo của chúng tôi, và cho phép tất cả mọi người có tiếng nói đã giúp chúng tôi phát triển mạnh mẽ hơn, thịnh vượng hơn và công bằng hơn.

Tôi đã nói điều này từ trước– Hoa Kỳ không tìm cách áp đặt mô hình chính phủ của chúng tôi lên Việt Nam. Những quyền mà tôi nói đây, tôi tin rằng không phải các giá trị Mỹ, tôi nghĩ đó là giá trị phổ quát được minh định trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền. Những quyền đó được minh định trong Hiến pháp Việt Nam, khẳng định rằng “người dân có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, và có quyền tiếp cận thông tin, quyền tụ họp và quyền lập hội, và quyền biểu tình”. Điều đó được nêu trong hiến pháp Việt Nam. (Vỗ tay). Vì thế, thực sự vấn đề ở đây là tất cả chúng ta, từng quốc gia, cố gắng áp dụng nhất quán những nguyên tắc này, đảm bảo rằng chúng ta – những người đang làm việc trong chính phủ - thành thật với những lý tưởng đó.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ. Việt Nam cam kết đảm bảo pháp luật của mình sẽ thống nhất với hiến pháp mới và với chuẩn mực quốc tế. Theo quy định của một số luật mới được ban hành gần đây, chính phủ sẽ công khai nhiều hơn về ngân sách và công chúng sẽ có quyền tiếp cận nhiều thông tin hơn. Và, như tôi đã nói, Việt Nam cam kết thực hiện cải cách kinh tế và lao động theo TPP. Vì thế, tất cả đều là những bước đi tích cực. Cuối cùng, tương lai của Việt Nam sẽ được quyết định bởi chính người dân Việt Nam. Mỗi quốc gia có con đường riêng của mình, và hai quốc gia chúng ta có những truyền thống khác biệt, hệ thống chính trị khác biệt và văn hóa khác biệt. Nhưng là một người bạn của Việt Nam, cho phép tôi chia sẻ quan điểm của tôi – tại sao tôi tin tưởng các quốc gia sẽ thành công hơn khi những quyền phổ quát được đảm bảo.

Khi có quyền tự do biểu đạt và tự do ngôn luận, và khi người dân có thể chia sẻ ý tưởng và tiếp cận internet và mạng xã hội mà không bị cấm đoán, điều đó sẽ tạo đà cho đổi mới sáng tạo mà các nền kinh tế cần để có thể vươn lên. Đó là nơi nảy ra những ý tưởng mới. Đó chính là cách thức khởi đầu của Facebook. Đó chính là cách thức mà nhiều trong số những công ty vĩ đại nhất của chúng tôi đã khởi nghiệp – nhờ ai đó có ý tưởng mới. Ý tưởng khác biệt. Và họ có thể chia sẻ ý tưởng đó. Khi có tự do báo chí – khi nhà báo và blogger có thể vạch trần những bất công và lạm dụng – điều đó sẽ buộc các quan chức phải có trách nhiệm và sẽ xây dựng niềm tin của người dân để hệ thống có thể hoạt động. Khi các ứng viên có thể chạy đua vào các vị trí và tranh cử tự do, và cử tri có thể lựa chọn những người lãnh đạo của mình trong các cuộc bầu cử tự do và công bằng thì điều đó sẽ làm cho các quốc gia ổn định hơn, bởi vì người dân biết rằng tiếng nói của họ được lắng nghe và rằng những thay đổi một cách hòa bình là điều có thể. Và điều đó sẽ đưa những con người mới vào hệ thống.

Khi có quyền tự do tôn giáo, thì điều đó không chỉ cho phép người dân được bày tỏ đầy đủ tình yêu và đam mê vốn là giá trị cốt lõi của tất cả mọi tôn giáo lớn, mà còn cho phép các nhóm đức tin phục vụ cộng đồng của họ thông qua trường học và bệnh viện, và chăm sóc người nghèo và người dễ bị tổn thương. Và khi có quyền tự do hội họp – khi người dân được tự do tổ chức xã hội dân sự - thì các quốc gia sẽ giải quyết tốt hơn các thách thức mà chính phủ đôi khi không thể tự mình giải quyết. Do vậy, tôi cho rằng việc thúc đẩy các quyền này không phải là mối đe dọa đối với sự ổn định, mà thực ra là củng cố sự ổn định và là nền tảng cho sự tiến bộ.

Suy cho cùng, việc khát khao có được những quyền này đã thôi thúc người dân trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, đánh đuổi chủ nghĩa thực dân. Tôi tin rằng việc thúc đẩy các quyền này là sự hiện thân đầy đủ nhất của độc lập mà nhiều quốc gia đề cao, bao gồm cả nơi này, ở một quốc gia đã tuyên bố “của dân, do dân và vì dân”.

Cách thực hiện của Việt Nam sẽ khác với của Hoa Kỳ. Và cách thức của mỗi chúng ta cũng sẽ khác với các quốc gia khác trên thế giới. Nhưng có những nguyên tắc căn bản mà tôi cho rằng tất cả chúng ta đều cần phải cố gắng thực hiện và cải thiện. Tôi đã nói điều này với tư cách là người sắp hết nhiệm kỳ, do vậy tôi có lợi thế trong gần tám năm để giờ đây có thể suy ngẫm xem hệ thống của chúng tôi hoạt động như thế nào và tương tác với các quốc gia thế giới ra sao khi mà họ đang không ngừng cải thiện hệ thống của mình.

Cuối cùng, tôi cho rằng, mối quan hệ đối tác của chúng ta có thể ứng phó với những thách thức toàn cầu mà không một quốc gia đơn lẻ nào có thể tự giải quyết được. Nếu chúng ta tiếp tục đảm bảo sức khỏe cho người dân của mình và vẻ đẹp của hành tinh này thì chúng ta phải phát triển bền vững. Những kỳ quan tự nhiên như Vịnh Hạ Long và Hang Sơn Đoòng cần phải được gìn giữ cho con cháu chúng ta. Nước biển dâng đe dọa các bờ biển và giao thông đường thủy vốn là huyết mạch trong cuộc sống của nhiều người Việt Nam. Với tư cách là các đối tác trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, chúng ta cần thực hiện đầy đủ cam kết mà chúng ta đã tuyên bố ở Paris, chúng ta cần giúp những người nông dân và những ngôi làng và người dân mưu sinh bằng nghề cá có thể thích ứng và đem lại nhiều năng lượng sạch hơn đến những khu vực như Đồng bằng sông Cửu Long – vựa lúa của thế giới mà chúng ta cần để đảm bảo lương thực cho những thế hệ sau này.

Và chúng ta có thể cứu sống người dân ở ngoài biên giới của mình. Bằng cách giúp các quốc gia khác nâng cao hệ thống y tế của họ, chúng ta có thể phòng ngừa không để bệnh tật bùng phát trở thành dịch bệnh đe dọa tất cả chúng ta. Khi Việt Nam làm sâu sắc cam kết của mình với lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ tự hào giúp đào tạo các quân nhân gìn giữ hòa bình của các bạn. Và điều quan trọng ở đây là – hai nước chúng ta, từng chiến đấu chống lại nhau, giờ lại sát cánh cùng nhau và cùng giúp nhau đạt được hòa bình. Vì thế, bên cạnh quan hệ song phương của mình, mối quan hệ đối tác còn cho phép chúng ta góp phần hình thành môi trường quốc tế theo hướng tích cực.

Bây giờ, thực hiện được đầy đủ tầm nhìn mà tôi mô tả ngày hôm nay không phải là điều xảy ra một sớm một chiều, và không phải đương nhiên sẽ xảy ra. Có thể sẽ có những thăng trầm trên con đường đó. Sẽ có những lúc xảy ra hiểu nhầm. Con đường đó đòi hỏi nỗ lực bền bỉ và đối thoại chân thành trong những lĩnh vực mà cả hai bên sẽ tiếp tục thay đổi. Tuy nhiên, khi xem xét cả chặng đường lịch sử và những trở ngại mà chúng ta đã vượt qua, tôi đang đứng trước các bạn ở đây ngày hôm nay, rất lạc quan về tương lai chung của chúng ta. (Vỗ tay). Và niềm tin của tôi, lúc nào cũng vậy, luôn luôn bắt nguồn từ tình hữu nghị và khát vọng chung của cả hai dân tộc.

Tôi nghĩ đến tất cả những người Mỹ và người Việt Nam đã vượt qua biển cả mênh mông – trong đó có một số người lần đầu tiên được đoàn tụ với gia đình sau nhiều thập niên – và những người như nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã viết trong ca khúc của mình, đã nối vòng tay lớn để mở tấm lòng của mình ra để thấu suốt trái tim mình và nhìn thấu tình người trong mỗi chúng ta. (Vỗ tay).

Tôi nghĩ đến tất cả người Mỹ gốc Việt thuộc mọi tầng lớp đã thành danh – từ bác sỹ, nhà báo, thẩm phán, công chức. Một trong số họ, được sinh ra ở đây, đã viết cho tôi một lá thư và nói rằng “Ơn Chúa, tôi đã có thể thực hiện được giấc mơ Mỹ…Tôi rất tự hào là người Mỹ nhưng tôi cũng rất tự hào là người Việt Nam”. (Vỗ tay). Và ngày hôm nay, ông ấy ở đây, trở lại mảnh đất sinh thành, bởi vì, như ông ấy đã nói, “niềm đam mê cá nhân” của ông là “cải thiện cuộc sống cho từng người dân Việt Nam”.

Tôi nghĩ tới một thế hệ người Việt Nam mới – với rất nhiều người trong số các bạn, rất nhiều bạn trẻ có mặt ở đây – những người luôn sẵn sàng ghi lại dấu ấn của mình trên thế giới. Và tôi muốn nói với tất cả những người trẻ đang lắng nghe tôi nói rằng: tài năng của bạn, con đường của bạn, những giấc mơ của bạn–trong tất cả những thứ đó, Việt Nam đã có có tất cả những thành tố cần thiết để phát triển. Vận mệnh của bạn là trong tay của bạn. Đây là thời điểm của bạn. Và khi bạn theo đuổi tương lai mà bạn muốn, tôi muốn bạn biết rằng Hoa Kỳ sẽ ở đó bên bạn như là đối tác của bạn và là bạn của bạn. (Vỗ tay).

Và trong nhiều năm tới kể từ bây giờ, khi ngày càng có nhiều người Việt Nam và Mỹ đang học tập với nhau; đổi mới sáng tạo và kinh doanh với nhau; cùng chung tay vì an ninh của chúng ta, thúc đẩy nhân quyền và cùng nhau bảo vệ hành tinh của mình ... tôi hy vọng bạn hãy nhớ lại thời điểm này và ấp ủ hy vọng từ tầm nhìn mà tôi đã đề ra ngày hôm nay. Hay, nếu tôi có thể nói một cách khác – mượn lời của Truyện Kiều mà các bạn đều biết "Rằng trăm năm cũng từ đây. Của tin gọi một chút này làm ghi”. (Vỗ tay).

Cám ơn các bạn. Rất cám ơn các bạn. Cám ơn Việt Nam. Cám ơn. (Vỗ tay).

END12:43 P.M. ICT

Đại Sứ Quán Hoa Kỳ

Hà Nội - Việt Nam