Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Trung Quốc dùng “biện pháp mạnh” để cam kết hòa bình


Những động thái thô bạo gần đây của Trung Quốc trong các cuộc tranh chấp hải đảo với các nước láng giềng như Nhật Bản, Philippines, Việt Nam... cho thấy tuyên bố mới đây của Thứ trưởng Ngoại giao Trương Chí Quân rằng nước ông sẽ dùng đến “biện pháp mạnh” để đáp trả lại “bất cứ động thái nào đe dọa chủ quyền” của Trung Quốc, không chỉ là lời nói suông (xem chi tiết ở đây)

Điều khiến người ta ngạc nhiên là ông Trương đưa ra lời đe dọa dùng “biện pháp mạnh” hầu như cùng một lúc với việc khẳng định nước ông luôn cam kết theo đuổi đường lối ngoại giao hữu nghị, đối tác với các nước láng giềng và trước sau vẫn đi theo con đường phát triển hòa bình.

“Chúng tôi muốn sống trong không khí hữu nghị với tất cả các nước kể cả Nhật Bản nhưng chúng tôi luôn bảo vệ những nguyên tắc cũng như điểm cốt lõi của mình”,  Tân Hoa Xã dẫn lời ông Trương nói. “Nếu bất cứ ai đó muốn thách thức điểm cốt lõi này trên vấn đề chủ quyền thì Trung Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài cách phải đáp trả bằng sức mạnh để loại trừ những phá hoại và trở ngại để tiếp tục vững bước trên con đường phát triển hòa bình,” ông Trương nhấn mạnh.

Có phải ông Trương đang đe dọa nước ông sẽ kiên quyết dùng "biện pháp mạnh" để đảm bảo cho sự "trỗi dậy hòa bình" theo kiểu Trung Quốc của chính bản thân nước này mà bất chấp hòa bình cho khu vực hay cho cộng đồng quốc tế? Liệu có một nền hòa bình không trong tình huống luôn có một kẻ sẵn sàng đấm vào mặt người khác khi các tranh cãi công khai trước bàn dân thiên hạ kẻ đó đã luôn  bị đuối lý và mất đi tính chính đáng?

Vấn đề là các vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố họ có chủ quyền không thể tranh cãi, là vùng biển lịch sử, là “ao nhà” của họ lại chồng lấn và xâm phạm lên chủ quyền của nhiều quốc gia láng giềng khác được ghi nhận trên cơ sở của Công pháp quốc tế về Luật Biển cũng như trên thực tế lịch sử lâu đời.


Trung Quốc thường xuyên tập trận đổ bộ chiếm các đảo trên vùng Biển Đông 

Trung Quốc cũng luôn mồm tuyên bố họ là một quốc gia tôn trọng luật pháp quốc tế và bản thân họ cũng đã ký kết tham gia nhiều công ước về Luật Biển quốc tế, cũng như các Quy tắc về ứng xử trên Biển Đông và nhiều vùng biển lân cận khác.

Song rõ ràng là họ có vấn đề về pháp lý cũng như về bằng chứng, sự thật lịch sử trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên nhiều vùng biển và hải đảo, mà điển hình là trên Biển Đông liên quan tới hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam (tham khảo thêm ở đây).

Nên họ đã buộc phải luôn hành xử theo kiểu “nói một đàng làm một nẻo”. Nếu thực sự là một quốc gia cam kết theo đuổi đường lối ngoại giao hữu nghị, trước sau vẫn kiên trì đi theo con đường phát triển hòa bình vì sao Trung Quốc không chấp nhận các đề nghị giải quyết tranh chấp về lãnh thổ trên biển thông qua các tổ chức tư pháp quốc tế? hoặc thông qua các diễn đàn đa phương khác trên thế giới?

Cổ xúy cho con đường đàm phán song phương riêng lẻ với từng quốc gia có tranh chấp chứng tỏ Trung Quốc biết lợi dụng thế mạnh nước lớn của mình trên bàn đàm phán. Kèm theo đó là “cây gậy và củ cà rốt”. “Cây gậy” chính là các “biện pháp mạnh” mà ông Trương Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc vừa mang ra đe dọa ở phần trên. Còn “củ cà rốt” là các thủ đoạn dùng để mua chuộc, dụ dỗ từng quốc gia có lợi ích riêng biệt để thực hiện chủ trương nhất quán của nước này là lần lượt “bẻ gãy từng chiếc đũa”.

Trong nội bộ lãnh đạo của từng quốc gia có tranh chấp trên biển với Trung Quốc, chiến thuật “cây gậy và củ cà rốt” xem ra cũng không kém hiệu quả cho việc thực hiện ý đồ “lãnh thổ hóa” từng bước và toàn bộ các vùng biển mà nước này đã, đang và sẽ còn dòm ngó. Đặc biệt hiệu quả với những quốc gia mà nền pháp trị hãy còn hoang dã, dân chúng hãy còn khiếp nhược và ngoan ngoãn như những đàn cừu.

Trên thực tế, Trung Quốc đã sử dụng chiến thuật “cây gậy nhỏ” hết sức hiệu quả trong nhiều thập niên qua phối hợp với lời đe dọa sẵn sàng dùng “cây gậy lớn” lấp lo sau lưng, để triển khai “biện pháp mạnh” nhầm áp đảo triệt hạ không thương tiếc đối thủ. Ngày nay, Trung Quốc đang thực sự triển khai kế hoạch phát triển sức mạnh quân sự vượt trội với mục tiêu có đủ khả năng để đẩy lùi Hải quân Mỹ trên các vùng biển mà Trung Quốc đã và đang ngắm nghía ra khỏi các “chuỗi ngọc trai” lần lượt từ thứ nhất tới thứ hai, thứ ba... 

Hành động này của Trung Quốc đã khơi mào cho một cuộc chạy đua vũ trang, mua sắm trang thiết bị quân sự trong thập niên qua của hàng loạt quốc gia Đông Nam Á và thậm chí hiện đã lan rộng ra khắp châu Á - Thái Bình Dương. Các chuyên gia quan ngại, hành động chạy đua vũ trang không chỉ làm gia tăng thêm công suất cũng như nhiệt độ của thùng thuốc súng trong khu vực mà còn tác động xấu tới tốc độ và khả năng phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trong vùng.

Việc triển khai phát triển sức mạnh quân sự cùng với lời tuyên bố “sẵn sàng dùng biện pháp mạnh” để trấn áp các nước nào dám đe dọa lợi ích cốt lõi của Trung Quốc thật sự làm cho cộng đồng quốc tế ngờ vực các tuyên bố và cam kết trỗi dậy hòa bình của quốc gia luôn “nói một đàng làm một nẻo” này.

Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012

Ông Đặng Thành Tâm bất ngờ xuất hiện tại Quốc hội


Sáng nay, ĐBQH Đặng Thành tâm đã bất ngờ có mặt tại nghị trường khi kỳ họp thứ 4, QH khóa XIII bước sang tuần thứ 2.


Sự xuất hiện của ông Tâm đã thu hút sự chú ý của báo chí. Trông ông già đi rất nhiều với mái tóc đầy sợi bạc. Dù cố gắng mỉm cười, bắt tay các vị ĐBQH khác, Tuy nhiên, ông từ chối mọi câu hỏi phỏng vấn, ngoài chủ đề sức khỏe.


Ông Đặng Thành Tâm cho biết đã “khỏe hơn” tuy “bác sĩ vẫn đang tiếp tục theo dõi”. Trả lời câu hỏi của báo chí, ông Tâm nói sẽ cố gắng theo hết kỳ họp. Trước đó, trả lời báo chí ngày 25-10, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết: “Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng đã đồng ý cho ông Đặng Thành Tâm, đại biểu đoàn TP HCM, nghỉ cả kỳ họp thứ tư của Quốc hội vì lý do sức khỏe”.



Đại biểu Đặng Thành Tâm tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII, ngày 29-10-2012. Ảnh: Minh Tuấn (báo Tiền Phong)

Việc ông Tâm xuất hiện đã xóa tan mọi đồn đoán về việc ông “Sang Nhật chữa bệnh” và “sẽ nghỉ hết cả kỳ họp”.

Ông Đặng Thành Tâm là Chủ tịch Tập đoàn Tân Tạo, đại biểu QH TP HCM, và là em ruột của cựu đại biểu QH Đặng Thị Hoàng Yến, đã vắng mặt trong tuần đầu tiên của kỳ họp Quốc hội. Vào ngày Quốc hội khai mạc kỳ họp thứ 4, 22-10, việc ông Đặng Thành Tâm vắng mặt đã được Báo Cựu chiến binh dẫn lá đơn của ông Đặng Thành Tâm gửi Trưởng đoàn đại biểu TP HCM trình bày: Đã sút mất 10 kg “do bị áp lực của nền kinh tế”.

Nguồn Blog Đào Tuấn



Ông Đặng Thành Tâm sáng 29/10/2012 tại kỳ họp Quốc hội (ảnh SGTT)



Ông Đặng Thành Tâm trong kỳ họp Quốc hội trước (ảnh: Hoàng Hà)

Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2012

TBT Đinh Đức Lập "trù úm" dã man người tố cáo ngay trước mặt Mặt Trận

Gần đây, khi tiếp xúc cử tri TP. Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chia sẻ: “Chúng tôi có lỗi lớn, nhưng cô bác anh chị cũng phải nghĩ về trách nhiệm của mình, cùng hệ thống chính trị đấu tranh chống tham nhũng. Chúng tôi hiểu tình hình trù úm người tố cáo là rất ghê gớm. Nhưng vì sợ bị trù úm mà chúng ta không tố cáo thì đất nước này sẽ thế nào? Người ta có thể trú úm một người, một nhóm người nhưng không thể trù úm cả dân tộc này”.

Nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng (bút danh Từ Khôi) là Phó Ban phụ trách Ban Văn hóa Nghệ thuật của báo Đại Đoàn Kết (các chức danh lãnh đạo báo từ phó trưởng ban trở lên theo quy chế tổ chức của báo Đại Đoàn Kết phải được sự phê duyệt của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam).

Bức xúc trước những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật và trái đạo lý của Tổng biên tập Đinh Đức Lập, nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng đã có đơn tố cáo ông Lập gởi đến cáo cơ quan cấp trên có thẩm quyền theo quy định của Luật Tố cáo kể từ tháng 5/2012. Và kết quả là nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng đã bị Tổng biên tập Đinh Đức Lập “trù úm” một cách dã man trong suốt khoảng thời gian vừa qua mặc cho ông Thắng kêu cứu với lãnh đạo của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.

Tóm tắt một số nội dung ông Thắng tố cáo TBT Đinh Đức Lập như sau:

1. Bí thư chi bộ Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết Đinh Đức Lập lạm dụng danh nghĩa của Chi ủy báo Đại Đoàn Kết cố tình báo cáo sai sự thật, lừa dối Ủy Ban Kiểm tra Đảng ủy cơ quan Trung ương MTTQ Việt Nam trong việc xác minh hồ sơ kết nạp Đảng của bà Nguyễn Thị Cẩm Thúy (Trưởng Ban Chuyên đề báo Đại Đoàn Kết).

2. Bí thư chi bộ, Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết Đinh Đức Lập đã ngang nhiên trù dập người tố cáo, vi phạm các hành vi bị nghiêm cấm theo Luật Tố cáo; vi phạm các quyền của người tố cáo về việc được bảo vệ tại nơi công tác, làm việc theo Luật Tố cáo.

3. Tổng biên tập Đinh Đức Lập sai phạm trong công tác tổ chức cán bộ.

4. Bí thư chi bộ Tổng biên tập Đinh Đức Lập vi phạm Quy định số 47-QÐ/TW về những điều đảng viên không được làm.

5. Tổng biên tập Đinh Đức Lập vi phạm nghiêm trọng Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 51/2010/QĐ-TTg ngày 28/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ và lừa dối bạn đọc, lừa đối cấp trên trong việc tổ chức chương trình trao cúp “Tự hào thương hiệu Việt” năm 2011.

6. Đề nghị làm rõ việc “xoá xổ” văn phòng báo Đại Đoàn Kết tại 82 Trần Quốc Toản, TP. Đà Nẵng của Tổng biên tập Đinh Đức Lập.

7. Đề nghị làm rõ việc ông Đinh Đức Lập đã khai hồ sơ như thế nào để được cấp Thẻ nhà báo trong khi trên thực tế ông Lập không đủ tiêu chuẩn để cấp Thẻ nhà báo theo quy định.

8. Đề nghị làm rõ việc ông Đinh Đức Lập đã khai hồ sơ như thế nào để được bổ nhiệm chức danh Tổng biên tập vi phạm các quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm cán bộ quản lý các cơ quan báo chí của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

(Ghi chú: Tại Đại hội Chi bộ báo Đại Đoàn Kết ngày 16/10/2012 ông Đinh Đức Lập đã không còn trong cấp ủy của nhiệm kỳ mới nữa)

Luật Tố cáo của nước CHXHCN Việt Nam tại điều 8 (những hành vi bị nghiêm cấm), khoản 8 và 9 ghi rõ hành vi bị nghiêm cấm như sau: “Cản trở việc thực hiện quyền tố cáo; đe doạ, trả thù, trù dập, xúc phạm người tố cáo; Bao che người bị tố cáo”.

Điều 37 (Bảo vệ người tố cáo tại nơi công tác, làm việc):

1. Người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đang công tác, làm việc tại cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế và các cơ quan, tổ chức khác được bảo đảm vị trí công tác, không bị phân biệt đối xử về việc làm dưới mọi hình thức.

2. Người có thẩm quyền quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động không được phân biệt đối xử về việc làm đối với người tố cáo; không được trả thù, trù dập, đe dọa, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo.

3. Khi người tố cáo có căn cứ cho rằng mình bị phân biệt đối xử về việc làm dẫn đến giảm thu nhập, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền yêu cầu người đã giải quyết tố cáo hoặc người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền quản lý, sử dụng mình có biện pháp xem xét, xử lý đối với người có hành vi đó; người tố cáo là người làm việc theo hợp đồng lao động có quyền yêu cầu tổ chức công đoàn cơ sở, cơ quan quản lý lao động địa phương có biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

4. Khi nhận được yêu cầu của người tố cáo, người có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm tra, xác minh; nếu yêu cầu của người tố cáo là chính đáng thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc yêu cầu người có thẩm quyền áp dụng biện pháp để bảo vệ như sau:

a) Đình chỉ, tạm đình chỉ, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý kỷ luật hoặc quyết định khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo;

b) Khôi phục vị trí công tác, vị trí việc làm, các khoản thu nhập và lợi ích hợp pháp khác từ việc làm cho người tố cáo;

c) Xử lý kịp thời người có hành vi trả thù, trù dập, đe dọa làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo;

d) Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.

Thế nhưng, ngay sau khi biết nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng có đơn tố cáo, TBT Đinh Đức Lập đã ra sức tìm mọi cách đe dọa, trù dập, gây khó dễ trong công tác và  “cấm vận” về tài chính gây thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp đối với ông Nguyễn Mạnh Thắng.

Ngày 20/7/2012, TBT Đinh Đức Lập đã ký Quyết định số 46-QĐ/BBT.ĐĐK quyết định chuyển ông Nguyễn Mạnh Thắng, Phó trưởng Ban Văn hóa Nghệ thuật sang làm Phó trưởng Ban Kỹ thuật quản trị mạng từ ngày 23/7/2012.



Có thể thấy rằng Quyết định 46 nói trên của TBT Đinh Đức Lập đã vi phạm khoản 1, điều 37 của Luật Tố cáo. Theo đó: “Người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đang công tác, làm việc tại cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế và các cơ quan, tổ chức khác được bảo đảm vị trí công tác, không bị phân biệt đối xử về việc làm dưới mọi hình thức”.

Việc điều chuyển công tác nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng sang một ban khác hoàn toàn không phù hợp với khả năng, nghiệp vụ của đương sự là hành vi gây khó dễ, trù úm người tố cáo. Hơn nữa, theo Luật Tố cáo, người tố cáo được “đảm bảo vị trí công tác”, quyết định chuyển công tác ông Thắng có nghĩa là TBT Đinh Đức Lập đã không “đảm bảo vị trí công tác” của ông Thắng, hành vi này của ông Lập đã vi phạm các quy định về bảo vệ người tố cáo của Luật Tố cáo.

Quyết định này của ông Lập cũng vi phạm nguyên tắc tổ chức của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đối với công tác tổ chức cán bộ của báo Đại Đoàn Kết. Việc ông Thắng được bổ nhiệm làm Phó trưởng Ban (phụ trách) Ban Văn hóa Nghệ thuật là có sự phê duyệt theo quy định của Ban Thường trực UBTƯ MTTQ VN. Nay ông Lập tự ý điều chuyển công tác ông Thắng không có sự thông qua của Ban Thường trực là hành vi vượt quá thẩm quyền của ông Lập.

Về Quyết định 46, nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng đã có đơn tố cáo hành vi trù dập của ông Lập và yêu cầu cấp có thẩm quyền có biện pháp bảo vệ người tố cáo (là ông Nguyễn Mạnh Thắng). Nội dung đơn như sau:

Tôi là: Nguyễn Mạnh Thắng – Phó Trưởng Ban Ban Văn hóa – Nghệ thuật báo Đại Đoàn Kết; Ủy viên BCH Công đoàn báo Đại Đoàn Kết – Phụ trách Thanh tra nhân dân; điện thoại: 0989.xxx.xxx. email: tukhoiddk@xxxx.com

Tôi xin được tố cáo, đề nghị khẩn cấp lên các đồng chí một việc sau:

Sáng 20/7/2012, tại cuộc họp cơ quan báo Đại Đoàn Kết, Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết Đinh Đức Lập đã tuyên bố: Chuyển công tác của tôi sang làm Phó ban Kỹ thuật Quản trị mạng ngay từ ngày 23/7/2012. Thứ hai, yêu cầu tôi viết giải trình về việc tại sao lại đọc và photo những bài của báo Người Cao Tuổi có những bài viết phản ánh tiêu cực của anh Nguyễn Xuân Huy, anh Lê Tự và cả chính Tổng biên tập Đinh Đức Lập cho người khác. 

Tôi đã phát biểu: Trong khi nhiều đơn tố cáo của tôi, trong đó có những đơn trực tiếp tố cáo Bí thư chi bộ Tổng biên tập Đinh Đức Lập chưa được giải quyết thì theo Luật Tố Cáo có hiệu lực từ 1/7/2012 do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng ký thì anh Lập không có quyền trù dập tôi, kể cả chuyển công tác. Hơn nữa, Tổng biên tập không tuân thủ dân chủ cơ sở; không tạo điều kiện cho cán bộ phát huy khả năng, sở trường của mình. Cho nên, tôi không chuyển vị trí công tác kể cả khi Tổng biên tập ra Quyết định. Đề nghị anh Lập dừng ngay hành động vi phạm pháp luật. 

Còn về vấn đề thứ hai: Báo Người Cao Tuổi cũng như báo Đại Đoàn Kết và hàng trăm tờ báo khác là tờ báo của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Báo Người Cao Tuổi không phải là một tờ báo phản động, và không được cấp phép. Đề nghị anh Lập không được thóa mạ báo Người Cao Tuổi. Tổng biên tập Đinh Đức Lập đã nói: Báo Người Cao Tuổi viết sai, cho đến giờ chưa có bằng chứng về việc anh Nguyễn Xuân Huy mạo danh Tiến sĩ và Cán bộ Cục Báo chí. Tôi trả lời: Báo Đại Đoàn Kết và Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã có công văn gửi báo Người Cao Tuổi nói việc này phải chờ cơ quan chức năng thẩm tra rõ sự việc. Vì vậy, lời anh Lập nói không phải là Kết luận. Nếu anh Lập cho rằng báo Người cao Tuổi viết sai, anh có thể yêu cầu báo Người cao Tuổi phải đính chính và có thể kiện ra tòa. Việc đọc báo là quyền công dân nên tôi không việc gì phải giải trình.

Chiều 20/7/2012, tôi đã gửi đơn tới các lãnh đạo Đảng đoàn, Ban Thường trực Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Tôi đã đưa đơn trực tiếp cho ông Nguyễn Anh Xuân – Phó Chủ nhiệm Ủy Ban kiểm tra Đảng ủy cơ quan Trung ương MTTQ Việt Nam. Ông Nguyễn Anh Xuân cho rằng: Chưa có chứng cứ vì anh Lập chưa ra Quyết định. Tôi nói: Sự việc cấp bách, tôi yêu cầu anh bảo vệ tôi ngay.

Tôi được biết, chiều 20/7/2012, Phó Chủ tịch Bùi Thị Thanh – Chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm tra Đảng ủy UBTƯMTTQ Việt Nam -  đã điện thoại cho anh Lập đề nghị hủy ngay việc điều chuyển công tác đối với tôi.

Thế nhưng, Tổng biên tập Đinh Đức Lập bất chấp tất cả, quyết nhắm mắt làm liều ra Quyết định ngay chiều 20/7/2012. Trắng trợn hơn, sáng 22/7/2012, anh Lập cho chị Lê Thị Thu Hương – phóng viên Ban Chuyên đề -  đi họp giao ban với tư cách Phụ trách Ban Văn hóa – Nghệ thuật báo Đại Đoàn Kết (tức là trước một ngày như Quyết định của anh Lập). Không biết nhân sự Lê Thị Thu Hương này đã được sự đồng ý của lãnh đạo Đảng đoàn, Ban Thường trực UBTƯMTTQ Việt Nam chưa?.

Là một cơ quan của Nhà nước Việt Nam thì phải chấp hành pháp luật của Việt Nam. Là một cán bộ của Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam thì phải chấp hành chỉ đạo của lãnh đạo UBTƯMTTQ Việt Nam. Tại sao lẽ phải hiển nhiên này lại không được thực hiện tại báo Đại Đoàn Kết?. Phải chăng anh Lập tin tưởng vào một ai đó che đỡ?. 

Bí thư chi bộ Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết Đinh Đức Lập đã coi thường pháp luật, coi báo Đại Đoàn Kết là một quốc gia riêng, tùy tiện thích làm trò gì thì làm. Anh Lập cũng đã coi thường Kết luận của Đảng đoàn MTTQ Việt Nam tháng 6/2012 do đích thân Phó Bí thư Vũ Trọng Kim – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký ký. Kết luận nêu rõ: “Đối với đồng chí Đinh Quang Sơn, kế toán báo Đại Đoàn Kết, mặc dù chưa phát hiện sai sót, tiêu cực nhưng đồng chí Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết cần xem xét, điều chuyển công tác cho phù hợp”.

Việc điều chuyển kế toán Đinh Quang Quang Sơn – Phó Trưởng ban Kế hoạch Tài chính báo Đại Đoàn Kết (cháu ruột của Tổng Biên tập Đinh Đức Lập) là việc cần làm ngay, đề nghị Đảng đoàn nên quy định rõ thời hạn phải điều chuyển. Việc Đảng đoàn yêu cầu không làm lại đi làm điều vi phạm pháp luật, vi phạm Quy định Những điều Đảng viên không được làm thì quả là ngang ngược, chà đạp lên luật pháp, lên tập thể báo Đại Đoàn Kết và lên lãnh đạo UBTƯMTTQ Việt Nam.

Tôi đề nghị các đồng chí bảo vệ tôi, bảo vệ người tố cáo, và chỉ đạo Tổng biên tập Đinh Đức Lập ngay lập tức phải ra Quyết định hủy Quyết định vi phạm pháp luật điều chuyển công tác đối với tôi.

Nếu không xử lý thỏa đáng ngay, tôi sẽ tiếp tục có đơn lên cấp có thẩm quyền.

Kính đơn!
                                                                  Hà Nội ngày 23 tháng 7 năm 2012
                                                                                     Người viết đơn
                                                                                Nguyễn Mạnh Thắng



Điều đáng nói là sau khi có quyết định điều chuyển công tác nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng trái pháp luật; có đơn tố cáo và yêu cầu lãnh đạo MTTQ Việt Nam bảo vệ của ông Thắng... TBT Đinh Đức Lập vẫn ngang nhiên hành xử thô bạo, bằng mọi cách gây khó dễ, trù úm  ông Thắng như chỉ đạo cắt điện, cắt điều hòa, biến phòng làm việc của ông Thắng thành nhà kho chứa đồ phế thải... Nhiều bài báo của ông Thắng gởi về cho tòa soạn có giá trị thông tin và tính thời sự cao đều bị ai đó chỉ đạo gác lại, không cho đăng trên báo Đại Đoàn Kết.


Phòng làm việc của nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng bị biến thành kho chứa đồ phế thải

Kể từ tháng 7/2012, nhá báo Nguyễn Mạnh Thắng đột nhiên bị cắt hết tất cả các khoản thu nhập từ báo Đại Đoàn Kết, kể cả tiền lương cơ bản, phụ cấp chức vụ theo luật định.

Thế nhưng, cho đến ngày 18/10/2012 TBT Đinh Đức Lập mới ký bản Thông báo số 25-TB/BBT.ĐĐK trắng trợn "chính thức" hóa một việc đã rồi xâm phạm quyền và lợi ích của người lao động. 

Trong bản thông báo này ông TBT Đinh Đức Lập cố tình lập lờ đánh lận con đen, cho rằng: “Sau khi đối chiếu với Nghị định của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập (số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2006) và quy chế hoạt động của báo Đại Đoàn Kết, Hội đồng đã biểu quyết 14/14 (100%) nhất trí không trả lương cũng như các khoản thu nhập tăng thêm cho phóng viên (lưu ý: ông Thắng là Phó trưởng ban, không phải là phóng viên, cho tiết sai này cho thấy ông Lập bất chấp sự thật, tự ý hạ cấp chức vụ của ông Thắng ngay trong văn bản giấy trắng mực đen, có chữ ký và dấu đỏ của chính ông - ghi chú của chủ blog) Nguyễn Mạnh Thắng từ ngày 23/7/2012 đến nay, vì lý do ông Thắng đã không thực hiện quyết định của Ban Biên Tập điều chuyển về Ban Kỹ thuật quản trị mạng (Không có ngày công làm việc tại Ban Kỹ thuật quản trị mạng)”.




Trang 2 của Thông báo số 25 ngày 18/10/ 2012 

Về nội dung có liên quan tới ông Nguyễn Mạnh Thắng trong bản Thông báo số 25 ngày 18/10/2012 do TBT Đinh Đức Lập ký, ông Thắng đã có đơn Tố cáo ngày 24/10/2012 như sau:

Tôi là Nguyễn Mạnh Thắng - Phó Trưởng Ban Văn hóa - Nghệ thuật báo Đại Đoàn Kết; Ủy viên BCH Công đoàn báo Đại Đoàn Kết - Phụ trách Thanh tra nhân dân.

Tôi làm đơn xin tiếp tục tố cáo Tổng biên tập (TBT) báo Đại Đoàn Kết Đinh Đức Lập với hành vi trù dập dã man tôi - người tố cáo và đang bị xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, với nội dung dưới đây:

Từ 7/5/2012 đến nay, tôi đã có nhiều đơn tố cáo trực tiếp và liên quan đến cá nhân Bí thư chi bộ TBT Đinh Đức Lập (tại Đại hội chi bộ ngày 16/10/2012, ông Lập đã bị loại khỏi vị trí Bí thư chi bộ). Vì vậy, ông Lập đã ra Quyết định điều chuyển vị trí công tác của tôi sang làm Phó Trưởng Ban Kỹ thuật Quản trị mạng từ ngày 23/7/2012. Điều này vi phạm nghiêm trọng những hành vi bị nghiêm cấm của Luật Tố Cáo. Theo đó, ông Lập không được có hành vi trả thù, trù dập người tố cáo, đồng thời theo luật, tôi được bảo vệ vị trí công tác. 

Thế nhưng, trước, trong và những ngày sau khi bị trù dập, mặc dù tôi đã đề nghị được bảo vệ nhiều lần bằng văn bản nhưng cho đến nay chưa được bảo vệ gì. Ngày 3/10/2012, BCH Công đoàn báo Đại Đoàn Kết có công văn đề nghị Ban Thường vụ Công đoàn cơ quan Ủy Ban MTTQ Việt Nam bảo vệ tôi - người tố cáo và người lao động bị trù dập nhưng đến nay chưa có hồi âm. Vì vậy, ngày 15/10/2012, BCH Công đoàn báo Đại Đoàn Kết tiếp tục có công văn đề nghị lên Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn viên chức Việt Nam bảo vệ tôi.

Khi bị tổ chức Công đoàn báo Đại Đoàn Kết chỉ rõ sai phạm nhưng TBT Đinh Đức Lập thay vì tiếp thu, sửa chữa sai phạm đã ngang ngược dấn thêm một bước trù dập người tố cáo. Ngày 18/10/2012, ông Lập đã ký Thông báo số 25-TB/BBT-ĐĐK: “Thông báo Kết luận của Hội đồng xét lên lương và xem xét chất lượng lao động của một số cán bộ, phóng viên”. Nội dung thông báo có một phần liên quan trực tiếp tới tôi. Đó là việc 14 người trong hội đồng nhất trí 100% biểu quyết không trả lương cũng như các khoản thu nhập tăng thêm cho tôi từ ngày 23/7/2012 đến nay. Bản thông báo này được gửi tới Ban Thường trực Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam, nhưng không gửi cho tôi và cũng không thông báo toàn cơ quan như đã ghi ở phần nơi nhận. Đúng là một việc làm lén lút, mất dân chủ và coi thường pháp luật. Tôi xin gửi kèm theo bản Thông báo Kết luận này.

Đọc văn bản Thông báo, tôi thấy thật nực cười và buồn vì sự ngu dốt, mất nhân tính của ông Lập. Càng buồn hơn khi một người ngu dốt không hiểu luật (hay cố tình bất chấp luật pháp?) không hiểu các trình tự cần thiết để có thể kỷ luật một cán bộ, một người lao động, không hiểu các quy định về văn bản hành chính... lại thêm hành vi mất nhân tính như thế lại được đặt vào vị trí Tổng biên tập một tờ báo có bề dày uy tín và giàu truyền thống như Đại Đoàn Kết.

Đó là chưa kể đến những sự ngu dốt và ác ý khác của ông Lập trong văn bản này.

Với sự ngang ngược ngày một leo thang của ông Lập, tôi kính đề nghị quý vị lãnh đạo sớm có biện pháp bảo vệ tôi - người tố cáo đã và đang bị trù dập dã man, bảo vệ người lao động đang bị tước đoạt các quyền lợi chính đáng. Tôi cũng đề nghị quý vị lãnh đạo, tổ kiểm tra của cơ quan Trung ương MTTQ Việt Nam có Kết quả xác minh những nội dung tố cáo ông Lập mà chúng tôi kính gửi đã quá thời hạn mà chưa được xử lý.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

                                                 Hà Nội ngày 24 tháng10  năm 2012                                                    
                                                                     Người viết đơn    
                                                                 Nguyễn Mạnh Thắng


Rõ ràng là nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng với tư cách người tố cáo đã bị Tổng biên tập Đinh Đức Lập (người bị tố cáo) trắng trợn trả thù, trù úm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thắng. Đây có thể coi là trường hợp điển hình về việc người tố cáo bị trù úm mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đề cập tới ở phần trên. 

Nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng (Phó trưởng ban, phụ trách Ban VHNT của báo Đại Đoàn Kết, một vị trí được Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phê chuẩn) là người đang đứng đơn tố cáo các sai phạm của TBT Đinh Đức Lập ngay lập tức đã bị ông Đinh Đức Lập “trù úm” một cách dã man, bị cắt toàn bộ nguồn thu nhập chính đáng, hợp pháp được luật pháp bảo vệ của người lao động và nhất là xâm phạm quyền được bảo vệ của người đang đứng đơn tố cáo. Có thể nói, ông Thắng đã bị TBT Đinh Đức Lập trù úm dã man ngay trước mặt các vị lãnh đạo MTTQ Việt Nam, chứng tỏ sự lộng quyền, bất chấp pháp luật của ông Lập trong hành xử công vụ.

Hành xử như ông Đinh Đức Lập đối với nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng  không chỉ vi phạm pháp luật quy định liên quan tới quyền lợi, thu nhập, tiền lương của người lao động; xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người đang đứng đơn tố cáo; vi phạm các nguyên tắc tổ chức của Đảng, Nhà nước và Mặt trận mà còn bất chấp, chà đạp đạo lý xã hội trả thù bằng cách dồn đẩy người tố cáo vào bước đường cùng, không còn nguồn tài chính để sinh sống cho bản thân và gia đình họ nữa.

Ngôi sao lại... đang lên !


Mới đây, hãng Ernst & Young nhìn nhận Việt Nam là “ngôi sao đang lên” bất chấp các khó khăn hiện nay. Nhưng Ernst & Young cũng nói so với các thị trường phát triển nhanh khác, Việt Nam là cơ hội đầu tư dài hạn có những rủi ro mà ẩn chứa trong đó là thành công.

Tháng Giêng năm 2008, tờ The Economist cũng từng ví Việt Nam là “ngôi sao đang lên”. Song, tất cả chúng ta đều biết ngay sau đó “ngôi sao” Việt Nam không hề lên được tí nào mà hầu như tất cả mọi mặt từ kinh tế đến an sinh xã hội đều tụt dốc thê thảm. Tới nay, nhiều chuyên gia còn nhận xét sự rơi xuống của “ngôi sao” này có nhiều lĩnh vực hiện vẫn chưa chạm đáy. Có nghĩa là cái sự rơi của “ngôi sao” vẫn còn đang diễn ra trên nhiều bình diện khác nhau.

Ngay sau khi tờ The Economist đăng bài ca ngợi Việt Nam như là “ngôi sao đang lên”, chủ blog này từng có một bài viết đăng trên mục Thời luận báo Đại Đoàn Kết số ra ngày 10/01/2008 với lời cảnh báo dành cho những người cầm cân nảy mực nền kinh tế nước nhà chớ có mà vội vui mừng. Truyền thông quốc tế đôi khi cũng xuất chiêu “dương đông kích tây” và mục tiêu của từng tờ báo, của từng hãng truyền thông vẫn là nhắm vào sự quan tâm của giới độc giả đông đảo nhất của họ.

Tất nhiên, những tờ báo danh tiếng này luôn thận trọng, khi nói Việt Nam là “ngôi sao đang lên” bao giờ họ cũng kèm theo các cảnh báo và đặt ra một số điều kiện để Việt Nam có thể thành “sao” thật sự. Còn khi mà việt Nam trở thành “sao xẹt” băng  ngang qua bầu trời rồi vụt tắt trong chớp nhoáng thì họ sẽ đổ thừa rằng cái đó là tại người Việt Nam, không phải lỗi của các cây bút bình luận chuyên nghiệp và già đời của họ.

He he... Vì vậy mà giờ đây khi Ernst & Young nhìn nhận Việt Nam là “ngôi sao đang lên”, thiết nghĩ chúng ta cũng nên hiểu nội hàm của nhận xét này trong một bối cảnh hết sức phức tạp. Và các nhà lãnh đạo sính thành tích, đang tìm kiếm phao cấp cứu cho nền kinh tế cũng chớ có vội mà mừng.

Sau đây là bài viết châm biếm “ngôi sao đang lên” của chủ blog cách đây 4 năm, ngay sau khi tờ The Economist  tặng cho nền kinh tế Việt Nam cái danh hiệu “ngôi sao đang lên” (để rồi sau đó "ngôi sao" chưa kịp lên đã xìu xuống và rơi tự do cho tới hôm nay).

Thời luận 10-01-2008 (Trên báo Đại Đoàn Kết):

‘NGÔI SAO ĐANG LÊN”!

Tờ The Economist mới đây đã ví Việt Nam như là một “ngôi sao đang lên” khi nói về kết quả của sự “trổi dậy” sau 22 năm đổi mới. Theo đó, nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng mở cửa nhiều hơn với thế giới và bước đi dài nhất trong quá trình hội nhập là trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việt Nam đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của mình trong chuỗi mắt xích thương mại châu Á và thu hút ngày càng nhiều hơn sự quan tâm của các nhà đầu tư hàng đầu trên thế giới. Tạo ra một sự chuyển dịch mới về dòng chảy của vốn đầu tư trong khu vực.

Những nhìn nhận rất lạc quan về hình ảnh Việt Nam ngày nay cho thấy sự quan tâm và thiện cảm của cộng đồng thế giới khi dõi theo những bước phát triển của Việt Nam thời gian qua. Tuy nhiên, theo rất nhiều chuyên gia, Việt Nam cũng chỉ đang đi những bước đầu tiên trên con đường phát triển. Xét trên góc độ dân số, Việt Nam là một nước lớn thứ 13 trên thế giới. Nhưng trên góc độ GDP, Việt Nam vẫn còn là một quốc gia nhỏ và nghèo. 

Sự lạc quan chỉ giúp chúng ta tự tin hơn để tiếp tục có những bước đi chắc chắn và định hướng đúng trong tương lai chứ không thể trở thành cứu cánh cho cả quá trình tăng trưởng. Lịch sử đã từng minh chứng, mỗi khi các nhà lãnh đạo tự mãn về thành tích, ngủ say trên chiến thắng thì ngay lập tức cả dân tộc phải trả giá.

“Ngôi sao đang lên” còn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề để có thể tỏa sáng đúng như tiềm năng và sự khát khao của cả dân tộc. 

Năm 2007 cho thấy rõ những lực cản và sự khiếm khuyết của nền kinh tế Việt Nam khiến nó có nguy cơ thiếu bền vững. Tỷ lệ lạm phát cao hơn mức tăng trưởng và tốc độ tăng giá của hầu hết các mặt hàng thiết yếu đã tạo nên sự bất ổn trên thị trường cũng như trong đời sống của mỗi gia đình. Cơ sở hạ tầng mà đặc biệt là hệ thống giao thông ngày càng trở nên quá tải, là vấn nạn hàng đầu của những vùng trọng điểm phát triển. 

Sự thiếu hoàn thiện của hệ thống pháp lý và nền hành chính nặng nề, kém hiệu quả khiến cho tham nhũng và lãng phí trở nên phổ biến gây nên sự trì trệ, chán chường trong tâm thức của dân chúng cũng như của nhiều nhà đầu tư. Chữ “nhẫn” trở thành một trong những slogan hàng đầu cho mọi ứng xử của dân chúng mà đặc biệt là với giới doanh nhân, ngay cả với những nhà đầu tư nước ngoài mỗi khi phải tiếp cận với giới công quyền.

Một đất nuớc có trên 70% dân số sinh sống ở vùng nông thôn và trong số đó có đến khoảng 70% là những hộ thuần nông. Tức là chỉ biết gắn bó với đồng ruộng bằng các phương thức cổ truyền từ đời này sang đời khác. Đầu tư cho nông nghiêp và phát triển nông thôn hàng năm chỉ chiếm khoảng trên duới 10% tổng ngân sách quốc gia. Hầu hết các khoản phúc lợi, an sinh dành cho khu vực nông thôn lại được mang đến từ các nguồn quỹ nhân đạo quốc tế. 

Chính sách quốc gia về phát triển nông thôn hiện vẫn chưa thực sự mang lại những lợi ích hữu hiệu cho chính người nông dân cũng như các thế hệ con cái của họ mai sau. 

Tình trạng đất đai manh mún, sản xuất thủ công vẫn đang phổ biến như hàng trăm năm qua. Hệ thống pháp lý về đất đai không tạo điều kiện cho những người có khả năng tích tụ nguồn tài nguyên đặc biệt giàu có này để phát triển sản xuất. Nhưng lại tạo điều kiện cho những người có chức, có quyền chia chác cho nhau, bao chiếm đất đai với số luợng lớn để trục lợi. Không ít dự án quy hoạch treo, chính sách giải tỏa đền bù thiếu công khai, dân chủ, không mang lại hiệu quả cho xã hội mà chỉ nhằm phục vụ lợi ích của những người có liên quan khiến cho một bộ phận không nhỏ nông dân bị mất đất, bất an và nhiều vùng đất bị hoang hóa vô thời hạn.

Nguồn nhân lực được đánh giá là dồi dào, phong phú nhưng trên thực tế lại đang thiếu gay gắt lao động có kỹ năng. Không ít dự án đầu tư phải chậm lại hoặc phải hủy bỏ trong thời gian qua vì thiếu nguồn nhân lực chất luợng cao. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực có kỹ năng cao không chỉ là vấn đề của hiện tại mà còn đang là một mảng tối trên bầu trời của “ngôi sao đang lên” khi mà ngành giáo dục vẫn còn đang trong tình trạng loay hoay  tìm cho mình một “triết lý” để hành động. Lợi thế lao động giá rẻ không phải là một tài nguyên vĩnh cữu. Sự chuyển dịch một khối lượng rất lớn nguồn lao động phổ thông, thiếu kỹ năng từ các vùng nông thôn về thành thị còn mang lại những hệ lụy xã hội lâu dài.

“Ngôi sao đang lên” trước tiên là mục tiêu để cả thế giới có cơ hội ngắm nhìn. 

Người xưa có câu “trăm nghe không bằng một thấy”. Lâu nay khi chưa bước chân vào sân chơi toàn cầu, có nhiều người chỉ nghe nhưng chưa nhìn thấy hình ảnh thực của Việt Nam. Nay cuộc chơi đòi hỏi sự công khai minh bạch và tôn trọng những thỏa ước chung. 

Thế giới ngắm nhìn, có nghĩa là họ trông chờ những gì mà chúng ta cam kết sẽ trở thành hành động thực sự. Đến khi đó, cuộc chơi mới thực sự bắt đầu bước qua giai đoạn “lắng nghe, ngắm nhìn”… để thăm dò độ tin cậy về lộ trình đi tới các cam kết  của “ngôi sao”.

Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2012

Tái... nạm gầu

Phố mình có anh hàng phở chí thú làm ăn với nghề gia truyền từ đời cụ nội.

Từ lâu, tiệm phở của anh đã vinh dự được dân chán cơm ghiền phở xưng tụng là “Tiệm phở Ngon nhất Sài Thành”.

Nghĩ cũng phải thôi, nghề gia truyền lại chí thú làm ăn, nửa đêm về sáng khi mọi người còn an giấc là đích thân anh chủ tiệm phở lục tục thức dậy ra tận lò mổ để tự tay chọn  thịt mang về chỉ dùng đúng trong ngày.

Do vậy mà thịt của anh rõ là thit ra thịt. Tái, nam, bắp, gầu, gân... các thứ miếng nào ra miếng đó, không chỉ tươi ngon vừa mãn nhãn vừa đã cái miệng mà còn đảm bảo không bao giờ có hàng loại hai. Hay các loại tạp chất linh tinh khác đáng ngờ ngờ vực vực...

Khách chán cơm ghiền phở như mình mê cái tiệm phở của anh ta như mê thuốc lào “đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”. Có những tháng trời sáng trưa, chiều, tối cứ phở, phở và phở ... mà chẳng thấy chán, chẳng cần nghĩ tới cơm, lại cảm nhận thấy sức khỏe ngày một gia tăng, niềm hứng phấn với ẩm thực càng thêm rạo rực... 

Khách tới,  nhiều ông bà chỉ cần ngồi cười khà khà nhìn mặt là chủ tiệm biết phải làm ngay một món vừa y cái bụng của khách, cấm có sai, trăm người như một.

Quả là anh hàng phở chí thú làm ăn, giữ gìn nghề nghiệp gia truyền, quan tâm chu đáo tới thượng đế nên ngày một ăn nên làm ra vì đã thực sự mang lại niềm vui vẻ,  hạnh phúc, ấm  no cái bụng cho bao kẻ chán cơm ghiền phở...

Cái tiệm tái nạm gầu gân “Ngon nhất Sài Thành” nằm ngay trên con đường tấp nập nhất thành phố ngày nọ đột nhiên bị... tái cấu trúc. 

Một anh chàng khác tự xưng có nghề gia truyền từ đời cố tổ, xuất phát từ một vùng quê làng nghề bậc nhất Việt Nam lò mò tới mở ngay cái tiệm phở ngay bên tả với tấm bảng “Tiệm phở Ngon nhất Việt Nam”.

Ít lâu sau, một gã khác vỗ ngực  tự xưng là con ông cháu cha trong nghề lại xuất hiện mở thêm một tiệm phở mới nữa ngay bên hữu và trương ngay tấm bảng “Tiệm phở Ngon nhất Thế giới”.

Trên cùng một con đường bi giờ có tới 3 tiệm phở lần lượt là Ngon nhất Sài Thành; Ngon nhất Việt Nam và Ngon nhất Thế giới. Chẳng biết đâu là lần nữa, làm cho giới chán cơm nghiền phở như mình khá là hoang mang, bối rối...

Anh chủ tiệm phở “Ngon nhất Sài Thành” buồn bã sinh bệnh.

Thằng cháu lo lắng chẳng biết nhờ ai mách nước nó chạy xuống tận Chắc Cà Đao  cầu viện Thày Tư Bảy Núi.

Chả hiểu Thày Tư nói năng chi với nó mà thấy ngay sau khi nó trở về là anh chủ tiệm phở “Ngon nhất Sài Thành” bỗng dưng khỏi bệnh.

Ngay ngày hôm sau tiệm phở của anh được “tái cấu trúc” bằng tấm bảng hiệu mới toanh, to đùng: “Tiệm phở Ngon nhất Con đường này”.

Thứ Năm, 25 tháng 10, 2012

Bài học tồn vong từ thảm họa



Mọi giàu sang vô nghĩa
Nếu dân tộc diệt vong

Đối với đất nước mặt trời mọc, 05/05/2012 là một ngày đặc biệt: Lò cuối cùng trong số 54 lò điện hạt nhân của Nhật Bản ngừng hoạt động. Một số lò phải ngừng vĩnh viễn. Một số lò đang được kiểm tra an toàn. Số còn lại đã qua kiểm tra an toàn, nhưng vẫn chưa được hoạt động trở lại, vì còn bị nhân dân và chính quyền địa phương phản đối. Như vậy, sau 46 năm kể từ khi dòng điện hạt nhân đầu tiên được hòa vào lưới quốc gia, mạng điện Nhật Bản lại sạch điện hạt nhân[1].  Hàng ngàn người Nhật đã tuần hành trên đường phố Tokyo để chào mừng sự kiện này[2].  Họ đại diện cho đông đảo người dân Nhật có xu hướng chống lại điện hạt nhân. Khảo sát của GlobeScan cho thấy: Tỷ lệ chống xây dựng lò phản ứng hạt nhân mới tại Nhật Bản đã tăng từ 76% vào năm 2005 lên 84% vào cuối năm 2011[3].  Nhưng niềm vui của họ kéo dài không lâu. Sau một thời gian vận động ráo riết, trong cuộc họp với một số bộ trưởng chủ chốt sáng ngày 16/06/2012, Thủ tướng Yoshihiko Noda đã công bố quyết định cho khởi động lại hai lò phản ứng số 3 và 4 của nhà máy điện hạt nhân Oi tại tỉnh Fukui vào đầu tháng 07/2012[4].  Quyết định này đã làm đa số người dân Nhật Bản thất vọng. Theo thăm dò dư luận của Mainichi, 71% số người được hỏi ý kiến chống lại việc vội vã tái khởi động nhà máy điện hạt nhân Oi, trong khi chỉ có 23% là đồng tình ủng hộ[5]. Vậy là thiểu số lại thắng đa số. Còn lẽ phải thì thuộc về ai? Để trả lời câu hỏi này, và quan trọng hơn là để trả lời câu hỏi có nên xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam hay không, ta hãy cùng nhau đúc kết một số bài học từ thảm họa Fukushima.


Phượng hoàng trụi cánh

Lò phản ứng hạt nhân thương mại đầu tiên của Nhật Bản mang tên Tokai-1, được xây dựng từ năm 1961, hòa lưới điện từ cuối năm 1965 và phát điện trong 33 năm[6].  Từ đó đến nay, nhiều nhà máy điện hạt nhân được xây dựng trên đất Nhật Bản, nhất là sau khi năng lượng hạt nhân được xác định chiếm vị trí ưu tiên chiến lược quốc gia vào năm 1973. Đầu năm 2011, 50 lò phản ứng hạt nhân với tổng công suất khoảng 45 GWe đã sản xuất gần 30% tổng điện năng quốc gia. Theo kế hoạch trước đây, tỷ trọng điện hạt nhân ở Nhật Bản sẽ tăng lên 41% vào năm 2017 và 53% vào năm 2030[7].

Nhật Bản có thừa năng lực tài chính, công nghệ và nhân lực để đạt được mục tiêu kể trên. Hẳn không ai nghi ngờ về điều đó, sau khi đã chứng kiến dân tộc Nhật Bản như phượng hoàng, vùng dậy từ đống tro tàn của Đại chiến Thế giới lần thứ 2, vươn lên một cách kỳ diệu và nhanh chóng trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai trên thế giới. Thế nhưng, tương lai quốc đảo khựng lại, rồi đột ngột ngoặt sang hướng khác, sau phút giây định mệnh ấy...

Đúng 14 giờ 46 phút 23 giây ngày 11/3/2011, trận động đất mang tên Tohoku bắt đầu xảy ra[8]. Sau 23 giây, sóng áp lực lan tới nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi của TEPCO (Tokyo Electric Power Company), nằm cách tâm chấn 163 km. Động đất làm hỏng một số thiết bị của trạm biến thế, khiến mất nguồn cấp điện từ bên ngoài, và các máy phát điện dự phòng tự động khởi động[9]. Động đất cũng gây ra nhiều hư hại ở các lò phản ứng. Tại nhà lò số 1, đường ống bị vỡ và nước phụt ra[10], một hệ thống làm lạnh khẩn cấp tự khởi động lúc 14h52, nhưng sau 11 phút thì tắt ngấm[11].  Tại nhà lò số 3, một hệ thống đường ống chính và một bộ phận làm lạnh khẩn cấp bị hư hại...[12].  May mà lò phản ứng số 5 và 6 đang ngừng hoạt động để bảo dưỡng định kỳ, nên mức độ thiệt hại giảm đáng kể[13].

15h35, tức là 49 phút sau khi động đất bắt đầu, một cơn sóng thần cao khoảng 14–15 mét ập đến nhà máy Fukushima Daiichi và trùm lên cả 6 lò phản ứng hạt nhân[14]. 6 phút sau các máy phát điện dự phòng ngừng hoạt động. Ác quy dự phòng nếu không bị trục trặc thì cũng chỉ cấp điện trong một thời gian ngắn. Xe phát điện từ xa không đến được bởi tắc nghẽn giao thông[15].  Khoảng 70 xe phát điện của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản và của một số cơ sở lân cận được điều động tới, nhưng bị chựng lại trước hiện trường ngổn ngang đổ vỡ. Đấu vào trạm điện không được vì đang bị ngập nước, nối ra xa cũng không xong vì dây điện mang theo quá ngắn. Sau khoảng 24 tiếng đồng hồ, kể từ khi thiên tai xảy ra, đường nối giữa một xe phát điện và lò phản ứng số 2 mới được thiết lập, nhưng sau chốc lát đã bị cắt đứt bởi vụ nổ khí hyđrô trong lò số 1. Hai ngày sau, những mảng bê tông bắn ra từ vụ nổ khí hyđrô ở lò số 3 lại làm hư hại một số xe phát điện. Tận ngày 21/03/2011, tức là sau 10 ngày vật lộn, họ mới nối được nhà máy Fukushima Daiichi với mạng điện công cộng[16].

Do mất điện và một số máy móc đã bị động đất, sóng thần làm hỏng, hệ thống làm lạnh bị tê liệt. Nhiệt độ trong lò phản ứng và trong bể đựng nhiên liệu hạt nhân (spent fuel pool - bể chứa nhiên liệu đã qua sử dụng) tăng vụt, làm nước bay hơi nhanh, khiến nhiên liệu hạt nhân bị phơi trần. Trong lò phản ứng số 1, chỉ sau 5 tiếng đồng hồ kể từ khi động đất, nhiên liệu hạt nhân đã bị phơi trong không khí. Suốt 6 giờ liền, nhiệt độ bên trong bó nhiên liệu lên đến 2.800°C. Các bó nhiên liệu hạt nhân nóng chảy trong 16 giờ, rơi xuống và khoét thủng đáy bể áp lực (reactor pressure vessel)[17],  rồi rơi tiếp xuống nền bể chứa (containment vessel) và khoét một hố sâu khoảng 70 cm trong lớp bê tông dày 7,6 m. Nhiên liệu hạt nhân trong hai lò số 2 và 3 cũng rơi vào tình trạng tương tự: Bị hư hại và nóng chảy, một phần rơi xuống đáy bể áp lực, một phần rơi xuống nền bể chứa[18].

Khi trực thăng chở Thủ tướng Naoto Kan hạ cánh ở Fukushima (07h11 ngày 12/03/2011), thì khoảng 5 tiếng đồng hồ đã trôi qua, kể từ lúc Chính phủ ra lệnh TEPCO phải xả áp (venting) từ lò phản ứng. Nghe tin việc đó chưa được tiến hành, ông hét lên: “Vẫn chưa xả áp sao?”[19]. Thủ tướng Kan sốt ruột như đang ngồi trên lửa, bởi ý thức được rằng chậm phút nào nguy phút ấy, vì áp suất trong bể chứa đã lên quá cao. Lúc 02h30 ngày 12/3/2012, áp suất trong bể chứa của lò số 1 đã lên đến 840 kPa tuyệt đối, trong khi nó chỉ được thiết kế cho áp suất vận hành tối đa là 427 kPa tương đối (tương ứng với 528,3 kPa tuyệt đối). Nếu không nhanh chóng xả bớt khí nén để giảm áp suất thì tai họa khôn lường. Hiển nhiên, khi xả áp thì một lượng lớn phóng xạ sẽ bị tung ra môi trường. Nhưng nếu không chủ động xả áp, thì hậu quả còn có thể khủng khiếp hơn nhiều.

Gấp gáp như vậy, nhưng không thể tiến hành xả áp ngay lập tức, vì phải đợi đến lúc sơ tán xong những người dân đang sinh sống trong quận Okuma, nơi nhà máy tọa lạc. Vả lại, mọi người còn đang lúng túng, không tìm được tài liệu hướng dẫn cách mở van xả áp bằng tay trong hoàn cảnh mất điện, nên đành phải đoán mò để lên phương án hành động. Hơn nữa, không thể dễ dàng phái người lao vào khu vực tối mò, không liên lạc được với bên ngoài, và ô nhiễm phóng xạ vượt quá giới hạn cho phép con người trụ lại lâu. Chỉ còn cách là huy động một số người cảm tử, được trang bị mỗi quần áo chịu lửa, bình dưỡng khí cá nhân và đèn pin, rồi mò mẫm đi vào chốn hiểm nguy, với tinh thần “lần cống hiến cuối cùng” và phương châm “tùy cơ ứng biến”. Sau khoảng 12 tiếng đồng hồ kể từ khi Chính phủ ra lệnh xả áp và 5 tiếng từ khi nhóm cảm tử đầu tiên xuất phát, vượt qua bao hiểm nguy và trắc trở, họ mới nối được máy nén khí di động với một van xả áp vận hành bằng khí nén vào lúc 14h00, và 30 phút sau áp suất trong bể chứa của lò số 1 mới có dấu hiệu giảm xuống[20]. Kết quả xả áp muộn mằn đã hạn chế đáng kể nguy cơ rình rập, nhưng không ngăn kịp vụ nổ xảy ra lúc 15h36, gây ra bởi khí hyđrô, từ bể chứa thoát ra qua các khe tiếp nối, và tích tụ quá nhiều trong nhà lò (reactor building)[21].

Hai vụ nổ tiếp theo xảy ra lúc 11h01 ngày 14/03/2011 tại lò số 3 [22]  và lúc 06h20 ngày 15/03/2011 tại lò số 2[23].  Trước đó công nhân cũng đã tìm cách mở van để xả áp ở hai lò ấy, nhưng có van thì không tiếp cận được vì phóng xạ nơi đó quá cao, van tiếp cận được thì lại không mở được hoặc mở mãi mới ra, có van mở được một lúc thì nó lại tự động đóng. Phải nói thêm rằng các van an toàn này, do Tập đoàn General Electric của Mỹ chế tạo, đã được thiết kế để có thể mở bằng tay, nhưng trên thực tế thì những thiết bị được cam đoan là hoàn hảo ấy đã phản chủ. Thất bại này không chỉ làm cho phía Nhật choáng váng và phải trả giá quá đắt, mà cơn sóng sốc tâm lý còn lan sang cả Mỹ, bởi hai nước này có nhiều nhà máy điện hạt nhân sử dụng những công nghệ tương tự như ở nhà máy Fukushima Daiichi[24].

Trong hai ngày đầu, cả Chính phủ và TEPCO đều chỉ tập trung chống chọi với sự cố trong các lò phản ứng, và bỏ qua các bể đựng nhiên liệu. Đó là nơi lưu trữ những bó nhiên liệu hạt nhân đã sử dụng xong, nhưng nhiều khi cũng có cả những bó nhiên liệu đang sử dụng dở hoặc còn mới nguyên. Khi mực nước làm lạnh trong bể tụt xuống, các bó nhiên liệu hạt nhân phơi ra không khí và bị hư hại vì quá nóng. Nguy hiểm hơn nữa là phóng xạ từ các bể này dễ thoát ra môi trường, vì chúng không nằm trong khu vực được bảo vệ kỹ lưỡng như lò phản ứng. Tại bể đựng nhiên liệu của lò số 4, nhiệt độ vào sáng 14/03/2011 tăng lên 84°C,[25]  và khoảng 06h00 sáng ngày 15/03/2011 thì xảy ra một vụ nổ[26].

Có dư luận phê phán TEPCO đã sao nhãng, quan tâm quá muộn tới các bể đựng nhiên liệu. Nhưng thực ra, trước đó TEPCO hoàn toàn bị mắc kẹt với việc ứng phó tại các lò phản ứng, không còn dư lực lượng để lo việc khác.[27]  Trong thời gian đầu, TEPCO chỉ huy động được 400 người, quá ít để có thể đồng thời chống chọi với sự cố ở 6 lò phản ứng. Vì sao? Điều tra của IAEA (International Atomic Energy Agency – Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế) phát hiện ra một thực tế trần trụi là: Giữa một đất nước đầy thiên tai như Nhật Bản, mà chưa có một kế hoạch ứng phó trong trường hợp sự cố hạt nhân diễn ra đồng thời tại nhiều lò khác nhau, như ở nhà máy Fukushima Daiichi[28].

Tai nạn điện hạt nhân diễn ra quá nhanh, khiến con người không phản ứng kịp. Bộ máy quản lý lại quan liêu, kềnh càng và trở nên quá chậm chạp. Để minh họa, chỉ cần nhắc lại ví dụ về tiến trình ra quyết định sử dụng nước biển làm lạnh. 14h53 ngày 12/3/2011, phải dừng bơm nước vào lò phản ứng số 1, do nguồn nước ngọt bị cạn kiệt. 15h18 TEPCO gửi fax cho NISA (Nuclear and Industrial Safety Agency – Cục An toàn Hạt nhân và Công nghiệp Nhật Bản) xin phép dùng nước biển thay thế.[29]  Việc cạn nguồn nước ngọt hoàn toàn không bất ngờ, nhưng TEPCO không thỉnh thị sớm hơn, vì lưỡng lự, sợ rằng nếu bơm nước mặn vào lò phản ứng thì sẽ làm hỏng các thiết bị[30]. Tiếc rằng NISA đã không chuyển ngay bức fax của TEPCO cho văn phòng Thủ tướng. Gần 3 tiếng sau (khoảng 18h), Thủ tướng Naoto Kan mới bắt đầu thảo luận với các bộ trưởng.[31]  20h05 NISA thừa lệnh Thủ tướng, ra quyết định cho phép bơm nước biển vào lò số 1 của nhà máy Fukushima Daiichi[32].  Như vậy là mất khoảng 5 tiếng đồng hồ chờ đợi, kể từ khi TEPCO gửi fax xin phép, cấp trên mới chuẩn y, trong khi lò nóng lên từng giây, từng phút, và một vụ nổ khí hyđrô đã xảy ra tại lò số 1 vào lúc 15h36, tức là chỉ 18 phút sau khi TEPCO thỉnh thị cấp trên. Rõ ràng, không tồn tại một cơ chế xét duyệt và ra quyết định nào có thể theo kịp diễn biến của một tai họa hạt nhân.

Để có thể đưa ra quyết định hợp lý thì phải dựa trên thông tin chính xác. Nhưng khi mất điện, tối mò, nhiều thiết bị đo đạc (áp suất, nhiệt độ, mực nước…) trục trặc, thì các chuyên gia và công nhân có mắt cũng như mù, không thể biết chính xác trạng thái bên trong của lò phản ứng. Họ chỉ có thể phỏng đoán, nói đúng hơn là đoán mò. Hãy nghe cựu Thủ tướng Naoto Kan kể lại:

“Tôi nhận được báo cáo là hệ thống làm lạnh khẩn cấp của lò số 1 vẫn hoạt động và vì vậy nước vẫn ngập 2/3 bó nhiên liệu. Thế nhưng, trên thực tế thì đấy chỉ là điều mà TEPCO và NISA nghĩ là đã diễn ra vào thời điểm đó. Sau này chúng tôi phát hiện ra là họ đã hoàn toàn sai. Thực ra, khoảng 5 tiếng sau khi sóng thần đổ bộ, quá trình nóng chảy đã diễn ra trong lò”.
“Thiết bị đo mực nước chỉ một mức ổn định, vậy là các công nhân nghĩ rằng tình hình bình thường. Nhưng thực ra thiết bị đo mực nước đã bị hỏng”[33].

Với những thông tin hoàn toàn sai thực tế như vậy, thì làm sao có thể quyết định và hành động cho đúng?

Đôi khi thông tin không sai, nhưng lại quá chậm. Như vụ nổ ở lò số 3, vô tuyến truyền hình đã đưa tin, khoảng 1 giờ sau thì TEPCO mới thông báo cho văn phòng Thủ tướng[34].  Thậm chí, nhiều thông tin quan trọng còn bị ém nhẹm hay bị bóp méo. Không khí thiếu tin tưởng bao trùm các bên liên quan, đến mức Thủ tướng phải cử ông Goshi Hosono, một trong những phụ tá tin cẩn nhất, túc trực ở trụ sở TEPCO kể từ sáng sớm ngày 15/03/2011. Một cố vấn của Thủ tướng thổ lộ rằng: Việc cài ông Hosono ở TEPCO là một bước ngoặt, và “lần đầu tiên, chúng tôi biết được TEPCO thảo luận những gì và họ biết những gì”. Một cố vấn khác của Thủ tướng, kỹ sư hạt nhân Masanori Aritomi, nói rằng: Kể cả sau khi đã cắm Goshi Hosono ở TEPCO, tập đoàn này vẫn không hé lộ một số thông tin mấu chốt đến tận giữa tháng 5, bao gồm cả việc công nhận rằng nhiên liệu hạt nhân trong 3 lò phản ứng đã bị nóng chảy[35].  Trong tình hình bị cấp dưới bịt mắt như vậy, thử hỏi làm sao Thủ tướng có thể chỉ đạo được? Ông Kan than vãn là không bao giờ nhận được loại thông tin mà ông cần, và NISA (Cục An toàn Hạt nhân và Công nghiệp Nhật Bản) tỏ ra đặc biệt kém cỏi. “Tôi hoảng sợ và cảm thấy bất lực” – ông Kan đã thú nhận như vậy[36].  Khi tai nạn hạt nhân vừa mới xảy ra thì tất cả các thanh tra của NISA đã cao chạy xa bay, không còn ai lưu lại hiện trường để theo dõi mức phóng xạ. TEPCO thì lúng túng, không nối nổi đường cáp truyền dữ liệu phóng xạ tới Chính phủ, mà họ ngắt ra mấy tháng trước đó để sửa chữa, nhưng rồi quên, không nối lại…[37]  Với một đội ngũ cấp dưới như vậy thì Thủ tướng cũng trơ trọi như tướng không có quân. Các nhà lãnh đạo của các quốc gia đang hoặc sẽ có nhà máy điện hạt nhân nên tham khảo trải nghiệm của cựu Thủ tướng Nhật Bản, để hiểu hơn hoàn cảnh mà mình có thể lâm vào, đặng giảm bớt phần nào ngộ nhận.

Bài học tối thiểu phải rút ra từ đây là: Khi thảm họa điện hạt nhân xảy ra, các cấp lãnh đạo, quản lý khó lòng có nổi những thông tin tối thiểu trong thời gian cần thiết, nên không có cơ sở để đưa ra quyết định hợp lý.

Một trong những khác biệt quan trọng nhất giữa tai họa hạt nhân và các tai họa khác là: Khi tai họa hạt nhân xảy ra thì con người rất khó có thể xông vào để cứu chữa và khắc phục hậu quả, vì hiện trường thường bị nhiễm xạ trầm trọng. Nhiều lần công nhân nhà máy Fukushima Daiichi tìm cách tiệm cận các van để xả áp, nhưng buộc phải rút lui vì mức độ phóng xạ quá cao.

TEPCO đo được độ phóng xạ trên 1.000 mSv/h (> 1.000 millisievert mỗi giờ) ở mặt nước trong tầng hầm của nhà lò số 2 vào ngày 26/03/2011.[38]  Một kết quả đo được trong nhà lò số 1 vào ngày 26/04/2011 là 1.120 mSv/h.[39]  Ngày 03/06/2011, người ta phát hiện thấy có hơi nước thoát ra từ một khe hở trên nền nhà lò số 1, và đo được mức phóng xạ kỷ lục từ 3.000 đến 4.000 mSv/h.[40]  Kỷ lục trên bị phá vào ngày 01/08/2011, khi phóng xạ đo được ở mức tối đa của thiết bị đo là 10.000 mSv/h. Kết quả này thu được tại một đường ống thải nằm giữa nhà lò số 1 và nhà lò số 2, nó đã được dùng để xả áp từ bể chứa của lò số 1 vào ngày 12/03/2011. Ngày 02/08/2011 lại đo được 5.000 mSv/h trong một căn phòng ở tầng 2 của nhà lò số 1[41].

Để mường tượng ý nghĩa của các con số kể trên, lưu ý rằng: Phần lớn các nước quy định mức nhiễm xạ tối đa đối với những người làm việc trong môi trường có phóng xạ là trung bình 20 mSv mỗi năm trong vòng 5 năm, với mức cao nhất là 50 mSv trong một năm. Khi nhiễm xạ từ 100 mSv trở lên thì nguy cơ bị ung thư sẽ tăng rõ rệt. Vốn dĩ, TEPCO dùng mức 100 mSv làm giới hạn trên cho liều nhiễm xạ của công nhân tham gia cứu nạn, nhưng khi thảm họa Fukushima xảy ra thì TEPCO đã nâng giới hạn này lên 250 mSv.[42]  Một nửa số người bị nhiễm xạ từ 3.000 đến 4.000 mSv sẽ bị chết trong vòng 30 ngày, nghĩa là chỉ cần tiếp xúc với nguồn phóng xạ từ 3.000 đến 4.000 mSv/h trong khoảng 1 giờ thì người ta đã rơi vào hoàn cảnh ấy. Khoảng 90% số người bị nhiễm xạ từ 4.000 đến 6.000 mSv sẽ bị chết trong vòng 30 ngày. 100% số người bị nhiễm xạ từ 6.000 đến 10.000 mSv sẽ bị chết trong vòng 14 ngày[43].

Đến ngày 15/03/2011 thì cường độ phóng xạ ở nhà máy Fukushima Daiichi đã lên rất cao. Chẳng hạn, cường độ phóng xạ trong môi trường ngoài trời ở giữa nhà lò số 3 và nhà lò số 4 là 400 mSv/h[44].  Nghĩa là: Chỉ cần trụ trong môi trường đó 15 phút thì đã nhiễm phóng xạ tới mức nguy cơ bị ung thư tăng rõ rệt (100 mSv), sau 37,5 phút thì đã nhiễm xạ tới mức tối đa mà TEPCO mới quy định cho công nhân tham gia cứu nạn (250 mSv), và sau 15 giờ thì không còn cơ hội sống (6.000 mSv). Tình hình vô cùng nguy hiểm, lúc nào cũng bị những vụ nổ tiếp theo đe dọa. Phun nước làm lạnh thì chỉ một phần nhỏ đến được nơi cần đến, lại làm cho hiện trường càng thêm bị lênh láng bởi thứ nước nhiễm xạ trầm trọng. Hoàn toàn tuyệt vọng, TEPCO phải rút hầu hết lực lượng ra khỏi khu vực nhà máy Fukushima Daiichi, chỉ để lại 50 người cảm tử để tìm cách hạn chế thảm họa.

Nhật Bản đã tạm thời tránh được kịch bản tệ hại nhất. Nhưng, xét trên tổng thể, việc thoát khỏi thảm cảnh không phải nhờ vào sự tài giỏi của các nhà lãnh đạo, quản lý, hay của các chuyên gia hạt nhân và công nhân Nhật Bản, mà vì vận may. Nói theo tín ngưỡng, thì là nhờ Thượng Đế vẫn còn cho dân tộc Nhật Bản và thế giới này một cơ hội.

Trên đây chỉ là mấy lát cắt được đơn giản hóa từ khung cảnh hỗn loạn, giúp ta mường tượng chút ít, xem con người ứng xử thế nào và làm được gì khi lâm vào thảm họa hạt nhân. Bằng quyết định rút quân, lãnh đạo TEPCO đã mặc nhiên công nhận cái lẽ giản đơn, mà bấy lâu nay họ vẫn cố tình phủ định: Với thảm hỏa hạt nhân cỡ Chernobyl hay Fukushima, thì con người hoàn toàn bất lực, không có trí tuệ nào có thể chèo chống, không có bộ máy quản lý nào có thể đương đầu, và mọi khả năng công nghệ đều không đủ để chế ngự hoàn cảnh.

Khi lâm nạn hạt nhân, nước Nhật kiêu hãnh cũng trở nên lúng túng như võ sĩ sumo tụt đai, bất lực như phượng hoàng trụi cánh. Vậy thì những nước như Việt Nam sẽ ứng phó thế nào trong hoàn cảnh tương tự?

TEPCO là tập đoàn sản xuất điện lớn nhất Nhật Bản, đang sở hữu 17 lò phản ứng hạt nhân với tổng công suất phát điện là 17.308 MW, chiếm 40% tổng công suất phát điện của toàn tập đoàn[45]  và khoảng 39% tổng công suất điện hạt nhân của Nhật Bản. Mấy chục năm qua, các thế hệ lãnh đạo của TEPCO đã bao lần cam đoan với nhân dân là các nhà máy điện hạt nhân của họ tuyệt đối an toàn, và đem danh dự cùng trách nhiệm ra để thề thốt. Thảm họa Fukushima đã vạch trần sự thật: Những cam đoan bấy lâu nay về an toàn điện hạt nhân chỉ là nói lấy được, hoàn toàn phi thực tế và nằm ngoài khả năng khống chế của những kẻ đại ngôn. Tiếc rằng: Trình độ hiểu biết và ý thức trách nhiệm càng thấp bao nhiêu, thì lời hứa càng hùng hồn bấy nhiêu.

Dù ở bất cứ cương vị nào, thì mỗi người cũng chỉ là một mắt xích trong số hàng vạn mắt xích, tham gia vận hành cỗ máy khổng lồ và quá phức tạp, mà chỉ cần một mắt bị đứt là cỗ máy đã khựng lại, thậm chí có thể nổ tung. Trong lĩnh vực điện hạt nhân, một sai sót cũng có thể khởi động dây chuyền sự cố, dẫn đến thảm họa. Đảm bảo về hành động của bản thân trong suốt 10 năm tới đã là quá khó. Không ai có thể cam đoan rằng một cộng đồng vô cùng đa dạng, gồm hàng nghìn, hàng vạn người mà mình không hề quen biết, sẽ hành động chuẩn mực và hợp lý trong mọi hoàn cảnh, suốt nửa thế kỷ. Không ai có thể cam đoan rằng mọi máy móc, thiết bị sẽ luôn hoạt động hoàn hảo, bất chấp mọi thiên tai, địch họa. Vì vậy, cam đoan điện hạt nhân an toàn là liều lĩnh và hoàn toàn vô trách nhiệm.

Trăm sự tại người

Nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi được xây dựng trên một khu đất vốn dĩ cao 35 mét so với mực nước biển. Theo thiết kế ban đầu của Tập đoàn General Electric thì cần hạ độ cao địa hình xuống tầm 20 mét, nhằm giảm chi phí bơm lượng nước biển khổng lồ để làm lạnh lò phản ứng (chỉ riêng lò số 1 đã cần 20 tấn nước mỗi giây). Nhưng với lối tư duy “hiệu quả kinh tế là trên hết”, rồi ngụy biện rằng “nhà máy điện là nơi sản xuất điện, chứ không phải là nơi tiêu thụ điện”, lãnh đạo TEPCO còn đi xa hơn nữa, đã quyết định thay đổi thiết kế, hạ độ cao của khu vực xây dựng bốn tổ máy số 1 đến số 4 xuống chỉ còn 10 mét trên mực nước biển. Hơn thế nữa, để giảm chi phí xây dựng, TEPCO đã bỏ qua các biện pháp cần thiết để phòng tránh tác hại của sóng thần, mặc dù sóng thần đã nhiều lần đổ bộ vào khu vực này và đã có những đề xuất rất cụ thể của các chuyên gia.[46]  Hậu quả là cơn sóng thần ngày 11/03/2011 đã nhấn bốn tổ máy số 1 đến 4 chìm sâu dưới nước 4–5 mét và hai tổ máy số 5 và 6 chìm dưới nước 1–2 mét.[47]  Với quyết định thực dụng hạ thấp độ cao địa hình xuống mức quá thấp, chính lãnh đạo TEPCO nhấn chìm 6 tổ máy điện hạt nhân, chứ không thể đổ lỗi cho sóng thần.

Khi Hitachi chế tạo thùng lò trị giá 250 triệu USD cho tổ máy số 4 của nhà máy Fukushima Daiichi, thì thành của thùng lò đã bị biến dạng đến hơn 34 milimet. Theo quy định thì phải hủy bỏ, nhưng Hitachi vẫn biến báo sản phẩm này và đưa vào sử dụng. Kỹ sư Mitsuhiko Tanaka là một trong những người đã trực tiếp tham gia phi vụ này và đã được Hitachi thưởng 3 triệu Yên cho công trạng “biến lợn què thành lợn lành”. Sau thảm họa Chernobyl, lo rằng một tai họa hạt nhân tương tự sẽ giáng xuống đầu nhân dân Nhật Bản, Tanaka đã thú nhận với Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản về hành vi sai trái mười năm về trước của Hitachi. Nhưng Hitachi phủ nhận, còn Chính phủ lại từ chối điều tra. May mà lò phản ứng số 4 tạm ngừng hoạt động để bảo dưỡng trong thời gian xảy ra động đất ngày 11/03/2012, nên “quả bom nổ chậm” (theo cách gọi của Tanaka) chưa phát tác[48].

Trong thời gian làm việc cho Tập đoàn General Electric, kỹ sư hạt nhân Kei Sugaoka đã tham gia bảo trì nhà máy Fukushima Daiichi hơn 20 năm. Trong lần kiểm tra vào tháng 8/1989, ông và cộng sự phát hiện một vết nứt lớn trên bộ phận sấy hơi nước trong lò phản ứng, thậm chí nó còn bị lắp ngược. Vì không muốn tốn tiền khắc phục, TEPCO đã thông đồng với phía General Electric để dấu kín chuyện này. Họ buộc ông Sugaoka phải xóa bỏ các đoạn video liên quan cùng mọi chứng cứ khác, và phải ký vào bản báo cáo kiểm tra do TEPCO viết sẵn[49].

Ngoài ba ví dụ vừa kể, còn có nhiều sai sót nghiêm trọng khác bị ém nhẹm để “tiết kiệm” chi phí xây dựng và sửa chữa. Bất cứ công nghệ điện hạt nhân nào, nếu bị triển khai ẩu như vậy, thì cũng không thể có được mức độ an toàn như ý đồ thiết kế.

TEPCO đã ngụy tạo hồ sơ bảo dưỡng nhà máy Fukushima Daiichi suốt mấy thập kỷ và che dấu hàng trăm sự cố. Kể cả sau khi đã bị phát hiện và lãnh đạo TEPCO phải từ chức vào năm 2002, thì tệ nạn đó vẫn tiếp diễn. Trong báo cáo gửi NISA ngày 28/02/2011, TEPCO đã phải thú nhận rằng: Trong 11 năm qua đã không thực hiện kiểm tra định kỳ 33 bộ phận của nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi, trong đó có máy phát điện dự trữ, bơm làm lạnh, van kiểm tra nhiệt độ...[50]  “Đơn giản” như một cái ô tô mà vài năm cũng phải kiểm tra, bảo dưỡng một lần. Vậy mà trốn tránh việc kiểm tra định kỳ hàng loạt thiết bị quan trọng của nhà máy điện hạt nhân trong hơn chục năm, rồi lại còn ngụy tạo hồ sơ bảo dưỡng. Máy móc dự trữ, dùng để thay thế trong những tình huống khẩn cấp, mà suốt mười năm không được quan tâm, thì rất có thể chúng đã bị hỏng từ trước khi có động đất và sóng thần. Thế thì tránh sao nổi tai họa?

Trên đây là mấy ví dụ điển hình về những sai sót trầm trọng của con người trong cả ba khâu thiết kế, chế tạo và vận hành ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi. Chúng chỉ ra rằng, vì lợi nhuận, người ta có thể trở nên liều lĩnh và bất chấp thế nào. Sai lầm tái diễn với tần suất cao, được khuếch đại bởi trí tuệ “điếc không sợ súng” và tính ẩu không tránh khỏi, kể cả với người Nhật.

Sóng thần thường được nhắc đến như nguyên nhân gây ra thảm họa hạt nhân Fukushima. Điều đó khiến dư luận dễ thông cảm hơn với TEPCO và cũng đỡ lo hơn khi nghĩ đến tương lai, vì sóng thần bất thường và hiếm hoi hơn động đất. Nhưng nhiều người lại cho rằng: Không phải sóng thần, mà chính là động đất đã phá hỏng nhà máy Fukushima Daiichi.[51]  Trên thực tế, sau khi động đất xảy ra và trước khi sóng thần ập tới, thì hệ thống làm lạnh đã bị trục trặc[52], kéo theo quá trình nóng chảy nhiên liệu hạt nhân,[53] phóng xạ đã rò rỉ,[54] và còn có nhiều sự cố khác, như đã điểm qua ở phần trước.

Điều gì đã gây ra thảm họa? Dù là do thiết kế sai vì đánh giá quá thấp sức phá hoại của thiên tai, hay do chế tạo và xây dựng sai thiết kế, hay do vận hành và bảo dưỡng sai quy trình, hay do quy trình không hợp lý, thì cũng đều có chung thủ phạm là con người!  Động đất và sóng thần chỉ đóng vai trò xúc tác, vạch trần sai phạm của con người. Dù không có thiên tai, thì sai sót của con người vẫn có thể dẫn đến tai họa hạt nhân, mà thảm họa Chernobyl là một ví dụ điển hình.[55] Trên thực tế, tuyệt đại đa số các tai họa điện hạt nhân xảy ra trên thế giới đều do sai sót của con người và do trục trặc kỹ thuật gây ra[56].

Trong chuyến viếng thăm và xin lỗi dân làng Iitate ngày 01/05/2012, Phó chủ tịch TEPCO Norio Tsuzumi thừa nhận rằng thảm họa hạt nhân Fukushima là do con người gây ra.[57]  Đây không phải là quan điểm riêng của ông Tsuzumi, mà cũng là nhận định của nhiều người am hiểu khác. Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (World Economic Forum) tại Davos, cựu Thủ tướng Naoto Kan, người đã lãnh đạo nước Nhật chống chọi với thảm họa Fukushima, khẳng định rằng[58]:

“Đó không phải là thảm họa do thiên nhiên và cũng không phải do trục trặc kỹ thuật. Thảm họa này do con người gây ra”.

Để minh họa, ông Kan đề cập mấy ý: Thứ nhất, nguy cơ sóng thần đã bị đánh giá quá thấp, nên mới có chuyện hạ địa hình nhà máy từ 35 mét xuống còn 10 mét. Thứ hai, nhân viên của TEPCO hiểu biết quá ít về cấu trúc bên trong và các chi tiết của lò phản ứng, vì họ tiếp nhận nhà máy từ Tập đoàn General Electric dưới dạng “chìa khóa trao tay” và khi bàn giao thì thiếu hụt thông tin. Thứ ba, trong xã hội Nhật Bản ngự trị quan niệm sai lầm, cho rằng nhà máy điện hạt nhân là tuyệt đối an toàn, và đó là một sự nhầm lẫn tập thể tai hại

Mấy chục năm qua, xã hội Nhật Bản đê mê trong cơn hoang tưởng về sự an toàn tuyệt đối của điện hạt nhân, nên không chuẩn bị để ứng phó với một thảm họa như vậy. Những đồ đệ của điện hạt nhân (trong giới quản lý, giới kinh doanh và giới kỹ thuật) không chỉ lừa nhân dân, mà tự lừa chính mình. Giống như đám vệ sĩ đại ngôn, luôn mồm khoe mẽ: “Có tôi đây thì mọi người cứ yên tâm mà ngủ, không kẻ gian nào dám mò đến đâu”. Nhưng khi mọi người đã mơ màng, thì tráng sĩ cũng leo lên giường và ngáy vang như sấm.

200 trang tài liệu nội bộ của TEPCO được NISA công bố ngày 24/10/2011 đã để lộ ra nhiều sai sót chủ quan của TEPCO: Không có chuẩn bị đúng mức để đối phó với các sự cố hạt nhân nghiêm trọng; không hề đề phòng tình trạng mất điện như đã xảy ra, hay bất cứ một trường hợp mất điện kéo dài nào; cho rằng khi có sự cố nghiêm trọng thì vẫn còn nguồn điện dự phòng để mở van xả áp và tiến hành các thao tác an toàn khác...[59].

Tổ chức Sáng kiến Tái thiết Nhật Bản (Rebuild Japan Initiative Foundation) đã phỏng vấn gần 300 chính trị gia, công chức, nhà quản lý và thu được bức tranh gây sửng sốt: Những người có trách nhiệm của NISA (Cục An toàn Hạt nhân và Công nghiệp Nhật Bản) không có kiến thức chuyên môn cần thiết về điện hạt nhân; lý do để sự cố này trở nên nghiêm trọng như vậy là do người của TEPCO và Chính phủ thiếu tinh thần trách nhiệm; thảm họa là kết quả của việc cố tình phớt lờ các nguy cơ... Để chỉ ra huyền thoại an toàn hạt nhân đã làm cho giới công nghiệp hạt nhân trở nên mù quáng và vô trách nhiệm thế nào, Giáo sư Kunio Yanagida thuộc Hội đồng Chính phủ về Thảm họa Fukushima đã nêu ví dụ về Trung tâm Cấp cứu Nguyên tử ở Fukushima: Sau khi động đất và sóng thần xảy ra, những người giám sát an toàn nguyên tử đã không vào được trung tâm ấy, vì lối vào không đi được, và hệ thống cấp khí của trung tâm cũng không có bộ lọc chất phóng xạ[60].

Trong bức thư ngỏ gửi Thủ tướng Yoshihiko Noda, đăng trên The Japan Times Online dưới nhan đề “Noda, hãy đập tan ‘làng hạt nhân’ ấy đi”,[61]  Chris Rowthorn đã nêu ra một số nguyên nhân khiến điện hạt nhân không thể an toàn ở Nhật Bản. Nguyên nhân được nhắc đến đầu tiên là hệ thống amakudari (hạ cánh từ thiên đàng), chỉ việc các quan chức cao cấp của chính phủ sau khi rời chức vụ thì được nhận những cương vị quản lý hấp dẫn trong các tổ chức kinh tế mà họ đã từng quản lý. Ví dụ điển hình là: Từ năm 1959 đến 2010, TEPCO có 4 Phó chủ tịch đã từng là quan chức của cơ quan quản lý an toàn hạt nhân NISA. Để chuẩn bị nơi hạ cánh thì không ai lại “dại dột gây gổ” với chốn nương thân tương lai. Và khi đã công khai thành người của TEPCO thì họ vẫn duy trì được quan hệ truyền thống trên-dưới với những quan chức trẻ kế nhiệm ở NISA. Vì vậy, khó mà có được quan hệ rạch ròi giữa phía quản lý và phía bị quản lý. Cùng với những khoản chi “ngoại giao” hậu hĩnh, hệ thống amakudari giúp cho các tập đoàn kinh tế có thể điều khiển được các quan chức chính phủ, thay vì ngược lại. Một nguyên nhân khác được đề cập là hệ thống hàn lâm tham nhũng. Theo Chris Rowthorn, ngành công nghiệp hạt nhân Nhật Bản đã tài trợ hào phóng cho các cơ sở đào tạo, nghiên cứu và các nhà khoa học để tác động lên quan điểm của họ về điện hạt nhân. Nhiều giáo sư và nhà quản lý của Tokyo University (Todai) sau khi rời trường đại học đã “hạ cánh” ở TEPCO (một dạng amakudari hàn lâm), trong đó có Hiroshi Komiyama, nguyên Hiệu trưởng của Todai. Kết quả cộng tác chặt chẽ của giới hàn lâm là tầng lớp tinh hoa Nhật Bản được giáo dục tình thần ủng hộ điện hạt nhân, trong khi các nghiên cứu về tác hại của điện hạt nhân bị hạn chế, thậm chí bị ngăn cản.

“Làng hạt nhân” (nuclear village), mà Rowthorn kêu gọi Thủ tướng Noda “hãy đập tan”, không phải là một ngôi làng bình thường với những người lao động cần mẫn. Đó là biệt danh củamàng lưới lợi ích đầy quyền lực, bao gồm những cá nhân và tập thể có quyền lợi gắn chặt với điện hạt nhân, đến từ các tập đoàn công nghiệp, mà trung tâm là TEPCO, từ bộ máy chính phủ và quốc hội, từ giới khoa học, giới tài phiệt và bộ máy truyền thông. Cái “làng” ấy có thể “thôi miên” bộ máy quản lý, có thể lái quốc hội và chính phủ trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hoạch định chính sách điện hạt nhân,[62]  có thể đạo diễn để cất nhắc hay hạ bệ các chính trị gia cao cấp, và có thể đưa cả đối thủ vào chốn tù ngục.[63]  Vai trò mấu chốt của “làng hạt nhân” dẫn tới thảm họa Fukushima là điều rõ như ban ngày, không thể phủ nhận được. Không chỉ dừng lại ở hậu quả đã đem lại cho xã hội Nhật Bản, họ đang tìm cách vươn ra nước ngoài, mà mục tiêu chinh phục đầu tiên là Việt Nam và trận mở màn là dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 2.

Đoạn kể trên mới chỉ là mấy nét phác họa sơ sài, nhưng cũng đủ để giúp ta hiểu hơn nhận xét của cựu Thủ tướng Naoto Kan về vai trò của thảm họa Fukushima:

“Gorbatschow viết trong hồi ký rằng tai họa Chernobyl đã phơi bày tình trạng bệnh tật của xã hội Xô Viết. Tai họa Fukushima cũng đóng vai trò tương tự đối với Nhật Bản[64].

Đừng lầm tưởng rằng mọi người đã khôn ra sau thảm họa này và sẽ không tái phạm những lỗi lầm cũ. Đánh giá về quá trình kiểm tra an toàn các lò phản ứng hạt nhân ở Nhật Bản sau thảm họa Fukushima, Giáo sư Hiromitsu Ino, một thành viên của hội đồng cố vấn cho NISA, phàn nàn rằng:

“Toàn bộ quá trình đang được tiến hành giống hệt như trước tai họa Fukushima Daiichi, mặc dù tai họa đã chỉ ra rằng các hướng dẫn và tiêu chuẩn đó là không đầy đủ”.

Ông Masashi Goto, một nhà thiết kế lò phản ứng hạt nhân tham gia hội đồng cố vấn cho NISA, phản ánh rằng: Báo cáo kết quả kiểm tra an toàn của 14 lò phản ứng đã được gửi tới NISA, nhưng không một cuộc kiểm tra nào được tiến hành với kịch bản nhiều tai họa thiên nhiên xảy ra cùng một lúc (ví dụ như sóng thần kèm theo động đất), và các cuộc kiểm tra an toàn ấy đã được kết thúc ngay cả khi nguyên nhân của sự cố nóng chảy nhiên liệu hạt nhân và của các vụ nổ khí hyđrô ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi còn đang được điều tra. (Chưa xác định được nguyên nhân của hai sự cố ấy ở Fukushima Daiichi thì tất nhiên không thể khẳng định rằng các nhà máy khác sẽ không lặp lại sự cố tương tự). “Các cuộc kiểm tra chỉ đơn thuần là mô phỏng trên bàn giấy một cách lạc quan, dựa trên giả thiết rằng mọi thứ sẽ xảy ra đúng như dự kiến” – ông Goto bình luận, và tiết lộ thêm rằng: Kịch bản kiểm tra không bao gồm sai sót của con người, sai sót thiết kế, hay kết hợp cả hai. Vì sao họ có thể mắc tiếp những lỗi thô thiển như vậy? Một lý do quan trọng là vì nhiều người tham gia có quyền lợi mâu thuẫn với nhiệm vụ kiểm tra[65].  Ấy vậy mà Chính phủ Nhật bản cũng cho qua và vận động chính quyền các địa phương liên quan đồng ý cho mấy lò phản ứng hạt nhân, được coi là đã kiểm tra an toàn, hoạt động trở lại. Rõ ràng là: Những người có trách nhiệm, từ cấp cơ sở đến chính phủ, vẫn không chịu nghiêm túc rút kinh nghiệm, tiếp tục tái phạm những sai lầm chết người, đã từng góp phần gây ra thảm họa Fukushima.

Những điều kể trên chỉ ra rằng: Về mặt trình độ và tập quán, con người rất khó vượt ra khỏi cái bóng của mình. Về mặt động cơ, con người thường bị chi phối bởi lợi ích cá nhân. Bị hạn chế ở cả bộ não và trái tim, nên “ngựa quen đường cũ”, dù mới trải qua thảm họa nhưng vẫn đủng đỉnh lối xưa. Với cách tư duy và hành động như vậy, một thảm họa hạt nhân tiếp theo đã được lập trình sẵn. Có thể nó chưa tái diễn ngay trên đất Nhật, nhưng lại xảy ra ở đâu đó trên thế giới, nơi mà người Nhật xây dựng nhà máy điện hạt nhân.

Để khỏi mang tiếng là đánh giá quá thấp người Nhật, ta trích ra đây kết luận của Chủ tịch Ủy ban điều tra độc lập về thảm họa hạt nhân Fukushima của Quốc hội Nhật Bản (NAIIC), Tiến sỹ Kiyoshi Kurokawa, trong thông điệp mở đầu bản báo cáo tổng kết gần 7 tháng điều tra và được đệ trình Quốc hội Nhật Bản vào ngày 05/07/2012[66]:

“Điều phải thừa nhận – dù rất đau đớn - là thảm họa này được ‘sản xuất tại Nhật Bản’(made in Japan). Nguyên nhân gốc rễ của nó nằm ở những tập quán đã ăn sâu vào văn hóa Nhật Bản: Sự phục tùng mang tính phản xạ, sự e ngại chất vấn người có quyền lực, xu hướng bảo lưu cái cũ, chủ nghĩa phe nhóm và tính ốc đảo của chúng ta”.

Thật là vô vọng, khi Tiến sỹ Kurokawa (người đã từng là Chủ tịch Hội đồng Khoa học Nhật Bản) viết tiếp rằng:

“Nếu người Nhật khác xỏ chân vào đôi giày của những người phải chịu trách nhiệm cho thảm họa này thì kết quả có thể cũng đúng như vậy”.

Dù sao đi nữa thì người Nhật cũng vẫn được coi là vượt trội về nhiều phương diện, kể cả trình độ, tác phong công nghiệp, tính cộng đồng và lòng tự trọng. Điều đáng nói là: Nếu vượt trội như người Nhật mà còn như thế, thì các dân tộc khác sẽ thế nào? Đối với người Việt, phải đặt thêm câu hỏi: Người Nhật có thể mắc những sai lầm như thế đối với nhà máy của chính họ, trên quê hương của họ, thì nhà máy điện hạt nhân do họ xây ở Việt Nam sẽ thế nào?

Rùng rợn thay, TEPCO đã phạm những lỗi tày trời và gây ra thảm họa cho dân tộc Nhật Bản như thế, mà theo kế hoạch ban đầu – được tiết lộ trên The Japan Daily Press ngày 28/06/2012 – thì kỹ sư của TEPCO sẽ vận hành và dạy nghề tại nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận và kỹ sư Việt Nam sẽ đến học nghề trong các nhà máy điện hạt nhân của TEPCO[67]Nếu vậy thì các kỹ sư và công nhân đầu đàn người Việt được đúc từ khuôn mẫu TEPCO sẽ có thể gây ra những hậu quả gì trên đất Việt đã quá nhiều đau thương này?

Một cộng đồng lớn không thể tránh khỏi mọi sai sót – đó là hạn chế cố hữu của loài người. Vì không thể tách khỏi yếu tố con người trong suốt quá trình thiết kế, chế tạo, thi công và vận hành, bất kỳ công nghệ điện hạt nhân nào, dù là sử dụng lò phản ứng thế hệ II, hay thế hệ III, hay III+, thì cũng bị chi phối bởi những sai sót của con người, và do đó cũng không thể tránh được tai họa hạt nhân.

Tư duy tầm “thương nhân”

Điều gì khiến lỗi lầm luôn tái diễn trong một lĩnh vực đòi hỏi phải rất nghiêm túc, rất thận trọng, như điện hạt nhân? Bên cạnh hạn chế về trình độ và tập quán, động cơ chạy theo lợi ích cục bộ đóng một vai trò quyết định. Bản thân “lợi ích” không có tội, ngược lại nó còn là động lực phát triển của xã hội. Nhưng nếu nó bị chi phối, bị điều khiển bởi tính “cục bộ” thì lại thành vấn đề. Với tư duy “lợi ích riêng tư là trên hết”, thì cứ có lợi cho mình hay phía mình là làm, cho dù có thể gây bất lợi cho người khác hay ảnh hưởng xấu cho cộng đồng. TEPCO đặt lợi nhuận lên hàng đầu, nên “tiết kiệm” được bao nhiêu hay bấy nhiêu, dù để lại hậu quả nặng nề cho xã hội. Những người làm việc cho TEPCO quan tâm nhất tới chỗ làm ổn định với đồng lương cao, tức là quyền lợi bản thân, nên họ làm ngơ trước sai phạm của cấp trên và đồng nghiệp, thậm chí sẵn sàng tòng phạm, mặc dù điều đó có hại cho cộng đồng. Cái lợi thu được thì mình họ hưởng, nếu tai họa xảy ra thì đã có cộng đồng cả nước cùng gánh chịu. Kể cả khi đề cao lợi ích dân tộc thì chưa chắc đã thoát khỏi tính cục bộ, chẳng hạn không chấp nhận phát triển điện hạt nhân trong nước, nhưng lại sẵn sàng xuất khẩu ra nước ngoài. Về mặt thời gian, tính cục bộ thể hiện ở tư duy “vì lợi ích trước mắt”, bất chấp lợi ích lâu dài. Nếu sớm kiếm được nhiều tiền, có thể đút ngay vào túi, thì không chút chần chừ. Còn những chuyện “xa vời”, ví dụ như giải quyết vấn đề chất thải hạt nhân thế nào, thì họ không quan tâm.

Xin mượn cụm từ “tầm thương nhân” để chỉ lối tư duy “lợi ích cục bộ” đó. Tạm gọi như vậy, khi chưa tìm được từ nào thích hợp hơn, chứ thực ra thì nhiều khi thương nhân cũng tư duy ở“tầm chính khách”, và ngược lại, chính khách cũng hay tư duy ở “tầm thương nhân”.

Qua trao đổi ở phần trên, ta thấy rằng kiểu tư duy “tầm thương nhân” của các nhà quản lý (kể cả lãnh đạo quốc gia), của các nhà kinh doanh và các nhà kỹ thuật… là một trong những yếu tố quyết định dẫn đến thảm họa hạt nhân Fukushima. Cũng chính vì kiểu tư duy ấy, mà sau thảm họa hạt nhân nhiều người có trách nhiệm ở Nhật Bản vẫn tiếp tục hành động giống như trước khi xảy ra thảm họa.

Tư duy “tầm thương nhân” xuất hiện mọi nơi, trong mọi tầng lớp, và trước hết là ở những người đang đại diện cho phía bán hàng. Khi Andrei Grigorievich Kotun, Đại sứ Liên bang Nga tại Việt Nam, khẳng định phía Nga hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 (do Nga thiết kế và xây dựng, dự kiến khởi công vào năm 2014) [68],  ấy là lúc ông chỉ nghĩ đến hợp đồng béo bở cho phía Nga. Một kiểu nói lấy được, miễn là bán được hàng, bởi lời hứa đâu mất tiền mua. Đúng là ông đang thay mặt cho nước Nga thật, nhưng bộ máy chính trị và kinh tế khổng lồ ấy vận hành thế nào thì đâu phải do một chính trị gia cỡ ông quyết định. Hơn nữa, ngay cả những nhà máy điện hạt nhân xây trên đất Nga hay Liên Xô (cũ) thì cũng đã từng gây ra thảm họa, huống hồ ở mảnh đất phương nam xa xôi. Giả sử sau này cái tên Ninh Thuận sẽ trở nên nổi tiếng thế giới, đứng cạnh Chernobyl và Fukushima trong danh sách thảm họa hạt nhân, thì cá nhân Andrei Grigorievich Kotun nói riêng và phía Nga nói chung sẽ chịu trách nhiệm kiểu gì? Hẳn lúc ấy ông đã rời xa xứ sở đau thương, có thể đang an hưởng tuổi già dưới rặng bạch dương, và những người kế nhiệm sẽ phẩy tay:“Ông ấy nói bừa, sao các bạn lại tin?”

Lúc nói “việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân là quyết định của Chính phủ Việt Nam và nhân dân Việt Nam, chúng tôi tôn trọng điều đó”,[69]  có lẽ ông Hirofumi Miyake, Tham tán kinh tế của Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, muốn che dấu khát vọng thương nhân của phía mình. Có khác tí chút là ở chỗ: Để tăng tính thuyết phục, ông đã vận dụng thêm mánh khóe chính trường, là gán cái quyết định “xây dựng nhà máy điện hạt nhân” cho cả “nhân dân Việt Nam”, mặc dù khi đã đi sứ ở xứ này thì ông thừa biết, nhân dân đâu được quyền tham gia quyết định.
Hùng hồn tuyên bố công nghệ điện hạt nhân mà họ sẽ triển khai ở Ninh Thuận là “an toàn nhất thế giới”, ông Sergey A. Boyarkin (Phó Tổng giám đốc Tập đoàn ROSATOM của Nga, dự định sẽ xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1)[70] và ông Junichi Kawahata (Tập đoàn Hitachi của Nhật Bản, dự định sẽ tham gia xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2)[71]cứ làm như đất nước của họ không liên quan gì đến 3 thảm họa điện hạt nhân lớn nhất trong lịch sử nhân loại,[72]  đã xảy ra ở Kyshtym (Nga, 1957), Chernobyl (Liên Xô cũ, Ucraina bây giờ, 1986) và Fukushima (Nhật Bản, 2011). Thôi thì họ đại ngôn cũng là chuyện thường tình, bởi họ chính là thương nhân. Hàng của ai mà chả tốt và rẻ nhất chợ. Buồn một nỗi là nhiều người lại đặt hết niềm tin vào nơi chợ búa. Hơn nữa, một số người Việt còn sốt sắng “đóng nhầm vai”. Đại diện cho bên mua, mà lại tung hô như thể mình đang rao bán.

Cần lưu ý thêm về sự ranh mãnh khi họ chọn chữ “nhất” để đặt vào cụm từ “an toàn nhất thế giới”. Chữ “nhất” trong khuôn khổ “thế giới” làm cho những người nghe nhẹ dạ sướng đê mê, tưởng rằng còn “trên cả an toàn”. Nhưng nó lại cho phép kẻ phát ngôn dễ dàng thoát khỏi mọi trách nhiệm khi xảy ra thảm họa, bởi lẽ “an toàn nhất” – trong hoàn cảnh không thể có “an toàn tuyệt đối” – không có nghĩa là “an toàn”, cũng giống như “kẻ tốt nhất trong đám vô lương” không có nghĩa là “người tốt”.

Trong cộng đồng ủng hộ việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam, bên cạnh không ít tâm hồn trong sáng, thành tâm tin vào sự cần thiết và sự an toàn của điện hạt nhân, thì cũng có nhiều đầu óc vụ lợi. Một số người nhìn nhận đó là một cơ hội “làm ăn lớn” hiếm hoi, háo hức chờ đợi để tham gia bữa đại tiệc chia chác. Vốn khủng thì phần trăm đút túi cũng khủng, lại có thể bám vào lý do bí mật công nghệ hạt nhân để cản trở xoi mói và điều tra. Số khác thì có thể “khiêm tốn” hơn, chỉ mong có cơ hội để thực hành cái nghề hiếm mà mình đã được đào tạo bấy lâu, song chưa có dịp trổ tài. Còn hậu quả thế nào thì không “nằm trong vùng phủ sóng” của họ.

Một người mang danh nhà khoa học, tuyên truyền rằng điện hạt nhân an toàn, “nếu có sự cố xảy ra thì tất cả các chất phóng xạ sẽ bị giam hãm trong nhà lò phản ứng không phát tán ra bên ngoài”,[73]  trong khi trên thực tế thì có thể buộc phải xả áp, như ở Fukushima, và chất phóng xạ có thể bị phát tán xa hàng nghìn km. Hơn thế nữa, để thuyết phục dư luận là điện hạt nhân rẻ, ông còn phóng đại lên rằng: “Thường tuổi thọ của nhà máy điện hạt nhân là cả trăm năm”,[74]  trong khi, theo thông tin của Hiệp hội Hạt nhân Thế giới (World Nuclear Association), phần lớn các nhà máy điện hạt nhân được thiết kế cho tuổi thọ 25 đến 40 năm[75], và đối với những lò phản ứng hạt nhân thế hệ 3 đang vận hành hoặc đang được xây dựng trên thế giới thì thời gian hoạt động thông thường theo thiết kế là 60 năm[76].  Khi tuyên truyền như vậy, hẳn nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam và tânCục trưởng Cục An toàn bức xạ và Hạt nhân (thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) đã bỏ qua tri thức và thể hiện tư duy “tầm thương nhân”.

Một lãnh đạo của Bộ Khoa học và Công nghệ khẳng định rằng:

“Nếu như không có những sự cố khủng khiếp như thảm hoạ kép động đất, sóng thần thì các nhà máy điện hạt nhân có thể nói là an toàn và kinh tế hơn so với các nhà máy điện khác”[77].

Nói như vậy thì hàm lượng chân lý cũng tựa như mệnh đề: “Nếu như không có những hậu quả khủng khiếp như tai họa kép gây nghiện và chết chóc thì ma túy có thể nói là an toàn và kinh tế hơn so với các thứ giải trí khác”. Đó hẳn là một phát ngôn bị tư duy “tầm thương nhân” chi phối.

Vậy thì biết tin vào ai, khi phải đưa ra những quyết định liên quan đến điện hạt nhân? Để trả lời câu hỏi “làm điện hạt nhân thế nào”, thì tất nhiên phải hỏi các chuyên gia về điện hạt nhân và những người kinh doanh công nghệ này. Chỉ có họ mới có thể chỉ ra phải thiết kế, chế tạo, thi công và vận hành nhà máy điện hạt nhân như thế nào. Nhưng nếu muốn trả lời câu hỏi “có làm điện hạt nhân hay không”, thì các nhà lãnh đạo quốc gia không thể dựa hẳn vào ý kiến của những người có quyền lợi gắn liền với việc triển khai điện hạt nhân. Đa số những người đang mong làm điện hạt nhân để có đất dụng võ và được hưởng lợi sẽ trả lời là“nên làm”. Khi động cơ và câu trả lời đã quá rõ như vậy, mà các nhà lãnh đạo vẫn hỏi và vẫn dựa vào lập luận của họ để làm cơ sở ra quyết định, thì hoặc là phạm lỗi tư duy, hoặc là cố ý cùng nhau diễn kịch, trong bối cảnh chia sẻ quyền lợi.

Tư duy tầm chính khách

Ngược lại với tư duy “tầm thương nhân”, ta dùng thuật ngữ “tầm chính khách” để chỉ lối tư duy nhìn xa, trông rộng và coi trọng lợi ích chung, tất nhiên không phải là cái chung của một nhóm hay băng đảng, mà là cái chung chứa cả dân tộc, và không chỉ dừng lại ở phạm vi dân tộc. Đấy là tư duy mà chính khách chân chính cần phải có.

Trong những ngày tháng vật lộn với thảm họa hạt nhân Fukushima, trên cương vị Chánh văn phòng Chính phủ và là cánh tay phải của Thủ tướng thời đó, ông Yukio Edano là đầu mối quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho nhân dân Nhật Bản và cho thế giới. Với cống hiến không mệt mỏi, ông đã trở thành người hùng của bao người dân.[78]  Chính thời gian thiếu ngủ ấy cùng thực tế phũ phàng đã đánh thức và trao cho ông một tầm nhìn mới về điện hạt nhân. Để rồi hôm nay, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp trong Chính phủ đương nhiệm của Thủ tướng Yoshihiko Noda, trực tiếp phụ trách vấn đề năng lượng, ông Edano có đủ cơ sở vững chắc để tuyên bố dứt khoát trong buổi họp báo ngày 06/04/2012 ở Tokyo rằng[79]:

“Nhật Bản cần phấn đấu rút hoàn toàn khỏi điện hạt nhân”.
“Chính sách của Chính phủ là ngay bây giờ phải giảm sự phụ thuộc vào điện hạt nhân xuống mức thấp nhất như có thể”.
“Tôi muốn cắt giảm mức phụ thuộc vào điện hạt nhân xuống số không. Tôi muốn có một xã hội vận hành không có điện hạt nhân càng sớm càng tốt”.

Thông điệp trên càng trở nên sâu sắc, khi nó được phát ra đúng vào thời điểm mà bản thân ông Edano đang phải lo vận động chính quyền các địa phương liên quan đồng ý cho tái khởi động một số lò hạt nhân đã qua kiểm tra an toàn, để hạn chế thiếu hụt điện năng vào thời gian cao điểm trong mùa hè đang tới.

Phát biểu trên thể hiện chính sách của Chính phủ đương nhiệm và được tiếp thu từ bài học xương máu của Chính phủ tiền nhiệm. Trong diễn văn đọc ngày 06/08/2011 tại buổi tưởng niệm lần 66 ngày Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima, Thủ tướng Nhật Bản thời đó Naoto Kan đã bày tỏ[80]:

“Tôi hối tiếc sâu sắc là đã từng tin vào huyền thoại về sự an toàn của điện hạt nhân”.

Là người đã tốt nghiệp ngành Vật lý tại Tokyo Institute of Technology, ông Kan có khả năng hiểu về công nghệ hạt nhân hơn hẳn phần lớn các chính trị gia khác.[81]  Vì vậy, ý kiến của ông rất đáng để các chính khách trên toàn thế giới tham khảo. Với nhận thức sâu sắc đúc kết từ thảm họa Fukushima, ông đã khẳng định:

“Nhật Bản sẽ giảm mức lệ thuộc vào điện hạt nhân, với mục tiêu là trở thành một xã hội không phụ thuộc vào điện hạt nhân”.

Điều gì đã đưa một người vốn nhiệt thành ủng hộ điện hạt nhân đến với nhận thức như vậy? Trên cương vị Thủ tướng, trực tiếp lãnh đạo quá trình vật lộn với thảm họa Fukushima, ông đã chứng kiến tất cả: Sức tàn phá khủng khiếp của thiên nhiên, sự bất lực của con người và công nghệ, hậu quả nặng nề vượt mọi khả năng tưởng tượng của thảm họa hạt nhân... Một năm sau, trong buổi trả lời phỏng vấn Reuters ngày 17/02/2012, vị cựu Thủ tướng giãi bày[82]:

“Trải qua thảm hỏa hạt nhân 11/03/2011, tôi đã thay đổi cách nghĩ của mình. Yếu tố tác động lớn nhất là: Đã có thời điểm chúng tôi phải đối mặt với hoàn cảnh mà mọi người có thể không sống nổi trong khu vực thủ đô, bao gồm cả Tokyo, và phải sơ tán”.

Đó là lúc ông đối mặt với nguy cơ “con người không thể sống trên dải đất rộng 200–300 km”. Hãy tưởng tượng xem: Riêng khu vực quanh thủ đô Tokyo đã phải sơ tán hơn 35 triệu người... Bằng cách nào? Sơ tán đi đâu? Thu xếp nơi ăn, chốn ở cho họ như thế nào? Rõ ràng là một cảnh đại loạn, vượt quá mọi khả năng thu xếp. “Điều gì sẽ xảy ra đối với đất nước Nhật Bản?”– ông Kan tự hỏi và trả lời:

“Nếu xảy ra tình trạng ấy, không chỉ cộng đồng phải gánh chịu khổ ải, mà cả sự tồn tại của Nhật Bản cũng bị đe dọa”.

Trong một hoàn cảnh khác, Naoto Kan còn thổ lộ là:

“Vấn đề không chỉ là chúng tôi mất một nửa lãnh thổ, mà còn rải phóng xạ ra phần còn lại của thế giới”[83].

Hóa ra, thảm cảnh thực tế còn tệ hại gấp bội lần so với những điều mà dư luận được biết. Để tránh hoảng loạn xã hội, ông Kan cùng cộng sự đã phải dấu thực trạng và âm thầm gánh chịu một trách nhiệm quá khủng khiếp, liên quan đến sự tồn vong của cả dân tộc. Nếu đã từng trải qua cơn ác mộng vô cùng kinh khủng ấy, như ông Kan, bất cứ một tâm hồn lành mạnh nào cũng phải đi đến quyết định khước từ điện hạt nhân, vì không thể đem sự tồn tại của cả dân tộc để đặt cược cho một canh bạc bị chi phối bởi lợi ích nhóm. Trong canh bạc ấy, chỉ có lợi ích nhóm là hiện hữu, còn lợi ích cộng đồng thì chỉ sót lại nếu không gặp phải thảm họa, và nó cũng không bù nổi món nợ để lại cho các thế hệ mai sau, dưới dạng chất thải hạt nhân, mà cho đến nay thế giới vẫn chưa thiết lập được những kho chứa vĩnh viễn.

Cựu Thủ tướng Naoto Kan đã rút ra bài học sâu sắc, như khẳng định trong buổi tường trình trước Quốc hội Nhật Bản ngày 28/05/2012[84]:

“Không thể đảm bảo an toàn đến mức đủ để tránh được nguy cơ sụp đổ dân tộc”.
“Tai họa đã trải qua làm cho tôi tin rằng con đường tốt nhất để làm cho các nhà máy điện hạt nhân trở nên an toàn là không dựa vào chúng, mà cần loại bỏ chúng đi”.

Một bài học nữa cần rút ra ở đây là: Trên cương vị lãnh đạo tầm quốc gia, không thể chỉ sa đà vào tư duy tầm kỹ thuật, mà phải biết tư duy tầm triết lý. Đối với vấn đề an toàn điện hạt nhân, không thể chỉ dừng lại ở việc lựa chọn công nghệ nào, mà phải đặt ra câu hỏi mang tính triết học là: Có tồn tại một công nghệ tuyệt đối an toàn trong mọi hoàn cảnh hay không?Cụ thể hơn: Có thể tạo ra một thứ công nghệ hạt nhân chống chọi được với mọi hoàn cảnh thiên tai, địch họa và hoàn toàn không bị phụ thuộc vào các sai sót thường tình của con người hay không? Thảm họa Fukushima nối tiếp thảm họa Chernobyl minh họa cho câu trả lời dứt khoát: Không!

Con người không bao giờ tránh được mọi sai sót, và sai sót có thể gây ra sự cố. Trong các lĩnh vực khác, sự cố thường chỉ dừng lại ở một mức độ nhất định và người ta có thể khắc phục từ từ. Nhưng sự cố trong lĩnh vực điện hạt nhân thì có thể nhanh chóng vượt ra khỏi tầm kiểm soát và dẫn đến tai họa cực kỳ nghiêm trọng, gây hậu quả nặng nề trên không gian quá rộng và trong thời gian quá dài. Do đó, nguy cơ thảm họa luôn đi kèm với điện hạt nhân.

Nếu xảy ra thảm họa điện hạt nhân, con người sẽ trở nên chơi vơi, bất lực, và hậu quả của nó có thể vượt mọi tầm tưởng tượng, thậm chí có thể đe dọa sự tồn vong của dân tộc, hay của cả loài người. Chính vì vậy, nếu chưa dính đến điện hạt nhân thì không nên triển khai, còn nếu đang sử dụng điện hạt nhân thì phải giảm dần để tiến tới thoát hoàn toàn khỏi vòng kiềm tỏa của nó.

Đó bài học quá đắt mà những người trong cuộc như cựu Thủ tướng Naoto Kan và Bộ trưởng Yukio Edano phải rút ra được từ thảm họa Fukushima. Đó cũng là bài học sâu sắc mà các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới cần phải nghiêm túc lĩnh hội.

Nếu xảy ra thảm hỏa hạt nhân, thì các nhà lãnh đạo quốc gia phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và trước nhân loại, không thể quay ra đổ lỗi cho giới chuyên môn, cho dù một số người trong số họ đã từng tung hô, cổ động cho việc triển khai điện hạt nhân. Đó là thông điệp mà cựu Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan muốn nhắn gửi đến các đồng nghiệp lãnh đạo trên toàn thế giới, khi trả lời câu hỏi “ai phải chịu trách nhiệm về khủng hoảng hạt nhân Fukushima”:

“Tôi nghĩ trách nhiệm lớn nhất thuộc vào các thế hệ chính phủ đã xúc tiến điện hạt nhân...[85].

Hoàn toàn đúng như vậy! Các nhà lãnh đạo quốc gia phải ý thức được trách nhiệm không thể chối bỏ này, để vận dụng tư duy “tầm chính khách”, thay cho tư duy “tầm thương nhân”, khi cân nhắc và đưa ra quyết định về vấn đề xây dựng hay duy trì nhà máy điện hạt nhân.

Thực tại bất an

Tiếc rằng, quá nhiều người, trong đó có rất nhiều chính trị gia, vẫn tỏ ra hoàn toàn bàng quan, theo kiểu: “Họa người người chịu, việc ta ta làm.” Thậm chí, khi thảm họa hạt nhân Fukushima vừa mới xảy ra, nhân loại còn chưa kịp hoàn hồn, người Nhật còn chưa biết có thể thoát ra khỏi thảm họa hay không và thoát bằng cách nào, thì có vị đã hấp tấp khẳng định rằng Việt Nam vẫn sẽ tiến hành xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận như dự kiến[86].  Điều đó thể hiện cả sự liều lĩnh lẫn ngu dốt.  Liều lĩnh cộng hưởng với ngu dốt là mầm gieo đại họa hạt nhân.

Thảm họa Fukushima mới xảy ra hơn một năm, mà đối với nhiều người thì dường như nó chỉ còn là chuyện dĩ vãng, tưởng như không bao giờ lặp lại. Họ không biết rằng khủng hoảng vẫn chưa kết thúc. Một quả bom hẹn giờ vẫn đang tích tắc, đe dọa toàn nhân loại. Nhờ đang dừng hoạt động để bảo dưỡng định kỳ, nên lò số 4 tránh được tai họa do thùng lò bị làm ẩu, như đã kể ở trên. Nhưng cũng chính vì thế mà toàn bộ số nhiên liệu hạt nhân đang dùng dở được dồn hết vào bể đựng nhiên liệu. Hơn thế nữa, trong số 263 tấn nhiên liệu, chiếm hết 97% dung lượng của bể, thì có tới 35 tấn là mới, chưa qua sử dụng.[87]  Trong khi đó, nhà lò số 4 đã bị động đất và vụ nổ lúc 6 giờ ngày 15/03/2012 làm hư hỏng nặng nề[88].

Cựu Cố vấn của Liên Hiệp Quốc Akio Matsumura kể rằng:[89]  Trong buổi tường trình ngày 22/03/2012 tại Ủy ban Ngân sách của Thượng nghị viện Nhật Bản (House of Councilors), Giám đốc Hiệp hội Hệ thống Toàn cầu và Đạo đức học Nhật Bản Mitsuhei Murata nhấn mạnh rằng, nếu nhà lò số 4 bị sập thì bể đựng 1.535 bó nhiên liệu sẽ đổ vỡ từ độ cao 30 mét. Kéo theo là sự cố ở cả 6 lò phản ứng và ở cái bể đang chứa 6.375 bó nhiên liệu đã sử dụng, nằm cách lò số 4 khoảng 50 mét. Như vậy, sẽ có 11.421 bó nhiên liệu bị phơi ra ngoài không khí, và sẽ gây hậu quả toàn cầu trong nhiều thế kỷ, ở mức độ mà thế giới chưa bao giờ chứng kiến. Ông Matsumura đã hỏi Robert Alvarez, chuyên gia hàng đầu về bể đựng nhiên liệu hạt nhân và là cựu Cố vấn của Tổng cục Năng lượng Mỹ (United States Department of Energy), về tác động của 11.421 bó nhiên liệu, và nhận được trả lời:

“Dựa trên số liệu của Tổng cục Năng lượng Mỹ, giả thiết rằng trong số đó có 11.138 bó nhiên liệu đã qua sử dụng, đang được chứa tại khu vực Daiichi và hầu hết ở trong các bể làm lạnh, thì chúng chứa khoảng 336 triệu curies phóng xạ tồn tại lâu. Trong đó có chừng 134 triệu curies Cesium-137, tức là gấp khoảng 85 lần lượng Cesium-137 bị phát tán trong tai nạn Chernobyl, như Hội đồng Quốc gia Mỹ về Bảo vệ Bức xạ (NCRP) đã ước lượng. Lượng Cesium-137 chứa trong toàn bộ kho nhiên liệu hạt nhân đã sử dụng tại khu vực Daiichi bằng khoảng một nửa lượng Cesium-137 đã phát tán trong tất cả các vụ thử vũ khí hạt nhân đã tiến hành trong khí quyển, trong tai nạn Chernobyl và có tại các cơ sở tái chế nhiên liệu hạt nhân khắp thế giới (khoảng 270 triệu curies, theo ước lượng của NCRP)”.
85 lần lượng Cesium-137 bị phát tán trong tại nạn Chernobyl nghĩa là gì? Là đủ để hủy hoại môi trường toàn thế giới và nền văn minh nhân loại. Chính vì vậy, trong bức thư gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon ngày 25/03/2012, cựu Đại sứ Nhật Bản tại Thụy Sĩ Mitsuhei Murata viết:

“Không hề cường điệu khi nói rằng số phận của Nhật Bản và của cả thế giới phụ thuộc vào lò phản ứng số 4”.

Arnie Gundersen, Kỹ sư trưởng của Fairewinds Energy Education Corp, với 40 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ điện hạt nhân và đã từng điều hành nhiều đề án tại 70 nhà máy điện hạt nhân ở Mỹ, đánh giá là toàn bộ Bán cầu Bắc sẽ bị đe dọa, nếu bể nhiên liệu của lò số 4 bị đổ vỡ.[90]  Ông Gundersen còn nói là:

“Trong bể nhiên liệu của lò số 4 có nhiều Cesium hơn 800 quả bom nguyên tử nổ trên mặt đất... Nhưng tất nhiên là chúng nổ cùng một lúc. Chắc chắn nó sẽ phá hủy Nhật Bản với tư cách một quốc gia có tổ chức”.

Helen Caldicott (đã hơn 21 lần được phong Tiến sỹ danh dự) tuyên bố sẽ sơ tán gia đình của bà khỏi Boston (USA) và chuyển xuống Bán cầu Nam, nếu bể nhiên liệu số 4 bị sập. (Lưu ý rằng khoảng cách giữa Boston và Fukushima là 16.000 km, trong khi khoảng cách giữa Hà Nội và Fukushima là 3.800 km.)[91]

Vậy xác suất để bể đựng nhiên liệu trong nhà lò số 4 bị sập đổ là bao nhiêu? Arnie Gundersen và nhiều chuyên gia khác cho rằng điều đó sẽ xảy ra nếu có động đất 7,0 độ Richter[92].  Một số nhà khoa học ước lượng xác suất xảy ra động đất cấp 7,0 tại Fukushima trong vòng 1 năm tới là 70% và trong vòng 3 năm tới là 98%.[93]  Cựu Đại sứ Mitsuhei Murata nói rằng: Theo ước lượng mới hiệu chỉnh của Chính phủ Nhật Bản thì xác suất xảy ra động đất cấp 7,0 tại Fukushima trong 3 năm tới là 90%.[94]  Trong khi đó, theo Akio Matsumura, nhiều nhà khoa học tin rằng không thể di chuyển hết 1.535 bó nhiên liệu ra khỏi cái bể ấy trong vòng 2 hay 3 năm, và TEPCO cũng như Nhật Bản không có công nghệ phù hợp cùng kinh nghiệm cần thiết để có thể tự xử lý tai họa đang tiếp diễn.[95]  Căn cứ vào những nhận định này thì số phận của dân tộc Nhật Bản và của cả nhân loại chỉ còn phụ thuộc vào may rủi, mà khả năng gặp may là thấp.

Hy vọng rằng những dự đoán kể trên không hoàn toàn đúng. Nhưng dù viễn cảnh khủng khiếp ấy chỉ đúng một phần, thì cũng quá đủ để khiến ta phải sửng sốt, vì sao bao người có trách nhiệm lại có thể thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra, tiếp tục đuổi theo tham vọng, bất chấp hậu quả.

Trong buổi họp báo ngày 04/06/2012, đương kim Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda tuyên bố[96]:

“Chúng tôi thấy rằng việc tái khởi động một số nhà máy điện hạt nhân là cần thiết và quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế và xã hội Nhật Bản”.

Tất nhiên, một khi đã rơi vào tình trạng điện hạt nhân chiếm tới 30% công suất điện năng của quốc gia, thì rất khó để có được phương án thay thế ngay trong chốc lát. Cũng giống như cai nghiện ma túy, cần có lộ trình hợp lý và tiến hành từng bước, chứ khó mà cắt cơn ngay lập tức. Để làm yên lòng dư luận, ông Noda khẳng định: “Tôi sẽ là người chịu trách nhiệm cuối cùng.” Thủ tướng quyết định tái khởi động, bất chấp ý nguyện của đa số người dân, thì dĩ nhiên chính ông phải chịu trách nhiệm, chứ còn ai chịu thay nữa? Nhưng vấn đề là chịu thế nào? Giả sử một thảm họa tương tự tái diễn, như ở Fukushima, thì nhiều nhất ông cũng chỉ cúi đầu xin lỗi và từ chức. Dù có tự nguyện quyên sinh, thì ông cũng không thể đền nổi sinh mạng và sức khỏe của biết bao nạn nhân vô tội. Dù có đem hết tài sản cá nhân ra đền, thì ông cũng không khắc phục nổi một phần nhỏ của hậu quả khủng khiếp mà xã hội và môi trường phải gánh chịu. Cho nên, câu “chịu trách nhiệm cuối cùng” nghe qua thì có vẻ to tát, nhưng thực ra nó cũng chỉ là một mệnh đề trống rỗng, không giúp được gì. Khi sự thể nằm ngoài tầm nhận thức và khả năng khống chế, mà vẫn thề thốt “chịu trách nhiệm”, thì cũng là lúc người ta vô trách nhiệm nhất.

Thủ tướng Yoshihiko Noda hứa hẹn:

“Tôi muốn làm tròn trách nhiệm của mình bằng cách áp dụng mọi biện pháp có thể để đảm bảo sự an toàn của chúng”.

Đảm bảo kiểu gì, khi các nhà máy điện hạt nhân chỉ được kiểm tra an toàn một cách chiếu lệ, dựa trên những tiêu chuẩn mà thảm họa Fukushima đã chỉ ra là khiếm khuyết và không đáp ứng được đòi hỏi của thực tế? Đảm bảo kiểu gì, khi chỉ có thể dựa vào những thông tin thiếu hụt và méo mó của bộ máy quản lý các cấp, đã từng lừa dối bao thế hệ thủ tướng tiền nhiệm? Qua phân tích, ta đã thấy rõ ràng là: Cho dù ông “áp dụng mọi biện pháp có thể”, thì cũng không đủ “để đảm bảo sự an toàn của chúng”! Thực ra, để phủ định lời hứa kể trên, chỉ cần nhắc lại một kết luận trong diễn văn của chính bản thân Thủ tướng Noda, đọc tại Hội nghị Thượng đỉnh về An toàn Hạt nhân ở Seoul vào ngày 27/03/2012 (tức là chỉ 69 ngày trước đó)[97]:

Trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ có bất cứ một sự an toàn tuyệt đối nào cả, và sự nỗ lực để đạt được an toàn (hạt nhân) không có hồi kết thúc. Mỗi người phấn đấu cho an toàn hạt nhân cần khắc sâu trong tim điều này”.

Khi hứa “đảm bảo sự an toàn” của nhà máy điện hạt nhân, thì có nghĩa là hứa tạo ra hoàn cảnh mà trong đó có được “sự an toàn tuyệt đối”, nếu chưa “an toàn tuyệt đối” thì vẫn chưa đủ “an toàn”. Hiển nhiên, ông Noda không thể “đảm bảo” được cái mà chính ông cho rằng“không bao giờ có”. Do đó, chắc hẳn ông đã “hứa zậy mà không nghĩ zậy”, tức là ông ý thức được rằng mình không thể đảm bảo được an toàn điện hạt nhân. Nhưng để thỏa mãn nhu cầu trước mắt về điện năng của xã hội, một nhiệm vụ khó thoái thác của Chính phủ Nhật Bản, nên ông phải tìm cách thuyết phục nhân dân và chính quyền các địa phương liên quan, đồng ý tái khởi động một số nhà máy điện hạt nhân. Nếu bản thân Thủ tướng không tỏ ra tự tin thì chẳng thuyết phục được ai, nên ông mới tuyên bố hùng hồn như thế. Vậy là, để hoàn thành trách nhiệm chính khách, ông Noda lại hứa hẹn “kiểu thương nhân”.

Phát biểu tại buổi lễ tưởng niệm ở Hiroshima ngày 06/08/2011, trên cương vị Thủ tướng Nhật Bản thời đó, Naoto Kan bày tỏ ý muốn truyền bá cho nhân dân toàn thế giới kinh nghiệm xương máu, rút ra từ thảm họa hạt nhân Fukushima:

“Tôi tin rằng trách nhiệm của chúng ta là phải nhìn nhận thảm họa này như những bài học mới cho toàn nhân loại và phải truyền thụ nhận thức của mình cho nhân dân thế giới và các thế hệ mai sau”.

Nhận thức này cũng phù hợp với quan điểm của đương kim Thủ tướng Yoshihiko Noda, được trình bày trong diễn văn tại Hội nghị Thượng đỉnh về An toàn Hạt nhân kể trên:

“Thách thức lớn nhất đối với chúng ta trong việc ứng xử với tai nạn và thảm họa (điện hạt nhân) là đánh thức ký ức của mình. Thật ra, nhiệm vụ quan trọng và khó khăn nhất là truyền thụ kiến thức và những bài học của chúng ta cho các thế hệ mai sau, và tôi muốn nhấn mạnh rằng đó là nhiệm vụ mà mỗi nhà lãnh đạo phải có ý thức thực hiện nhằm tránh thảm họa”.

Nhận thức đúng về nguy cơ của thảm họa điện hạt nhân và không ngừng “đánh thức ký ức” là việc rất khó khăn, không chỉ đối với hàng tỉ người kém hiểu biết và thiếu kinh nghiệm, mà còn khó đối với... cả bản thân hai ông.

Sau khi xảy ra thảm họa Fukushima, ông Kan còn tiếp tục cầm quyền gần 6 tháng nữa. Trong thời gian ấy, không thấy ông đặt vấn đề dừng xuất khẩu công nghệ điện hạt nhân sang Việt Nam. Giờ đây, đương kim Thủ tướng Yoshihiko Noda vẫn tiếp tục theo đuổi dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận,[98]  mặc dù chính sách của Chính phủ ông là không xây dựng thêm nhà máy điện hạt nhân mới tại Nhật Bản và đưa Nhật Bản rút hoàn toàn khỏi điện hạt nhân vào thập kỷ 2030.[99]  Phải chăng đó là điều đáng buồn, cho nhân dân ta và cho cả các bạn Nhật. Đã biết là điện hạt nhân rất nguy hiểm và có thể gây thảm họa, chính nước Nhật xác định là phải rút dần ra khỏi điện hạt nhân, và muốn khuyên nhủ cả thế giới về điều đó. Nhưng đồng thời lại sẵn sàng kiếm tiền bằng cách xuất khẩu công nghệ khủng khiếp ấy sang các nước khác. Đại khái cũng giống như kiểu rao bán ma túy trên giảng đường: “Quý vị phải hiểu rằng ma túy vô cùng độc hại, là thứ giết người hàng loạt, nên bản thân tôi phải giã từ nó; nhưng nếu quý vị muốn mua thì tôi đảm bảo sẽ bán cho quý vị loại ma túy an toàn nhất thế giới...”

Phải chăng những người lãnh đạo Chính phủ Nhật Bản đang đánh đu giữa hai kiểu tư duy? Về đối nội, khi quyết định rút dần ra khỏi điện hạt nhân để bảo vệ dân tộc Nhật Bản, thì họ thể hiện tư duy “tầm chính khách”. Về đối ngoại, khi ủng hộ việc xuất khẩu công nghệ điện hạt nhân ra nước ngoài để thu lợi cho các nhà kinh doanh Nhật Bản, bất chấp tác hại cho phía đối tác và cộng đồng thế giới, thì họ lại thể hiện tư duy “tầm thương nhân”. Đừng quên rằng, khác với ma túy, thảm họa hạt nhân không phải là một thứ “tài sản quốc gia”, chỉ để xài riêng, mà dù muốn hay không thì các nước xa gần cũng phải cùng gánh chịu hậu quả. Hơn nữa, khi xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở những nước lạc hậu và ngập chìm trong tham nhũng, nhân lực chuyên môn vừa quá thiếu về số lượng, vừa quá yếu về chất lượng, lại quen làm liều, làm ẩu, thì nguy cơ thảm họa hạt nhân còn lớn hơn gấp bội lần so với ở Fukushima. Qua thử thách, người Nhật đã nhận ra rằng điện hạt nhân cũng vượt quá cả khả năng làm chủ của chính mình, nên họ cũng sẽ phải chịu một phần trách nhiệm khi giao thứ “đồ chơi” nguy hiểm ấy vào tay những người đang cố vươn lên tầm “võ vẽ”, cũng giống như sự liên đới khi bán vũ khí giết người cho trẻ con. Người Nhật nên ý thức rõ điều đó, không phải chỉ vì khía cạnh đạo lý đối với đồng loại, mà cũng vì sự an toàn của chính bản thân họ.

*
*     *
Về phía ta, không nên đổ trách nhiệm cho phía đối tác. Nhà máy điện hạt nhân có được xây dựng ở Việt Nam hay không, điều đó về thực chất chỉ do một số ít người lãnh đạo Việt Nam quyết định. Vận mệnh tương lai của dân tộc Việt Nam phụ thuộc vào việc họ vận dụng tư duy “tầm chính khách”, hay tư duy “tầm thương nhân”.

Vấp váp của Nhật Bản, dẫn đến thảm họa Fukushima, đã cho loài người những bài học vô giá, mà quan trọng nhất là: Bất luận điện hạt nhân có thể mang lại lợi ích gì, chỉ riêng việc nó có thể dẫn tới thảm họa, đe dọa sự tồn vong của dân tộc, thậm chí của cả loài người, thì cũng đã quá đủ để chúng ta khước từ nó.

Nếu lao vào canh bạc điện hạt nhân thì sẽ chuốc lấy tai họa kép. Trước mắt là tai họa kinh tế, góp phần dìm dân tộc ta ngập sâu trong nợ nần, đẩy các thế hệ con cháu lâm vào cảnh không biết bao giờ mới trả xong món nợ do giai đoạn này để lại. Kinh khủng hơn là nguy cơ về thảm họa hạt nhân, có thể đe dọa cả sự tồn vong của dân tộc.
Không thể đem sinh mạng của muôn dân và sự tồn tại của dân tộc để đặt cược vào canh bạc điện hạt nhân!

19/10/2012

Ghi chú: Tất cả các tài liệu được trích dẫn trong bài này đều được kết dẫn đến các địa chỉ lưu trữ tài liệu đó trên internet. Vì vậy, tốt nhất là đọc phiên bản điện tử nguyên vẹn của bài này để có thể nhanh chóng kết nối với các tài liệu gốc, nhằm tham khảo thêm nhiều thông tin liên quan. Nếu khi nhấn chuột mà không thấy xuất hiện tài liệu tương ứng thì có thể đường kết nối đang bị trục trặc, hoặc chủ nhân trang web đã xóa tài liệu liên quan sau ngày 19/10/2012.

Mấy bài viết của cùng tác giả về chủ đề điện hạt nhân:

Hoàng Xuân Phú: Mạn bàn về an toàn điện hạt nhân, 14/06/2011
Hoàng Xuân Phú: Phiêu lưu điện hạt nhân, 17/07/2011
[1] Osamu Tsukimori: Japan nuclear power-free as last reactor shuts, Reuters, 05/05/2012
[6] International Atomic Energy Agency: Tokai-1
[7] World Nuclear Association: Nuclear power in Japan, updated 05/2012
[10] Naoko Kagemoto: Terror at N-plant during quake, Daily Yomiuri Online, 17/03/2011
[12] Japan Atomic Industrial Forum: Earthquake report – JAIF, No. 93, 26/05/2011
[16] Japan Atomic Industrial Forum: Earthquake report – JAIF, No. 84, 17/05/2011
[17] Mitsuru Obe: Cores damaged at three reactors, The Wall Street Journal, 16/05/2011
[19] The Yomiuri Shimbun: Nuclear crisis: How it happened / Kan's visit 'wasted time', Daily Yomiuri Online, 09/06/2011
[23] International Atomic Energy Agency: Fukushima nuclear accident update log, 15/03/2011
[24] Hiroko Tabuchi, Keith Bradsher, Matthew L. Wald: In Japan reactor failings, danger signs for the U.S., The New York Times, 17/05/2011
[25] The Yomiuri Shimbun: TEPCO failures multiply / Compounding of missteps exacerbated nuclear crisis,  Daily Yomiuri Online, 02/04/2011
[27] The Yomiuri Shimbun: One crisis after another harried TEPCO's response, Daily Yomiuri Online, 14/04/2011
[28] International Atomic Energy Agency: Mission report - The Great East Japan Earthquake Expert Mission, 16/06/2011
[30] Norihiko Shirouzu, Phred Dvorak, Yuka Hayashi, Andrew Morse: Bid to 'protect assets' slowed reactor fight, The Wall Street Journal, 19/03/2011
[31] The Yomiuri Shimbun: TEPCO fax about seawater not passed to Kan for hours, Daily Yomiuri Online, 26/05/2011
[34] The Yomiuri Shimbun: Distrust grows among N-crisis players, Daily Yomiuri Online, 02/04/2011
[35] Norimitsu Onishi, Martin Fackler: In nuclear crisis, crippling mistrust, The New York Times, 12/06/2011
[36] Mari Yamaguchi: Japan's ex-PM: I was frightened by nuclear crisis, Associated Press, 28/05/2012
[37] Nathalie-Kyoko Stucky, Jake Adelstein: Ex-Prime Minister blames meltdown on “Nuclear Village”, inadequate laws and TEPCO/NISA incompetence, Japan Subculture Research Center, 30/05/2012
[39] Tsuyoshi Inajima, Michio Nakayama: Radiation readings in Fukushima reactor rise to highest since crisis began, Bloomberg, 27/04/2011
[40] Japan Atomic Industrial Forum: Earthquake report – JAIF, No. 102, 04/06/2011
[41] Japan Atomic Industrial Forum: Earthquake report – JAIF, No. 162, 03/08/2011
[42] World Nuclear Association: Nuclear radiation and health effects, updated 23/05/2012
[43] Katrin Hoerner: Radioaktivität: Krankheit und Tod auf Raten, Focus Online, 21/03/2011
[44] Japan Atomic Industrial Forum: Earthquake report – JAIF, No. 7, 15/03/2011
[48] Jason Clenfield: Fukushima engineer says he helped cover up flaw at Dai-Ichi reactor no. 4, Bloomberg Businessweek, 23/03/2011
[50] Christoph Neidhart: Betreiber Tepco fälschte Reparatur-Protokolle, Süddeutsche.de, 22/03/2011
[52] Paul Marks: Quake took out Fukushima cooling system before tsunami, NewScientist, 17/05/2011
[54] Yuji Okada, Tsuyoshi Inajima, Shunichi Ozasa: Japan’s Fukushima reactor may have leaked radiation before tsunami struck, Bloomberg, 19/05/2011
[55] World Nuclear Association: Chernobyl accident 1986, updated 04/2012
[57] Japan Atomic Industrial Forum: Earthquake report – JAIF, No. 68, 01/05/2011
[58] Norbert Lossau: “Diese Katastrophe wurde von Menschen verursacht”, Welt Online, 09/03/2012
[59] Japan Atomic Industrial Forum: Earthquake report – JAIF, No. 245, 25/10/2011
[60] Martin Fritz: Ein Wutanfall verhinderte atomares Horrorszenario, Welt Online, 09/03/2012
[61] Chris Rowthorn: Noda, tear down this 'nuclear village', The Japan Times Online, 18/10/2011
[62] Jeff Kingston: Japan’s nuclear village, The Asia-Pacific Journal, Vol. 10, Issue 37, No. 1, 10/09/2012
[63] David McNeill: Warnings of nuclear disaster not heeded, claims former governor, The Independent, 23/04/2011
[64] Martin Fackler: Japan’s former leader condemns nuclear power, The New York Times, 28/05/2012
[67] Adam Westlake: TEPCO ends its nuclear exports, The Japan Daily Press, 28/06/2012
[68] V. Trường: Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận sẽ an toàn, Người lao động, 13/04/2011
[69] Hương Giang: Nhật tôn trọng VN xây nhà máy điện hạt nhân, Tuổi trẻ, 23/05/2012
[74] Tấn Chương: Kế hoạch phát triển năng lượng hạt nhân của Việt Nam, Voice of America, 08/11/2010
[75] World Nuclear Association: Plans for new reactors worldwide, updated 02/2012
[76] World Nuclear Association: Advanced nuclear power reactors, updated 04/2012
[78] Claudia Wanner: Der schlaflose Krisensprecher Yukio Edano, Financial Times Deutschland, 16/03/2011
[79] Risa Maeda: Cut nuclear reliance to zero: Japan energy minister, Reuters, 06/04/2012
[81] Profile: Naoto Kan, BBC, 26/08/2012
[82] Linda Sieg, Yoko Kubota: Nuclear crisis turns Japan ex-PM Kan into energy apostle, Reuters, 17/02/2012
[83] Toko Sekiguchi: Japan's Ex-Premier turns anti-nuclear activist, The Wall Street Journal, 26/01/2012
[84] Martin Fackler: Japan’s former leader condemns nuclear power, The New York Times, 28/05/2012
[98] Noda confirms nuclear progress with Vietnam, The Japan Times Online, 23/04/2012