Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

Lịch sử thử nhìn lại


Lữ Phương

Các vấn đề được đề nghị nhìn lại ở đây đều xoay quanh hai nhu cầu liên hệ chặt chẽ với nhau trong lịch  sử hiện đại của Việt Nam – một “hệ vấn đề” theo cách nói của Nguyễn Kiến Giang – đó là độc lập dân tộc và canh tân xã hội (Nguyễn Kiến Giang: “Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam”, talawas.org, 14.4.2006). “Hệ vấn đề” này hiện nay vẫn còn đè nặng lên số phận đất nước, nhưng xét từ cội nguồn, nó đã bắt đầu từ khi Việt Nam bị thực dân Pháp, một ngoại bang xa lạ, từ thế giới  phương Tây đến xâm lược và thống trị, khác hẳn với kẻ xâm lược cũ đến từ phương Bắc quá quen biết từ mấy nghìn năm. Vì thế, như một nghịch lý nhưng là hiện thực, có thể nói rằng quá trình thức tỉnh để sinh tồn của Việt Nam đã bắt đầu từ cuộc đối đầu xương máu đó, để từ đó đặt những bước chân đầu tiên vào thời hiện đại đầy sóng gió, bất trắc. Với ý nghĩa là một cuộc thúc đẩy mò mẫm không tự sinh nhưng lại là tất yếu cho việc hình thành một ý thức mới về lịch sử.
1.
Tuy thời thế đã chuyển biến dữ dội, nhưng do xã hội cổ truyền Việt Nam xây dựng trên mô hình Trung Hoa phong kiến, quen chìm đắm trong cách nhìn nhận thế giới dựa trên hệ thống giá trị tiền hiện đại, nên sự đan cài khắng khít giữa hai vấn đề nói trên chưa được thế hệ những nhà yêu nước chống thực dân buổi ban đầu nhận thức đầy đủ. Chỉ khi phương pháp đấu tranh cũ tỏ ra bất lực, mà kết quả là vô vọng, thì thế hệ những nhà yêu nước kế tiếp mới nhận ra được lý do thất bại của cha anh: thực dân phương Tây không cùng tầm cỡ với người láng giềng phương Bắc “đồng văn” mà là sức mạnh của một hình thái phát triển xã hội đã vượt khỏi chúng ta bằng  cả một thời đại, vì đó không thể chiến thắng nó bằng cách huy động vốn liếng cũ, dù dựa trên một lòng yêu nước nồng nàn. Một nhận thức mới cũng đã nẩy sinh từ đó, không nhất quán, rõ rệt  nhưng dần dần hình thành với những nét chính sau đây:  muốn đánh đổ chủ nghĩa thực dân giành lại độc lập cho đất nước, tất yếu phải hình dung được một thể chế đưa được đất nước phát triển cùng thế giới hiện đại mà nội dung chủ yếu của nó là  công nghiệp hoá và dân chủ hoá với  những hệ quả về tư duy mà quá trình này mang đến. Mối quan hệ giữa hai vấn đề ấy từ đó đã trở thành cương lĩnh của các phong trào yêu nước về sau: công cuộc giải phóng dân tộc phải mang chở trong bản thân một quá trình canh tân xã hội, làm mới tinh thần.
Đây cũng là các vấn đề mà các quốc gia châu Á phải đối mặt trước sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây, nhưng do nội lực của Việt Nam (cũng như của nhiều nước bấy giờ) thiếu hẳn những nhân tố nội sinh về văn hoá để tự canh tân, dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng về đường lối lãnh đạo, nên lớp người yêu nước của thế hệ mới đều nhất loạt đề xuất phương pháp đi ra ngoài để cầu viện hoặc cần đến một kích động của một hệ thống khác để tư duy của Việt Nam chuyển biến. Phan Châu Trinh hướng về những giá trị tích cực của ngay nước Pháp mà thực dân đã nhân danh để “khai hoá” Việt Nam. Phan Bội Châu quay sang nhờ sự giúp đỡ của nước Nhật đã hoàn thành sớm cuộc canh tân. Nguyễn Ái Quốc lại hướng về nước Nga với viễn cảnh cuộc cách mạng đem lại quyền làm chủ cho những người lao động. Xét về một khía cạnh nào đó, đây chính là điều hay vì là một cuộc hội nhập về tư tưởng có tác dụng phá vỡ bức tường tù hãm của một xã hội khép kín: lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Việt Nam đã có điều kiện để thấy thế giới  rộng lớn hơn nhiều lần cái  chân trời Trung Hoa mà mình tưởng rằng đó là trung tâm của vũ trụ.
Nhưng tính chất đa phương phức tạp và mới mẻ của thế giới đó cũng đã là nguồn gốc sinh ra nhiều khác biệt trong hàng ngũ  những người Việt Nam yêu nước mà mở đầu là cuộc tranh luận giữa Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu. Cần chú ý rằng ở đây không có vấn đề về tình tự yêu nước, cũng không có bất đồng về sự cần thiết phải canh tân hay không,  mà chỉ là sự biện giải khác nhau về các phương pháp đặt ra trong tranh đấu, cụ thể là vào thời điểm bấy giờ, giữa hai vấn đề độc lập và canh tân phải ưu tiên cho vấn đề nào, nhu cầu về dân chủ ở Việt Nam phải đặt ra thế nào trước tình hình yếu kém và bị đô hộ của đất nước, và trong một  xã hội đang chuyển mình khó khăn có nên đương  đầu trực tiếp với thực dân bằng bạo lực hay không.
Về Phan Châu Trinh, chúng ta đều nhớ những đề xuất táo bạo của ông: không dùng bạo lực chống đối mà  ưu tiên cho dân chủ hoá, nâng cao dân trí theo văn minh Tây Âu và để thực hiện nhiệm vụ đó, không cần nhờ vả các nước ngoài xa lạ, mà nên yêu cầu chính quyền thực dân cho tiến hành những cải cách. Những ý kiến của Phan Châu Trinh  đã đụng chạm đến tận nền tảng xã hội  Việt Nam truyền thống, làm nổi bật lên sự đối lập giữa hai thế giới quan,  một phát triển, văn minh, năng động và một chậm tiến, lạc hậu, bưng bít. Dưới những chuẩn mực của các xã hội phát triển tập trung nơi nền văn minh phương Tây, Phan Châu Trinh đã vạch trần một cách không thương tiếc căn bệnh trầm kha của  con người Việt Nam thời phong kiến, hủ bại, sùng bái quá khứ, sùng bái Trung Hoa, và cho rằng nếu không biết tập trung tẩy trừ cho hết những tác nhân gây nên căn bệnh ấy mà cứ lao vào chiến đấu bằng bạo lực, kết quả nếu không vô vọng thì dù cho có chiến thắng cuộc chiến thắng cũng vô nghĩa.
Chúng ta cũng biết những ý kiến trên đây có nhiều điều không được Phan Bội Châu hoàn toàn tán đồng. Thí dụ nổi bật nhất là vấn đề dân chủ được Phan Châu Trinh coi là toa thuốc cứu nước vạn năng, nhưng đối với  Phan Bội Châu lại không thiết thực bao nhiêu, đơn giản chỉ vì giải pháp  ấy thiếu đi một cái nền nâng đỡ mà không có cái nền đó thì dân chủ chỉ là hư vô, không có chỗ tựa. Nước đã mất thì dân không còn. “Dân không còn nữa, mà chủ với ai?” (Phan Bội Châu: “Thư gửi Phan Châu Trinh”1907, trong Phan Bội Châu toàn tập,Tập 2, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1990, tr. 23).
Chưa  kể đến việc thực hiện lại phải đặt quá nhiều kỳ vọng vào thiện chí của chính quyền thực dân, và điều đó  đã được Trần Đình Hượu một nhà nghiên cứu sau này cho là không thích hợp:
“Phan Châu Trinh coi dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tưởng rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ – dù là do thực dân nắm giữ – để quét sạch những rác rưởi thối tha đó (…). Do ảnh hưởng sách vở, ông tin tinh thần “yêu giặc như bạn” của người Pháp, tin “Nã Phá Luân là người sứ giả Trời sai xuống rắc cái hoa tự do” cho Châu Âu. Ông tưởng thực tế cũng giống như trong sách vở, tưởng thực dân cũng tôn trọng tinh thần Cách mạng 1789, sợ hãi không đám vi phạm nó!” (Trần Đình Hượu: Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Chương  III, Mục III, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội 1988).
Sự khác nhau giữa Phan Châu Trinh với Phan Bội Châu là quá cách biệt: một bên “dựa Pháp đánh đổ vua” còn một bên “bài Pháp phục Việt”, chủ trương của Phan Châu Trinh rất cấp tiến nhưng không tránh  khỏi ít nhiều mộng tưởng, trong khi đó thì chương trình của Phan Bội Châu, tuy nấn ná hoài cổ nhưng lại có vẻ gần thực tế hơn. Trật tự tam cương ngũ thường vẫn còn là tơ tưởng của nhiều người, bây giờ không phục hồi lại như cũ mà nên noi gương một số nước chuyển sang thể chế quân chủ  lập hiến. Lực lượng vũ trang của phong trào Cần vương sau những thất bại thảm hại vẫn còn những tàn dư có thể tập hợp lại phục vụ cho  ngọn cờ canh tân do một lớp thanh niên mới đi du học từ Nhật về lãnh đạo.
Nhưng cuộc vận động của ông không tiến triển được thêm bước nào, tất cả đã cũng trở thành ảo tưởng không kém,  do Nhật Bản câu kết với thực dân Pháp chận đứng mọi chương trình của ông. Cuối cùng nhà chí sĩ bị trục xuất khỏi Nhật,  phải chuyển sang Trung quốc; 1912  lập Việt Nam Quang Phục Hội để tiếp tục hoạt động, đến 1924 mô phỏng Quốc Dân Đảng của Trung Hoa (do Tống Giáo Nhân, một đồng chí của Tôn Dật Tiên thành lập năm 1912), đổi Việt Nam Quang Phục Hội thành  Việt Nam Quốc Dân Đảng. Từ quân chủ lập hiến chuyển hẳn sang cộng hoà nhưng tôn chỉ  đấu tranh của Phan Bội  Châu vẫn như cũ: dùng bạo động gây tiếng vang và tạo sức ép với chính quyền thực dân.
Công việc đang dự định thì giữa năm 1925, ông bị Pháp bắt, bị đưa về Việt Nam kết án và an trí ở Huế, tổ chức mới vừa thành lập cũng tan rã.  Nhưng tinh thần của cuộc tranh đấu mà ông phát khởi vẫn được nhiều tổ chức  chính trị khác kế thừa, hoặc trong nước hoặc lưu vong, tất cả đều có thiên hướng dùng bạo lực khuấy động trật tự thực dân bằng  những cuộc ám sát, ném bom, nổi dậy… thể hiện qua hoạt động của những đảng phái mà sau này người ta thường gọi là “dân tộc chủ nghĩa”, “quốc gia”, “không cộng sản” như Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học, Việt Nam Cách mệnh Đồng Minh hội của Nguyễn Hải Thần, v.v. hầu hết đều hướng về lý thuyết “tam dân” của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi làm nguồn cảm hứng đấu tranh và tổ chức.
Phương thức tranh đấu đó khác hẳn với chủ trương của Phan Châu Trinh được kế thừa và phát triển thành các xu hướng hoạt động nâng cao dân trí bằng những chương trình văn hoá ở các thành thị, hoặc qua các đảng phái chính trị thành lập công khai, chủ trương vận động thay đổi thực tế theo lối cải lương dưới sự kiểm soát của chính quyền thực dân. Chúng ta hãy đọc ý kiến sau đây của nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu để hiểu thêm ý nghĩa của nhận xét đó:
“Ở vào thời điểm xuất hiện, tư tưởng cải cách dân chủ của Phan Châu Trinh là yêu nước, chưa thuộc xu hướng cải lương. Ý đồ của ông là “cùng với nhân nhân, chí sĩ ba kỳ thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấu rõ ngọn nguồn, đông tây sao mà chẳng vỗ nên bộp” (Thư Phan gửi cho Nguyễn Ái Quốc năm 1922). Lúc đó giai cấp tư sản chưa thành một lực lượng, nếu tán thành các chủ trương tư sản hoá thì cũng chỉ là với tư cách quần chúng đi theo các nhà khoa bảng. Lúc đầu thực dân tưởng có thể lợi dụng chủ trương cải cách đề làm đối trọng với phong trào bạo động chống Pháp, gần gũi với Trung Quốc, Nhật Bản. Khi thấy quần chúng đông đảo, thật sự thiết tha với độc lập và dân chủ tham gia, lái phong trào sang cách mạng thực sự thì thực dân Pháp mới can thiệp vừa bắt giam những người yêu nước cầm đầu, vừa tổ chức trường Quy thức, ban Tu thư, hội Khai trí tiến đức, cho ra báo Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí… đề xướng con đường Pháp Việt đề huề, hợp với giai cấp tư sản vừa phát đạt trước sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Đó là chủ nghĩa cải lương. Phan Châu Trinh cũng như các nhà yêu nước khác chống lại chủ trương đó. Nhưng trong tư tưởng “không bạo động, bạo động thì chết” của ông lại có chỗ cho những người thân Pháp và sợ chết dựa vào để chống phong trào yêu nước và cách mạng, biện hộ cho chủ nghĩa cải lương”. (Trần Đình Hượu: như trên)
2.
Có một xu hướng khác xuất phát từ mảnh đất đấu tranh nói trên nhưng cuối cùng đã chuyển sang một con đường mới mẻ hoàn toàn: đó là xu hướng cộng sản do Nguyễn Ái Quốc chủ xướng. Nguyễn Ái Quốc là người hợp tác chặt chẽ với Phan Châu Trinh khi mới bắt đầu gia nhập đời sống chính trị ở Pháp. Chính người thanh niên này đã cùng nhóm Phan Châu Trinh thảo ra “Yêu sách của nhân dân An Nam” ( còn gọi là “Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam”) gồm 8 điểm, tự tay gửi đến hoà hội Versailles (1919) yêu cầu thực thi những đề xuất của Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson cải cách tình hình chính trị ở các nước thuộc địa, trong đó có những thuộc địa của Pháp tại Đông Nam Á, nhưng chờ đợi không thấy kết quả gì, nên ngả sang con đường mới với mong mỏi tìm được một lực lượng bên ngoài có khả năng giúp được Việt Nam thoát khỏi xiềng xích của thực dân một cách thiết thực và hiệu nghiệm hơn (Xem Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, trong “Đặc trang Lữ Phương”, Viet-Studies).
Lực lượng mới này tuy được gọi chung là “cộng sản”  lấy học thuyết Marx làm kim chỉ nam, thống nhất trong việc chống đế quốc tư bản, xây dựng nên một xã hội tương lai không còn cảnh người bóc lột người, nhưng trong thực tế học thuyết đó lại có nhiều biến dạng với nhiều trường phái, cách mạng có, cải lương có, tranh luận nhau  bất phân thắng bại. Bây giờ chúng ta biết rõ lý luận mà Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận thuộc trường phái gọi là “Marx-Lenin”, được những nhà nghiên cứu phân tích như một thứ học thuyết đặc thù về Marx (vốn là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản phương Tây) do Lenin giải thích lại để vận dụng vào việc chống tư bản và xây dựng xã hội mới cho những nước phụ thuộc và thuộc địa, nơi chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển.
Tuy do Đệ Tam quốc tế chỉ đạo dưới sự chi phối của Liên Xô, nhưng qua các Đại hội, qua sự khác biệt về quyền lợi của từng quốc gia, đường lối  không phải lúc nào cũng thống nhất, vì đó cũng gây ra chia rẽ, công kích nhau rất căng thẳng. Hồi mới tập tễnh làm chính trị, Nguyễn Ái Quốc không hiểu hết lý luận và những phức tạp của nó nhưng ông vẫn nhanh chóng chấp nhận vì thấy Đệ tam Quốc tế  ủng hộ rất tích cực phong trào giải phóng dân tộc, chứ không thờ ơ như những thế lực quốc tế khác. Đây là điểm quan trọng xuyên suốt tiểu sử chính trị của ông: vấn đề giải phóng dân tộc phải được xem là mối quan tâm hàng đầu bên cạnh những vấn đề khác của cách mạng vô sản. Vì thế đặt trong bối cảnh đấu tranh của Việt Nam vào tiền bán thế kỷ 20, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam theo xu hướng của Nguyễn Ái Quốc không khác gì bao nhiêu những  tổ chức yêu nước có nội dung canh tân khác.
Đường lối khái quát do Nguyễn Ái Quốc  phác hoạ là vào tháng 2 năm 1930 khi ông hợp nhất  được các phe phái cộng sản đang xâu xé lẫn nhau, đường lối này –  không lâu sau đó bị xu hướng quá khích trong đảng (đại biểu cho  Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 6, năm 1928) đem ra chỉ trích nặng nề khiến ông bị giữ lại ở Liên Xô suốt 7 năm, đến 1938 mới được phép trở ra hoạt động lại – nội  dung thật sự chỉ là đường lối mà các cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở những nước thuộc địa hoặc phụ thuộc chủ nghĩa thực dân trên thế giới vạch ra: chống đế quốc để giải phóng dân tộc, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng cùng với các quyền tự do dân sự cho một xã hội công dân độc lập.
Như vậy là trong hai vấn đề chống xâm lược và canh tân xã hội, vấn đề thứ nhất đã được Nguyễn Ái Quốc đặt lên hàng ưu tiên, chính diện, không khác gì bao nhiêu với chủ trương của Phan Bội Châu (trong vấn đề đó).  Việc sử dụng bạo lực mà Phan Bội Châu đặt ra trong tranh đấu thì được phát triển theo quan điểm cách mạng của đông đảo quần chúng (dù dưới hình thức khởi nghĩa hay chiến tranh) và được kết hợp với nhiều phương thức đấu tranh khác (chính trị, văn hoá…), công khai/bí mật, ôn hoà/bạo lực tuỳ theo tình thế mà ứng biến,  chứ không chỉ loay hoay trong những cuộc bạo động gây tiếng vang hoặc chỉ giới hạn cuộc vận động vào từng lớp bên trên như nhiều đảng phái  khác.Tính chất dân chủ mà phong trào cộng sản hay nói đến đã được thể hiện qua những  biện pháp vận động rộng rãi này.
Những mục tiêu đó đã là cơ sở để Đảng Cộng sản có thể hợp tác với những đảng chính trị theo chủ nghĩa dân tộc khác.  1925, từ Nga sang Trung quốc hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã  có quan hệ tốt với Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lãm… là những người đấu tranh chống thực dân theo đường lối Quốc Dân Đảng của Tôn Trung Sơn, lãnh tụ cuộc Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc. Ngay cả khi thành lập chính phủ lâm thời năm 1946, vẫn có nhiều thành phần của phe “quốc gia”, đối lập về chính kiến,  từ Trung Quốc về nước chia quyền như Nguyễn Hải Thần… trong Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh…  trong Việt Nam Quốc Dân Đảng … Vì lúc bấy giờ cuộc liên minh giữa các cường quốc (trong đó có Liên Xô) vẫn còn hiệu lực để thực hiện cuộc tấn công cuối cùng đè bẹp chủ nghĩa phát xít và thanh toán tàn dư của nó, nên vấn đề quốc/cộng ở Việt Nam vẫn chưa bùng nổ. Và đó cũng là nguyên nhân làm cho cuộc khởi nghĩa 1945 thành công dễ dàng, trong đó có việc khai thác chính xác kết quả của liên minh chống phát xít trên thế giới khiến Nhật đầu hàng.
Nhưng tất cả đều đảo ngược khi Chiến tranh Thế giới 2 vừa chấm dứt, cho phép quân Tưởng Giới Thạch từ phía Bắc, quân Anh từ phía Nam tràn vào giải giới quân Nhật, tạo điều kiện cho thực dân Pháp giành lại quyền lực đã bị sự chiếm đóng của Nhật vô hiệu hoá từ 1940. Sách lược  liên hiệp các thành phần khác nhau thể hiện trong chính phủ lâm thời, trước sự hiện diện của các thế lực quốc tế chống cộng sản và đòi hỏi phục hồi vị thế của thực dân Pháp, kéo dài được một thời gian ngắn ngủi, đã đi đến chỗ tan vỡ hoàn toàn (sự kiện phố Ôn Như Hầu tháng 7.1946). Sau một thời gian thương lượng tìm một giải pháp hoà bình với Pháp không xong, chính phủ Hồ Chí Minh (tên mới của Nguyễn Ái Quốc khi ra công khai) đã chủ trương rút lui vào bưng biền kháng chiến. Cuộc liên minh chống phát-xít giữa Liên Xô và các cường quốc phương Tây cũng hạ màn, cuối cùng dẫn đến cuộc Chiến tranh Lạnh do Mỹ và Liên Xô cầm đầu, phân chia thế giới thành hai phe theo hai đường lối, hai ý thức hệ đối lập nhau gọi là  tư bản và cộng sản.
Thật sự thì Chiến tranh Lạnh đã manh nha trước khi Chiến tranh Thế giới 2  chấm dứt do nhiều bất đồng của các cường quốc phương Tây với Liên Xô,  nhưng phải đợi  tiếng súng im đi, mới bộc lộ rõ hơn, trong  việc phân chia vùng ảnh hưởng và chiếm đóng giữa hai bên, cùng với việc Mỹ viện trợ tái thiết một số nước châu Âu để không rơi vào tay cộng sản,  từ đó  hình thành học thuyết gọi là “be bờ” (containment) “ngăn chặn làn sóng đỏ” của tổng thống Mỹ Truman năm 1947, khởi đầu từ châu Âu rồi lan khắp thế giới. Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của Việt Nam cũng bị hút vào ngay sau  cách mạng 1945, khi Pháp được Mỹ yểm trợ tái lập chế độ thuộc địa. Sự can thiệp của Mỹ càng ngày càng sâu hơn và mạnh mẽ hơn vào Việt Nam khi Mao Trạch Đông đẩy Tưởng Giới Thạch ra biển vào năm 1949 để sau đó đụng độ trực tiếp với Mỹ  trong chiến tranh Triều tiên (1950). Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh không có cách nào khác là ngả hẳn về “phe xã hội chủ nghĩa” nhờ chi viện, trong đó Trung Quốc được Stalin giao cho vai trò trực tiếp, để tiếp tục cuộc chiến đấu của ông.
Trung Quốc bấy giờ vẫn liên minh với Liên Xô, nên cũng hết sức giúp đỡ Việt Nam, nhờ đó Việt Nam tạo ra một chiến thắng cuối cùng tại lòng chảo Điện Biên ác liệt. Nhưng chính sự giúp đỡ dần dà của Trung Quốc đưa đến chiến thắng quyết định này đã đẩy Việt Nam vào vòng phụ thuộc “người anh em” của mình  hết sức nặng nề. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc tuy bên ngoài danh nghĩa là những  nước thuộc cùng một chiến tuyến chống đế quốc, chia sẻ cùng một ý thức hệ quốc tế vô sản, nhưng quyết định chính sách đối ngoại của hai bên vẫn là những quyền lợi thiết thân của một quốc gia và đối với Việt Nam thì Trung Quốc đương nhiên bao giờ cũng là một “đại ca”.
Nhiều tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam cho biết khi được mời tham dự  hoà hội Genève 1954, vừa chiếm được quyền lực trên lục địa, Trung Quốc đã thông qua việc dàn xếp một cách bất lợi cho Việt Nam để  khẳng định sự hiện diện của mình trên chính trường quốc tế. Khi tiếp tục giúp Việt Nam về sau, Trung Quốc vẫn xem Việt Nam như một công cụ để sử dụng vào lúc thích hợp. Theo dư luận trong Đảng, Hồ Chí Minh không phải không biết điều này nhưng mọi thứ đã an bài vì với ông không có gì quan trọng bằng sự đoàn kết “bầu bạn” khắp nơi để giành lại độc lập từ sự thống trị của thực dân. Không biết ông có lường được hết hậu quả hay không, nhưng thực tế cho biết rõ là càng dựa vào “phe xã hội chủ nghĩa” để chống thực dân thì khái niệm này càng ngày càng mất đi ý nghĩa phổ quát mà ông đã hình dung khi lựa chọn để mang những thuộc tính riêng biệt và cụ thể: một mô hình “xã hội chủ nghĩa” đặc trưng mà Mao Trạch Đông đã sáng tạo cho Trung Quốc.
Vì thế, theo một nghĩa nào đó cũng có thể coi sự thành công của cách mạng cộng sản ở Việt Nam chính là  kết quả của cuộc nội chiến ở Trung Quốc: nếu Mao Trạch Đông không đánh bại được Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc thì có lẽ tình hình sẽ hoàn toàn có lợi cho phe thân Tưởng nằm phục lâu năm ở đây và số phận của  Việt Nam cũng vì đó mà có thể  khác đi rất nhiều. Nhưng những gì diễn ra trong lịch sử đã không cho phép chữ nếu này tồn tại. Với sự cận kề về địa lý, phụ thuộc về văn hoá truyền thống, huyễn hoặc về ý thức hệ, dựa vào Mao Trạch Đông để  chiến thắng thực dân Pháp, Việt Nam rất khó thoát khỏi sự thao túng của chủ nghĩa cộng sản mao-ít.
3.
Như vậy là từ việc cùng tồn tại chung, qua nhiều lần hợp tác, phân hoá, với nhiều xu hướng chính trị yêu nước khác, phong trào cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo ngày càng chiếm được vai trò chủ đạo trong  công cuộc chống thực dân giành chủ quyền cho dân tộc, nhưng ý nghĩa của nó cũng ngày  càng phức tạp, không còn đơn giản như lúc ban đầu: điều này đã thể hiện rõ rệt qua hai giai đoạn khác nhau, như chúng ta đã biết,  trong quá trình tranh đấu của nó.
Giai đoạn thứ nhất: từ ngày thành lập đến cuộc khởi nghĩa 1945 thành công, thiết lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong giai đoạn này, cương lĩnh tranh đấu tuy do Đảng đề xuất nhưng nội dung chỉ dừng lại ở cuộc cách mạng tư sản dân quyền theo kiểu Tôn Trung Sơn. Do cương lĩnh có nội dung đó, dù khác nhau hoặc đối lập nhau về tư tưởng, những người cộng sản và các đảng phái phi cộng sản vẫn có thể hợp tác với nhau để hành động chung. Tình hình thế giới thuận lợi cho sự hợp tác đó vì trước hiểm hoạ phát-xít, đã có sự liên minh giữa các cường quốc để chống lại.
Sự hoàn tất của cuộc khởi nghĩa 1945 ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh đó với một ghi nhận quan trọng cần được nhấn mạnh: đó là một cuộc cách mạng hoàn toàn tự lực của Việt Nam, không hề có sự giúp đỡ trực tiếp của Đảng Cộng sản  Liên Xô lẫn Đảng Cộng sản Trung quốc. Nội dung dân tộc và dân chủ trong đường lối đấu tranh tự lực của của Đảng Cộng sản trong giai đoạn này đã thể hiện rất rõ trong “Tuyên ngôn độc lập” và Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 1946 như một cột mốc mang tính bản lề để đất nước vượt qua xã hội cổ truyền, hội nhập thế giới hiện đại và giải quyết những  vấn đề căn bản cho một Việt Nam phát triển trong dân chủ mà lịch sử đã đặt ra từ đầu thế kỷ 20.
Giai đoạn hai: từ sau 1949 trở đi, khi cách mạng Trung Quốc thành công, do tình thế bất khả kháng phải dùng chiến tranh để bảo vệ thành quả đã đạt được trong cách mạng 1945, Hồ Chí Minh chuyển hẳn sang dựa dẫm Trung Quốc để chống thực dân. Tính chất dân tộc của cuộc tranh đấu đã bắt đầu nhuốm đậm màu ý thức hệ, không phải là ý thức hệ mác-xít nói chung mà là thứ  đặc sản tinh thần mới của Trung Quốc mệnh danh là chủ nghĩa  Mao, theo chân các đoàn cố vấn Trung Quốc cùng với súng đạn và lương thực tràn vào Việt Nam. Những cuộc đấu tố cải cách ruộng đất, những cuộc tẩy não tư tưởng diễn ra trong hàng ngũ cán bộ và quân đội  ngay trong lúc chiến tranh chống Pháp đang tiếp diễn đã có tác dụng áp đặt cho Việt Nam một đường lối sẽ được khai triển toàn diện về sau này.
Vấn đề cộng sản và không cộng sản, trước đây nhạt nhoà trước nhu cầu chống thực dân, bây giờ đã trở thành tác nhân gây chia rẽ dân tộc, làm phân liệt cả hàng ngũ những người yêu nước chống Pháp, hoặc riêng biệt hoặc hợp tác với cộng sản, từ đó đã đưa cuộc đấu tranh của Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, trong giai đoạn này sự chiếm lĩnh độc tôn về  quyền lực của một thành phần cục bộ đã được đem ra thay thế cho sự hợp tác giữa những thực thể  riêng biệt trong một toàn phần.
Sự rạn nứt đó đã vỡ oà ra cùng với cuộc Chiến tranh  Lạnh đang tăng cường độ ở châu Á.  Nhân danh chủ nghĩa chống cộng, Mỹ can thiệp vào Việt Nam để giúp thực dân Pháp duy trì thuộc địa càng đẩy Việt Nam rơi sâu vào ảnh hưởng của Trung Quốc, thể hiện ngày càng quyết liệt qua cuộc xung đột giữa hai miền Nam/Bắc sau 1954. Cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc đã cản trở Việt Nam thống nhất trong hoà bình. Miền Nam biến thành tiền đồn của “thế giới tự do” để Mỹ thực hiện chính sách ngăn chặn sự bành trướng của phe cộng sản theo học thuyết domino.
Điều đó cũng giả định Việt Nam và Trung Quốc “tuy hai mà một”, cả hai đều muốn mở rộng chủ nghĩa cộng sản xuống toàn vùng Đông Nam Á.  Giả định này không hoàn toàn vô lý nếu nhìn từ nội tại, vì miền Bắc Việt Nam đã thực hiện việc cải tạo xã hội theo mô hình Mao Trạch Đông, tiếp tục các chính sách đã tiếp nhận từ Trung Quốc khi còn kháng chiến: thực hiện “cải cách ruộng đất” để tước đoạt thành quả mà nông dân đã có được trong thời cách mạng dân tộc dân chủ, nhân danh một thứ lý thuyết không tưởng được cho là chân lý duy nhất để lãnh đạo, căn cứ vào đó thủ tiêu mọi hứa hẹn trước đây về quyền tự do tư tưởng cho trí thức và áp đặt lên đời sống một hình thái văn hoá chuyên chính ngu dân, lạc hậu.
Nhưng từ một góc nhìn rộng lớn hơn thì lập luận ấy chỉ là kết quả của suy diễn. Bấy giờ Trung quốc dù có muốn “xích hoá” Đông Nam Á thì cũng cũng không đủ sức, nếu có thì cũng chỉ xúi giục  Việt Nam, nhưng chỉ trong giới hạn nào đó có lợi cho mình. Còn Việt Nam thì lại chỉ theo đuổi dự định thiết thân: trong khi quyết tâm chống Mỹ để thống nhất đất nước thì cũng cưỡng lại Trung Quốc, không chấp nhận kéo dài nhùng nhằng. Rốt cuộc mặc dù không vừa ý, nhưng Trung Quốc vẫn ủng hộ Việt Nam, ngoài việc muốn sử dụng Việt Nam như một công cụ, còn vẫn giữ chính sách thù địch với Mỹ do vấn đề Đài Loan và sau chiến tranh Triều Tiên.  Nhưng khi sự tranh giành vị trí bá quyền với Liên Xô trong phong trào cộng sản quốc tế lên cao dẫn đến xung đột vũ trang, Trung Quốc đã xem Liên Xô như một “đế quốc xã hội”, nhanh chóng  chuyển sang hợp tác với Mỹ để chống lại. Ngoài việc nắm lấy thời cơ để phân hoá kẻ thù, Mỹ còn muốn qua việc hợp  tác này, nhờ Trung Quốc áp lực với Việt Nam hỗ trợ Mỹ trong giải pháp rút lui chủ động hơn khỏi  cuộc sa lầy ở Đông Nam Á.
Trung Quốc đã lợi dụng tình hình đó chiếm đoạt Hoàng Sa của Việt Nam trong tay chế độ Sài gòn năm 1974, trước sự án binh bất động của Hạm đội 7 của Mỹ đang lảng vảng ngoài Biển Đông. Mâu thuẫn giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng trở nên gay gắt khi Việt Nam bất chấp những cuộc đi đêm giữa Mỹ và Trung Quốc bất lợi cho mình, nhất quyết thực hiện việc thống nhất đất nước bằng quân sự.  Sau đó không lâu khi Đặng Tiểu Bình chủ trương hiện đại hoá Trung Quốc bằng thủ đoạn “lòn trôn”, trắng trợn ve vãn Mỹ để du nhập khoa học và công nghệ thì Việt Nam đã được Trung Quốc sử dụng một lần nữa như một con chốt.
Để đối phó, thay vì nhanh chóng bình thường hoá quan hệ với Mỹ để hoá giải cuộc cờ, Việt Nam quá ảo tưởng về mình sau khi thắng Mỹ,  lại đưa điều kiện bồi thường chiến tranh để đàm phán, không gặt hái được kết quả gì, cuối cùng để chống trả thái độ thù địch ngày càng hung hãn của Trung Quốc, đã phải ngả hẳn sang Liên Xô, với niềm xác tín rằng Liên Xô “xã hội chủ nghĩa” đích thực hơn. Sự thách thức ấy đã được Trung Quốc trả đũa bằng cách sử dụng Khmer Đỏ tăng cường khuấy phá biên giới phía Nam; khi Việt Nam chiếm đóng Campuchia để trừng trị, năm 1979 Trung Quốc đã vận động tranh thủ sự tán đồng của Mỹ, mở cuộc tấn công đánh phá tan tành một số tỉnh miền Bắc để “dạy”  cho tên “côn đồ Việt Nam” một bài học.
Bị tổn thất nặng nề, không buộc được Việt Nam rút khỏi Campuchia ngay, nhưng Đặng Tiểu Bình cũng thành công trong việc làm cho Việt Nam bị cô lập và kiệt quệ trong một thời gian dài. Trong khi đem máu của binh sĩ hai nước  ra chứng minh với Mỹ rằng mình không còn nằm trong phe cộng sản nữa ( Việt Nam là một Cuba ở châu Á cần trừng trị), Trung Quốc đã nhận được từ Mỹ  một món quà mà nội dung là một khoảng thời gian yên bình gần 30 năm để tiếp nhận công nghệ và khoa học phương Tây, cần thiết cho việc thực hiện  chủ trương “bốn hiện đại hoá”, hy vọng thoát khỏi lạc hậu, mau chóng trở thành cường quốc. Còn Việt Nam thì sau cả chục năm trì trệ vì quá tin vào Liên Xô, đến khi Liên Xô sụp đổ, không biết bám víu vào ai để tồn tại như một chế độ chuyên chính nên nghe theo Tổng bí thư Nguyễn  Văn Linh lúc bấy giờ (1991) vội vã quay về với người bạn Trung Quốc để nối lại mối quan hệ “đồng chí tốt” đã có từ lâu.
4.
Ngày nay các cuộc chiến tranh chống các thế lực thực dân, đế quốc phương Tây coi như đã lui vào dĩ vãng. Cuộc Chiến tranh Lạnh giữa hai phe chia đôi thế giới cũng đã lụi tàn. Cương lĩnh gọi là “xây dựng chủ nghĩa xã hội” theo mô hình Stalin-Mao cũng đã tan vỡ theo sự sụp đổ của cái hệ thống quốc tế đã cổ xuý nó.  Để tồn tại cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều phải thích ứng chuyển đổi đường lối,  đường lối này thường được gọi là “chủ nghĩa Lenin-thị trường”,  với những cải biến xa hơn về mặt lý luận: đuổi hàng hoá và thị trường ra khỏi sự phê phán của Marx về chủ nghĩa tư bản, nhưng vẫn lén lút bám chặt vào mấy chữ “chuyên chính vô sản” của ông về thời kỳ quá độ, cốt chỉ để duy trì cho được sự thống trị độc quyền vĩnh viễn của Đảng cộng sản đối với đời sống chính trị của đất nước. Nói cách khác là làm kinh tế thị trường nửa vời bằng một nhà nước độc tài tuyệt đối. Không có gì gọi là “chủ nghĩa xã hội” thật sự ở đây để phải bận tâm tranh cãi thêm về mấy chữ “định hướng” hay “tiến lên” đi theo nó cả.
Với đường lối nói trên, Đảng Cộng sản Việt Nam cố giữ thói quen nhún nhường đối với người láng giềng phương Bắc, hy vọng tạo ra một động lực mới và một không khí hoà bình để đuổi kịp nhịp phát triển của các nước trong khu vực.  Nhưng kết quả lại không như mong muốn. Chính sách của Đặng Tiểu Bình, lấy Việt Nam làm con chốt thí để chiếm lòng tin của giới lãnh đạo Mỹ (dạy Việt Nam một bài học 1979), đồng thời quyết liệt dùng bàn tay sắt đập tan mọi ý hướng canh tân dân chủ hoá (sự kiện Thiên An Môn 1989),  sau 30 năm thực hiện một thứ chủ nghĩa tư bản nhà nước chuyên chế, nếu đã đưa được Trung Quốc lên thành một cường quốc thì cũng với những cố gắng sửa chữa sai lầm để thực hiện chính sách “đổi mới” đặt nền trên trấn áp chính trị, sự  lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam lại tạo ra những kết quả trái ngược. Theo chân Trung Quốc mở cửa chào đón chủ nghĩa tư bản quốc tế, cho phép giai tầng trung lưu nội địa hoạt động trở lại, sự lãnh đạo đó vẫn không đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, tụt hậu để “hoá rồng” mà vẫn chìm ngập trong vũng lầy nhược tiểu, thối nát, tầm nhìn không thoát khỏi những toan tính lợi ích bè phái trước mắt, vì đó đã đưa toàn xã hội vào cảnh chụp giật hỗn loạn,  đất nước lệ thuộc bên ngoài nhiều mặt.
Trước tình hình rối ren ấy, mối quan hệ giữa Việt Nam với người bạn phương Bắc lại rẽ sang một khúc quanh đầy nguy hiểm: dựa vào những kết quả đạt được trong 30 năm phát triển, Trung Quốc đã tạo ra được sức mạnh đủ để mưu tính trở thành một siêu cường mới ở châu Á, thách thức và đi đến chỗ  muốn thay thế vai trò bá quyền của Mỹ đã suy yếu trong những năm gần đây. Toan tính ấy mang tính hiện thực đến mức nào thì còn phải chờ xem, nhưng trước mắt Trung Quốc đã gieo rắc tham vọng đó khắp nơi bằng hàng loạt những biện pháp tham lam của một đế quốc không cần giấu mặt. Quan trọng nhất  là đã tập trung tăng cường sức mạnh quân sự, dựa vào sức mạnh này, hăm doạ độc chiếm Biển Đông, khống chế vùng Đông Nam Á.
Riêng đối với Việt Nam âm mưu đó được thực hiện một cách toàn diện, vì từ vị trí địa chính của mình Việt Nam chứa đựng tiềm năng tiếp tục trở thành một cái nút chặn lộ trình đi xuống phía Nam của chủ nghĩa dân tộc Đại Hán. Vì thế, ngoài việc liên tục quấy phá, cướp đoạt, lấn chiếm, bắn giết ngoài Biển Đông, Trung Quốc tìm cách xâm nhập vào nội bộ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, tình báo để thao túng, biến Việt Nam thành một quốc gia phên giậu, phụ thuộc để khai thác và sai khiến.
Một câu hỏi khắc nghiệt không thể không đặt ra: phải chăng  không muốn nhưng một lần nữa người Việt Nam lại phải bắt đầu một cuộc đối kháng mới với kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mình, giống như cha ông chúng ta đã phải đương đầu từ hàng nghìn năm về trước? Phải chăng nói như một nhà nghiên cứu: mọi cuộc chiến đấu chống các đế quốc phương Tây để gìn giữ chủ quyền của Việt Nam đều trở nên “thứ yếu” so với cuộc đương đầu với chủ nghĩa bành trướng Đại  Hán phương Bắc? (Marvin Ott: “Thế kẹt trước Trung Quốc: Bản lĩnh và sự khôn khéo của Việt Nam”,  Nghiên cứu Biển Đông 1.6.2012). Dù cho thông tin hiện nay chưa cung cấp cho chúng ta đầy đủ yếu tố để trả lời các câu hỏi này bằng một khẳng định có tính chất đại chiến lược cho cả một thế kỷ, nhưng căn cứ vào những sự kiện đã diễn ra hơn 50 năm qua cho đến ngày nay, bất cứ người Việt Nam nào có chút ưu tư đều cảm thấy cái tai hoạ từ phương Bắc đang đè nặng  lên số phận đất nước, ngày càng lộ rõ, ngày càng trắng trợn.
Trước tình hình nguy ngập nói trên, chúng ta đều trông đợi thái độ của  Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là tổ chức chính trị từng dính líu quá sâu vào ý thức hệ mao-ít trong thời kỳ chống thực dân và hiện nay đang là đảng cầm quyền tự cho mình là người duy nhất chịu trách nhiệm trước dân tộc về mối đe doạ bành trướng của Trung quốc. Chúng ta hy vọng Đảng Cộng sản sẽ công bố đường lối của mình trước toàn dân, như trước đây đã từng công bố nhiều lần trước những biến cố quan trọng của đất nước. Trong khi chờ đợi, ở đây chúng ta chỉ căn cứ vào những gì đã trình bày ở trên để rút ra một số kết luận có tính chất hiển nhiên, dựa vào đó hình dung một chiến lược ứng phó có thể có cho dân tộc mà nội dung gồm những điều chủ yếu như sau:
  • Ý thức hệ gọi là “xã hội chủ nghĩa” mà Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng trong thời kỳ chống xâm lược nếu có tác dụng tìm kiếm sự hỗ trợ bên ngoài, khi đem ra thực hiện trong xây dựng đã hiện nguyên hình là một mô hình không tưởng chuyên chế, đi ngược lại mọi viễn cảnh canh tân trong dân chủ, không tạo đoàn kết mà chỉ gây chia rẽ dân tộc và đưa dân tộc vào con đường lệ thuộc tinh thần.  Chủ nghĩa “Mác-Lênin” cơ sở xây dựng “chủ nghĩa xã hội” ở Việt Nam chỉ là một sản phẩm du nhập mang tính chất chính trị tình thế, có nội dung Stalin được Mao Trạch Đông Trung Quốc hoá.
  • Trên thực tế, nhất là trên mặt quan hệ quốc tế, Đảng Cộng sản Trung quốc đã từ bỏ ý thức hệ gọi là “chủ nghĩa xã hội” từ lâu. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa hiện nay là quan hệ bình đẳng giữa hai quốc gia, không thể lấy quan hệ đồng nhất về ý thức hệ để xử lý các vấn đề có liên hệ đến quyền lợi của hai nước. Nếu sử dụng khái niệm này để quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam  sẽ rơi vào cái bẫy tâm lí chiến gọi là “ vì đại cuộc”do Trung Quốc giăng ra.
  • Qua tất cả những diễn biến của lịch sử quan hệ giữa hai nước suốt cả nửa thế kỷ đã qua, Trung Quốc không lúc nào ngừng o ép Việt Nam dựa trên những lợi ích của một quốc gia theo chủ nghĩa bành trướng nước lớn, đến nay đã trở nên trắng trợn hơn bao giờ hết trong toan tính biến Việt Nam thành một thứ phên giậu, phụ thuộc, để sử dụng, khống chế. Không có gì gọi là “hữu nghị”  hoặc “đồng chí tốt”, “láng giềng tốt” biểu hiện trong mối quan hệ ấy.
  • Chỉ có một thể chể chính trị mạnh về mọi mặt, bên ngoài có chỗ dựa của sự đồng tình quốc tế, bên trong  là một nhà nước có được sự hậu thuẫn của nhân dân, mới tạo ra được sức mạnh tổng hợp ngăn chặn sự gây hấn của một Trung Quốc đang trở thành đế quốc. Vì vậy một đường lối ngăn chặn chủ nghĩa Đại Hán phương Bắc ngày nay tất yếu cũng phải trở về cội nguồn của cuộc đấu tranh chống thực dân từ đầu thế kỷ 20: chống xâm lược bên ngoài phải đi cùng với việc canh tân và dân chủ hoá xã hội bên trong.
***
          Trong viễn cảnh hiện đại hoá, vấn đề ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng Đại Hán như vậy không đơn thuần chỉ là  việc bảo vệ một cõi “Nam quốc sơn hà” như  ông cha chúng ta đã làm trước đây: thực chất đó là việc phủ nhận một mô hình phát triển không những không đưa đất nước hội nhập vào thế giới hiện đại một cách đích thực mà còn đẩy dân tộc vào vòng lệ thuộc. Suốt một thời gian dài, vì  nhu cầu bức thiết của công cuộc đấu tranh chống các hình thức thực dân phương Tây, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị cuốn hút vào cái ý thức hệ ngoại lai đặc biệt đến từ phương Bắc đó, coi như một sự trợ giúp cần thiết mà không ý thức hết cũng như không lường hết được hậu quả trầm trọng và lâu dài của nó. Ngày nay trước nguy cơ chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang chuyển mình thành chủ nghĩa thực dân hiện đại, những người cộng sản không thể không tìm về giai đoạn đấu tranh trong  tự lực và tự chủ của mình như một điểm tựa truyền thống phi-mao-ítđể thoát khỏi sự không chế của nó, do đó cần thiết cũng phải nhìn lại các mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực ý thức hệ, qua các giai đoạn đấu tranh khác nhau, một cách khách quan, đúng như đã diễn ra một thời trong lịch sử. 
1.6.2012

Thứ Năm, 28 tháng 6, 2012

Giặc đã “lên giường” của chúng ta rồi bác Nguyễn Thông ơi!


Dẫu biết rằng giặc đã vào tận trong nhà từ lâu rồi nhưng có lẽ chưa bao giờ giặc lại gây sự ồn ào như thời gian gần đây ngay  trong nhà của chúng ta. Nếu cũng vào khỏang thời gian này năm ngoái giặc chỉ mới dám gây sự bằng mấy động tác theo kiểu xã hội đen làm liều, vừa ăn cướp vừa la làng bằng cách đâm tàu, cắt cáp thăm do dầu khí của Việt Nam ngay trên vùng biển đặc quyền kinh tế của ta rồi bỏ chạy.
Nay giặc ngang nhiên “quy hoạch” luôn 9 lô dầu khí ngay trên vùng biển đặc quyền kinh tế của ta theo luật biển quốc tế  để mời thầu khai thác. Thật là quân trơ trẽn, mặt dày, ăn cướp trắng trợn vậy mà mở miệng ra là “bạn vàng, láng giềng tốt, đồng chí tốt”… hết biết! Cái vùng biển mà giặc gọi thầu nằm ngay trong nhà chúng ta, gần sát cái bếp mà dân ta vẫn thổi cơm hàng ngày để nuôi sống gia đình, con cháu hôm qua, hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.

Theo lãnh đạo PVN, vùng biển mà giặc gọi thầu chỉ cách bờ biển Quảng Ngãi 76 hải lý, cách phía bắc Nha Trang 60 hải lý, khoảng cách gần nhất đến vùng giữa Nha Trang và Phan Thiết chỉ là 57 hải lý, cách đảo Phú Quý 30 hải lý và là nơi được PVN tiến hành các hoạt động dầu khí từ lâu. Năm 2011, chính tàu Bình Minh 02 cũng bị tàu giặc cắt cáp ngay trên vùng biển này.
Trước đó mấy ngày, giặc cũng đã đưa một toán tàu tuần tra tiến vào vùng biển của nước ta. Theo kế hoạch của giặc, toán tuần tra gồm 4 tàu hải giám (thực ra là tàu quân sự trá hình) sẽ thực hiện chuyến hải hành 4.500 hải lý và nếu điều kiện cho phép thì toán tuần tra này sẽ tổ chức diễn tập theo đội hình ngay trên vùng biển nhà ta. Ngoài ra, giặc cũng đưa thêm hàng chục máy bay trực thăng và hàng trăm tàu thuyền khác tham gia vào chuyến hải hành này với 4 tàu hải giám (quân sự trá hình) để diễu võ giương oai trên Biển Đông, ngay trong vùng biển nhà của ta.
Nhà báo Nguyễn Thông có lý khi cảnh báo: “Xin xem kỹ, từ chỗ mà chúng coi như của chúng (9 lô) chỉ cách đảo Phú Quý có 30 hải lý, tức hơn 55 cây số, với ta thì đó là biển gần, ngay cả ngư dân ta đi đánh bắt cá cũng chỉ coi là vùng gần bờ. Nay thì rõ mấy thằng China nuôi cá bè ở vịnh Cam Ranh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thế nào.Tự dưng cứ chập chờn hình ảnh cha con An Dương Vương quất ngựa chạy vào đến núi Mộ Dạ khi đã muộn”.
Ngày xưa chỉ có một Trọng Thủy thôi cha con An Dương Dương đã phải ngậm đắng nuốt cay với cảnh nước mất nhà tan. Nay trong nhà ta nhìn đâu cũng thấy Trọng Thủy nước chưa mất nhà chưa tan mới lạ, chắc còn nhờ hồng phúc của cha ông còn sót lại. Trọng Thủy đi lại ngênh ngang trong triều đình, trong kinh tế, trong rừng sâu, trên biển bạc, ngay bên cạnh các khu quân sự trọng yếu quốc gia…Trọng Thủy xuất hiện trong các buôn làng, xóm ấp lừa gạt cả người dân tộc thiểu số lẫn nông dân miền Tây Nam bộ phá tan rừng dừa, đàn trâu, bò, gieo bao nhiêu mầm móng ung thư, bệnh tật, chết chóc trong thức ăn, đồ dùng sinh hoạt, cả trong sữa cho em thơ, đục khoét các dự án khổng lồ mang tầm vóc quốc gia cùng với một bầy sâu bọ nhung nhúc xơi tái hết tài nguyên quốc gia, ăn hết của cải của nhân dân tới mức Chủ tịch nước cũng chỉ còn cách  buồn rầu mà than rằng “mấy ông ăn vừa vừa thôi ăn hết cả phần của dân thì còn ai sống nỗi”…. Cơ quan nhà nước ở đâu mà để nhiều Trọng Thủy lộng hành, nhơn nhơn coi luật pháp, kỹ cương, phép nước của ta như cỏ rác?
Đến nước này thì giặc không chỉ vào nhà mà còn đã  “lên giường” của chúng ta rồi nhà báo Nguyễn Thông ơi!

Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012

Hành xử kỳ lạ của TBT Đinh Đức Lập


Sau khi gởi lá thư “như một lời tâm sự buồn” đề ngày 17/6/2012 nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam cho các vị lãnh đạo cao cấp của MTTQVN nói về tình hình đáng lo ngại của báo Đại Đoàn Kết có liên quan tới trách nhiệm cá nhân của Tổng biên tập Đinh Đức Lập thì ngày 20/6/2012 trong cuộc họp giao ban chuyên môn hàng ngày TBT Đinh Đức Lập đã bày tỏ thái độ đe dọa với tôi.

Trong cuộc họp này, TBT Đinh Đức Lập đã lớn tiếng bác bỏ toàn bộ những vấn đề mà tôi đã đề cập tới trong thư. Ông Lập hồ đồ cho rằng “toàn bộ những vấn đề nêu trong bức thư 16 trang của Hữu Nguyên là hoàn toàn sai sự thật”. Ông tiếp tục rêu rao giữa cuộc họp rằng chủ trương làm kinh tế báo chí bất chấp pháp luật, bất chấp đạo đức nghề nghiệp theo quan điểm Đinh Đức Lập mà tôi phê phán trong lá thư là đúng đắn và cần thiết cho báo Đại Đoàn Kết. Từ đó ông Đinh Đức Lập lên giọng quan liêu đe nẹt, rằng “tái cơ cấu” Ban Đại diện TP.HCM trong thời gian tới là một yêu cầu cần thiết, khách quan để thực hiện nhiệm vụ làm kinh tế báo chí theo  nhận thức kỳ lạ của ông.
Thiết tưởng trong lúc nóng giận không làm chủ được mình, ông Đinh Đức Lập phát biểu chưa kịp cân nhắc, suy nghĩ thận trọng nên ông đã  mắc sai lầm nghiêm trọng đến mức thô bạo trước sự thật khách quan và cả  trong nhận thức chân lý, như thể ông có đủ uy quyền để “lấy bàn tay che được cả mặt trời”. Thế nhưng, hôm nay (27/6/2012) tôi nhận được công văn số 03 đề ngày 24/7/2012 thông báo ý kiến chỉ đạo của Tổng biên tập Đinh Đức Lập “mời” tôi ra Hà Nội để “trao đổi và làm rõ những nội dung trong lá đơn của ông (tức Hữu Nguyên) phản ánh gởi Chủ tịch Huỳnh Đảm và các Phó Chủ tịch Ủy ban TW MTTQ Việt Nam”.
Cách hành xử này thực ra đã phản ánh đúng bản chất chủ quan, áp đặt và hành xử tùy tiện của TBT Đinh Đức Lập như tôi đã từng phản ánh trong lá thư gởi các vị lãnh đạo MTTQVN ngày 17/6/2012. Nay công bố các văn bản liên quan và quan điểm của tôi về cách hành xử này của TBT Đinh Đức Lập để rộng đường dư luận.


Công văn số 03/BBT. ĐĐK ngày 24/6/2012 (ngày Chủ nhật):





Sau đây là thư trả lời của tôi:

                                                 

 TP. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 6 năm 2012


Kính gởi: Ông Đinh Đức Lập - Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết

Đồng kính gởi:

- Ông Nguyễn Quốc Khánh – Phó Tổng biên tập
- Ông Chu Ninh - Trưởng Ban Đại diện TP. Hồ Chí Minh


Tôi đã nhận được công văn số 03/BBT.ĐĐK ngày 24/6/2012 thông báo ý kiến chỉ đạo của Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết mời tôi ra tòa soạn tại số 66 Bà Triệu - Hà Nội để làm việc vào sáng thứ hai ngày 02/7/2012 với nội dung: “Trao đổi và làm rõ những nội dung trong lá đơn ông (tức Hữu Nguyên) phản ánh gửi Chủ tịch Huỳnh Đảm và các Phó Chủ tịch Ủy ban TW MTTQ Việt Nam”.

Về việc này tôi xin có ý kiến như sau:

1. Lá thư đề ngày 17/6/2012 do tôi đứng tên phản ánh một số tình hình đáng lo ngại của báo Đại Đoàn Kết có liên quan tới trách nhiệm của người đứng đầu là Tổng biên tập Đinh Đức Lập ghi rất rõ là gởi cho các vị Lãnh đạo của UBTƯMTTQVN, thư này không gởi cho Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết;

2. Nội dung được nói tới trong thư cũng không phải là chuyện để “trao đổi và làm rõ” giữa cá nhân tôi và Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết. Cho nên, không có cơ sở để Tổng biên tập triệu tập tôi nhằm tổ chức một cuộc đối chất giữa cá nhân tôi và Tổng biên tập về bức thư nói trên. Cũng như tôi không có trách nhiệm phải giải trình với Tổng biên tập về những vấn đề được nêu trong thư (có liên quan tới trách nhiệm cá nhân của Tổng biên tập). Thẩm quyền làm rõ những tồn tại ở báo Đại Đoàn Kết liên quan tới trách nhiệm cá nhân của Tổng biên tập Đinh Đức Lập thuộc về cấp chủ quản là UBTƯMTTQVN. Vì vậy, nếu có một cuộc “trao đổi và làm rõ” giữa cá nhân tôi với người chủ trì là Tổng biên tập về nội dung lá thư phản ánh những tồn tại liên quan trực tiếp tới trách nhiệm cá nhân của Tổng biên tập thì đó là một việc làm hoàn toàn không khách quan, không có ý nghĩa vì không giải quyết được vấn đề gì;

3. Trong hoàn cảnh kinh tế - tài chính hết sức khó khăn của báo Đại Đoàn Kết, thực hiện một chuyến đi tốn kém tiền bạc của tập thể nhưng lại thiếu cơ sở pháp lý và cũng không góp phần giải quyết được vấn đề gì cho thực trạng đáng buồn của báo Đại Đoàn Kết hiện nay thì đó chính là một sự lãng phí.

Do vậy, với trách nhiệm của một thành viên đang làm việc tại báo Đại Đoàn Kết, tôi thấy không cần thiết phải ra tận Hà Nội để tham gia một cuộc làm việc chỉ phục vụ cho cách hành xử chủ quan của Tổng biên tập Đinh Đức Lập, không mang lại hiệu quả gì cho yêu cầu giải quyết tận gốc các vấn đề mà tôi đã trình bày minh bạch lên cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý là các vị Lãnh đạo cao nhất của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

Kính thư
Hữu Nguyên






Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

Nếu ai cũng sợ thì tham nhũng càng lộng hành


“Nếu tất cả chúng ta, ai cũng sợ tố cáo tham nhũng sẽ bị trù dập, bị liên lụy thì chắc chắn chẳng còn ai dám tố cáo cả. Như vậy đất nước sẽ càng đi xuống, tham nhũng càng có đất lộng hành. Do đó, tôi kêu gọi người dân cần tích cực chung vai với Đảng, NN chống tham nhũng để góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đất nước ngày càng dân chủ, phồn vinh” - Chủ tịch nước nói.





26/06/2012 - 03:45
CHỦ TỊCH NƯỚC TRƯƠNG TẤN SANG:
Nếu ai cũng sợ thì tham nhũng càng lộng hành
Cử tri mong muốn xử nghiêm, thậm chí là tử hình những kẻ tham nhũng gây hại cho đất nước.

Ngày 25-6, tổ đại biểu Quốc hội (ĐBQH) do Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dẫn đầu đã có buổi tiếp xúc cử tri (TXCT) với cử tri quận 1, quận 3 (TP.HCM) để báo cáo kết quả kỳ họp thứ 3 QH khóa XIII. Vấn đề được nhiều cử tri trăn trở nhất chính là công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) chưa đạt hiệu quả như mong muốn và chuyện các tập đoàn, tổng công ty nhà nước (NN) làm thất thoát hàng tỉ đồng ngân sách…
Phải công khai các vụ thất thoát tiền tỉ
Theo cử tri Nguyễn Thị Hiển Nhân (phường Bến Thành, quận 1), mặc dù các cấp chính quyền thời gian qua đã hứa sẽ mạnh tay diệt giặc tham nhũng nhưng xem ra chưa được bao nhiêu. “Chỉ người có chức, có quyền mới có thể tham nhũng nhưng chưa khi nào người dân có được thông tin rõ ràng về những vụ thất thoát tiền tỉ. Tôi đề nghị cơ quan chống tham nhũng cần phải là cơ quan độc lập, khi điều tra ra trường hợp tham nhũng nào, bất kể đó là ai cũng phải có hình thức xử lý thích đáng để làm gương” - bà Nhân nói.
Tương tự, cử tri Đặng Văn Phan (phường Đa Kao) cũng tỏ ra hết sức bức xúc khi càng ngày càng có nhiều trường hợp tham nhũng là cán bộ, đảng viên nắm chức vụ quan trọng. Tuy nhiên, cũng như bà Nhân, ông Phan cho rằng để chống được tham nhũng phải làm quyết liệt chứ không chỉ là hô hào suông.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm hỏi, chuyện trò cùng các cử tri tại quận 1, TP.HCM. Ảnh: THU HƯƠNG
Kêu gọi đồng hành chống tham nhũng
Theo cử tri Lê Thanh Bình (phường Bến Thành, quận 1), thời gian qua các tập đoàn, tổng công ty NN mà điển hình là Vinashin, Vinalines do quản lý yếu kém đã làm thất thoát hàng ngàn tỉ đồng của NN. Tuy nhiên, người dân chưa được nghe lời nhận sai cũng như giải thích cặn kẽ, hợp lý về vấn đề này. “Là người dân, chúng tôi rất cần có những thông tin truy trách nhiệm đến cùng. Nhưng những gì chúng tôi nhận được chỉ là những câu: Sẽ rút kinh nghiệm, sẽ chỉ đạo kiểm tra làm rõ, đã làm đúng quy trình… Như vậy là không thể chấp nhận” - ông Bình bức xúc.
Đồng tình với ý kiến của ông Bình, cử tri Lê Văn Minh (phường Cầu Ông Lãnh, quận 1) kiến nghị thêm: Cần nâng cao vai trò của QH trong vấn đề này. QH cần tăng cường giám sát việc sử dụng ngân sách, bởi hiện nay việc này vẫn chỉ là hình thức. Ngoài ra, QH cũng cần tăng cường giám sát lời hứa của các bộ trưởng, những người lãnh đạo các địa phương…
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định việc làm ăn lỗ lã, làm thất thoát ngân sách NN của các tập đoàn, tổng công ty NN chắc chắn sẽ truy trách nhiệm, kiểm điểm nghiêm khắc các tập thể cũng như cá nhân. Đồng thời, Chủ tịch nước cũng đề nghị cử tri tích cực, thẳng thắn tố cáo tham nhũng. “Nếu tất cả chúng ta, ai cũng sợ tố cáo tham nhũng sẽ bị trù dập, bị liên lụy thì chắc chắn chẳng còn ai dám tố cáo cả. Như vậy đất nước sẽ càng đi xuống, tham nhũng càng có đất lộng hành. Do đó, tôi kêu gọi người dân cần tích cực chung vai với Đảng, NN chống tham nhũng để góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đất nước ngày càng dân chủ, phồn vinh” - Chủ tịch nước nói.
THU HƯƠNG

Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

Vượt lên nỗi sợ

Nguyễn Trung

1

          “Vượt lên nỗi sợ” (Freedom from Fear), đấy là tựa đề diễn văn nổi tiếng của bà Aung San Suu Kyi viết năm 1990, nhân dịp bà được trao giải thưởng Rafto và giải thưởng Sakharov về “tự do tư duy”.
Bà Suu Kyi viết diễn văn này trong hoàn cảnh bị tước hết mọi quyền tự do: Bà bị chính quyền quân phiệt giam tại nhà rất hà khắc từ 20-07-1989, trừ một vài năm được nới lỏng, mãi đến ngày 13-10-2010 mới được trả lại tự do. Trong khoảng thời gian này, đã có lúc bà Aung San Suu Kyi bị giam tại nhà tù chính khét tiếng ở Rangoon dành cho các tù nhân chính trị.
          Với tính cách là lãnh tụ tinh thần của Liên đoàn quốc gia vì dân chủ (National League for Democracy - NLD), đấu tranh kiên cường cho các quyền tự do dân chủ của nhân dân Myanmar, bà Suu Kyi ngày nay được coi như là biểu tượng tinh thần bất khuất và niềm hy vọng của nhân dân nước này.
          Mở đầu diễn văn nổi tiếng năm 1990 này, bà Suu Kyi cho rằng …Không phải quyền lực, mà là nỗi sợ làm tha hóa con người. Người sử dụng quyền lực thì sợ mất quyền lực, người chịu khuất phục thì sợ sự hành hạ của quyền lực. Theo truyền thống đạo lý của Phật giáo Theravada (Tiểu thừa)[1], hầu hết mọi người dân Myanmar đều biết 4 con đường (gati) làm hư hỏng con người (4 “A-gati ”)[2]Chanda-gati, làm hư hỏng con người do những dục vọng, vì lẽ này từ bỏ con đường đúng đắn, cốt nhằm theo đuổi tham nhũng hoặc những ham muốn khác. Dosa-gati – đó là cách hành sử sai đạo đối với những kẻ không có thiện ý; và Moga-gati – đó là sự lầm lạc do thái độ nhắm mắt làm ngơ. Nhưng điều nguy hiểm nhất có thể là Bhaya-gati– đó là nỗi sợ, nó không chỉ tạo ra sự hèn nhát, mà con bóp nghẹt và huỷ hoại dần dần khả năng nhận thức đúng/sai; chính điều này thường là cỗi rễ của 3 gati (3con đường) làm tha hóa con người như đã nêu ra trước đó…
Bà Aung San Suu Kyi trước sau tìm cách giữ cho mình và cho tất cả tăng ni phật tử, cho mọi người dân đang đấu tranh cho tự do và nhân phẩm ở Myanmar lòng tin vững chắc vào chính nghĩa (citta), ý chí bất khuất (the right chanda – the firm intension of good will to do something right), sự kiên tâm (viriya), sự minh mẫn (panna). Bà cho rằng 4 Phật pháp này của đạo Phật Theravada (Tiểu Thừa), cùng với ý thức vượt lên nỗi sợ, có khả năng làm nên sức mạnh nội tâmkhông một bạo lực nào có thể khuất phục, kể cả cái chết. Chính sức mạnh nội tâm này cắt nghĩa vì sao gần 20 năm bị giam cầm hà khắc và hầu như bị cách ly hoàn toàn khỏi nhân dân của mình và thế giới bên ngoài, vẫn tồn tại và rực sáng ngọn đuốc Aung San Suu Kyi trong tinh thần người dân Myanmar.
Biết bao nhiêu tội ác đẫm máu đã xảy ra. Giết chóc, hãm hiếp, đàn áp, tù đầy… là chuyện hàng ngày. Có người đã phải đặt câu hỏi phải chăng Myanmar đang trở thành “cánh đồng chết” tiếp theo (sau Campuchia)[3]. Gần 50 năm qua, Myanma quằn quại trong máu, chìm đắm trong tàn phá và tha hóa của bạo lực. Song hiển nhiên vẫn tồn tại trên đất nước này một sức mạnh nội tâm bất khuất chống lại bạo quyền, đi đầu là phong trào đấu tranh kiên cường, không một lúc nào ngừng nghỉ của các nhà sư và sinh viên Myanmar… Một trong những tấm gương tiêu biểu của tinh thần đấu tranh này là cách đây vài năm nhà sư U Wisara đã chết trong tù sau 143 ngày tuyệt thực, biểu thị sự phản đổi kiên quyết chống lại ách thống trị của chính quyền quân phiệt. 
Chính nhờ có sức mạnh nội tâm như vậy của một đất nước có tới gần 90% nhân dân theo đạo Phật, Myanmar vẫn gìn giữ được cho mình những giá trị tinh thần cao quý, bảo vệ được bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Khách nước ngoài đến thăm Myanmar không khỏi ngạc nhiên và cảm thấy bất chấp mọi hủy hoại của bạo quyền, vẫn có một sức mạnh vô hình nào đó đang gìn giữ bất khả xâm phạm những phẩm chất tốt đẹp và các chuẩn mực đạo đức xã hội của người dân Myanma: hiền hòa, bao dung, gắn bó với nhau, chăm lo giáo dục thế hệ trẻ, gìn giữ môi trường… Đặc biệt ấn tượng là những phong tục Lễ nhập tu (được gọi là shinbyu) dành cho con trai khi đến tuổi  trưởng thành thì vào chùa tu một thời gian ngắn, và lễ xuyên lỗ khuyên tai dành cho con gái – đấy là những cột mốc quan trọng trong hình thành nhân cách một con người… (Nói một cách khác, nếu thiếu vắng những giá trị và đạo đức xã hội như vậy, thật khó hình dung đất nước Myanmar sẽ ra sao sau gần 50 năm dưới sự cai trị tàn bạo của cường quyền quân phiệt).  
Có thể nói, những nhân nhượng của chính quyền Thein Sein sau cuộc bầu cử tháng 2-2010 trước hết là thành quả của cuộc đấu tranh kiên cường này của nhân dân Myanma, trong đó tinh thần Suu Kyi là ngọn đuốc không bao giờ tắt. 
2

Sẽ có câu hỏi: Điều gì đã làm nên một Aung San Suu Kyi như vậy? 
Sinh ngày 19-6-1945 trong một gia đình, cha là Aung San - Tổng chỉ huy Quân đội Độc lập là và người giữ vai trò quyết định trong sự nghiệp giải phóng Myanmar khỏi ách thực dân Anh, mẹ là Ma Khin Kyi – bác sỹ tại bệnh viện chính của Rangoon, Suu Kyi được thừa hưởng tinh thần yêu nước bất khuất của cha và lòng nhân ái xả thân vì việc nghĩa của mẹ.  
Ngày 19-06-1947, đúng lúc Suu Kyi hai tuổi, tướng Aung San bị lực lượng trong quân đội của mình muốn tiếm  quyền ám sát; vợ ông – bà Ma Khin Kyi dấn thân vào mọi công việc chính trị - xã hội, quyết tâm tiếp tục thực hiện những lý tưởng của chồng. Sau này bà Ma Khin Kyi trở thành một nhân vật nổi tiếng trên chính trường Myanmar, được chính phủ  cử làm đại sứ của Myanmar tại Ấn Độ (1960-1964). Suu Kyi theo mẹ, lớn lên và học tập ở Ấn Độ, rồi sau đó học tiếp ở Anh, ở Mỹ. Trong khi làm luận án tiến sỹ, Suu Kyi gặp Michael Aris (Anh), chuyên viên nghiên cứu văn hóa Đông phương, Tây Tạng và Bhutan, hai người cưới nhau năm 1972. Suu Kyi bắt đầu dành nhiều thời giờ nghiên cứu và viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa của Myanmar, một thời gian Suu Kyi từng làm thư ký cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant, tại New York… 
Năm 1988 mẹ Suu Kyi ốm nặng, Suu Kyi trở về Rangoon để chăm sóc mẹ. Đúng lúc này,Hội đồng Nhà nước Phục hồi Luật pháp và Trật tự (SLORC) – một tổ chức chính trị đầu não của quân đội – xóa bỏ chính quyền dân sự, thiết lập nên chế độc tài quân phiệt. Ngay lập tức Suu Kyi vận động nhân dân Myanmar đứng lên đấu tranh chính trị chống lại.  
Ngày 27-09-1988 Liên đoàn quốc gia vì dân chủ (NLD) được thành lập, Suu Kyi được bầu làm tổng thư ký, chủ trương đấu tranh không bạo lực. Nhanh chóng NLD phát triển rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân khắp cả nước và trở thành lực lượng chính trị đối lập mạnh nhất. Có lúc Suu Kyi đã dẫn đầu  hàng nghìn người tham gia biểu tình đi giữa các họng súng của quân đội nhằm thẳng vào mình…  
Chính quyền quân phiệt dùng mọi bạo lực và các thủ đoạn nham hiểm để giập tắt, nhưng phong trào đấu tranh do NLD lãnh đạo vẫn tiếp tục phát triển, bất chấp mọi giết tróc, tù đầy. 
Sau khi ban hành thiết quân luật, ngày 20-07-1989 SLORC ra lệnh giam bà Suu Kyi tại nhà, nội bất xuất – ngoại bất nhập, cắt đứt hẳn mọi liên hệ của bà Suu Kyi với bên ngoài… Mặc dù vậy, trong cuộc bầu cử do SLORC tổ chức đầu năm 1990, NDL vẫn đại thắng, chiếm 82% số ghế của quốc hội. Kết quả cuộc bầu cử này bị SLORC xóa bỏ. Suu Kyi tiếp tục bị giam tại nhà. Đến năm 1995 việc giam giữ tại nhà được nới lỏng chút ít; nhưng chỉ vài năm sau Suu Kyi lại phải chịu đựng tiếp chế độ bị giam tại nhà ngày một hà khắc hơn. Mãi đến ngày 13-11-2010 Suu Kyi mới được trả lại tự do. 
Thật khó hình dung Suu Kyi lấy ở đâu ra ý chí và nghị lực, và cả sức lực của thể chất con người nữa, để có thể chịu đựng được gần 20 năm biệt giam rất hà khắc như vậy ngay tại trong nhà mình hoặc trong tù, để vẫn tiếp tục là nguồn động viên, là niềm tin, là thủ lĩnh tinh thần của nhân dân Myanmar trong đêm trường tăm tối nửa thế kỷ dưới chế độ quân phiệt.  
Trong suốt thời kỳ bị biệt giam tại nhà, Suu Kyi chỉ được gặp chồng và hai con của mình một vài lần trong mấy năm việc giam giữ được nới lỏng. SLORC (sau này đổi thành Hội đồng Nhà nước vì Hòa bình và phát triển – SPDC) đã nhiều lần đưa ra đề nghị bà Suu Kyi được phép ra nước ngoài để đoàn tụ gia đình, với điều kiện không được trở lại Myanmar. Suu Kyi đã từ chối. Bà nói rõ lý do: “Rất đơn giản, tôi không thể bỏ lại nhân dân Myanmar phía sau mình...”  
Từ cuối những năm 1990, Michael Aris, chồng bà Suu Kyi, bị ung thư; nhưng Aris và hai con không được phép vào Myanmar để thăm bà. Năm 1999, Aris từ giã cõi đời, bà Suu Kyi không dám rời Myanmar để dự tang lễ chồng, vì biết ra đi có nghĩa là bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Myanmar… 
Được hỏi về nguồn gốc của ý chí sắt thép như vậy, Suu Ky cho biết: Bà chỉ có metta (lòng nhân ái vô bờ bến trong triết lý đạo Phật Theravada) do mẹ bà truyền thụ cho. Bà nói, nhờ cómetta, bà luôn luôn giữ được cho mình sự minh mẫn, không bao giờ ngã lòng. Metta đã giúp bà vượt qua được mọi thử thách và nỗi sợ. Metta là tình yêu ruột thịt gắn bó không thể tách rời bà với nhân dân Myanmar,  khiến bà sẵn sàng hy sinh tất cả vì nhân dân Myanmar… Bà Suu Kyi giãi bày:Tôi sống bằng tình yêu và sự thật, metta là chỗ dựa bất khả xâm phạm của tâm hồn tôi… 
Hỏi vì sao bà chủ trương đấu tranh không bạo lực đối với chính quyền quân phiệt vô cùng tàn ác, bà Suu Kyi cho biết, nhờ metta, bà đã tìm thấy ở nhân dân Myanmar và ở chính bản thân mình sức mạnh nội tâm (inner strength) không một bạo lực hay ý đồ nham hiểm nào có thể hủy hoại. Chỉ có metta mới dẫn tới hòa giải, và nhờ đó mới có thể triệt để và vĩnh viễn xóa bỏ bạo lực, gìn giữ và phát huy những giá trị cao quý của Theravada… Nếu dùng bạo lực, lấy oán báo oán sẽ không bao giờ chặt đứt được cái vòng luẩn quẩn, sẽ chỉ đẻ ra bạo lực mới… Đấu tranh không dùng bạo lực để giành các quyền tự do dân chủ của nhân dân xuất phát từ giáo lý metta như vậy – bà Suu Kyi giải thích – đấy chính là đạo Phật Theravada dấn thân. Bà Suu Kyi cũng tự coi mình là môn đệ của MOHANDAS KARAMCHAND GANDHI.  
Alan Clements, nhà báo đồng thời cũng là nhà sư Mỹ đã từng thụ đạo ở Myanmar, đặt ra câu hỏi gai góc: Trước mắt bà, đã bao nhiêu nhà sư và sinh viên Myanmar bị giết và bị nhục hình tàn bạo trong các nhà tù, sao NLD vẫn chủ trương đấu tranh không dùng bạo lực? 
Trả lời, chủ trương đấu tranh không dùng bạo lực là niềm tin, là phương thức đấu tranh của NLD, là sự lựa chọn riêng của NLD, thích hợp với niềm tin của NLD. Chủ trương như vậy, NLD tôn trọng những hình thức đấu tranh khác của mọi lực lượng nhân dân Myanmar nhằm xóa bỏ chính quyền quân phiệt, kể cả hình thức đấu tranh vũ trang. Bà Suu Kyi nói rõ thêm, cha bà, tướng Aung San, đã tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang oanh liệt vì sự nghiệp giải phóng Myanmar, và bà rất ngưỡng mộ cha mình về lòng yêu nước quả cảm như vậy. Cũng với cách nghĩ như vậy, bà Suu Kyi nhìn nhận mọi tôn giáo khác nhau trên trái đất này. Bà cho rằng dù có khác biệt văn hóa hay lịch sử sâu sắc như thế nào, mọi tôn giáo đều bắt đầu từ yêu thương và gìn giữ nhân phẩm. 
Như vậy, nhân cách Suu Kyi đã làm nên con người Suu Kyi, không chỉ là tiêu biểu cho khát vọng về tự do, dân chủ và nhân phẩm của nhân dân Myanmar, mà là của cả nhân loại yêu chuộng hòa bình, công lý và quyền con người. Trên thế giới nhiều nơi coi Aung San Suu Kyi là tấm gương về làm người, đưa tinh thần Aung San Suu Kyi vào nội dung giáo dục trong trường học…  Đã có lần một tạp chí nổi tiếng, sau khi thăm dò dư luận bạn đọc, đã bình chọn bà Suu Kyi là một trong số 50 người hàng đầu trên thế giới có ảnh hưởng đến sự tiến bộ của thế giới ngày nay. Vì những cống hiến và ảnh hưởng như vậy, năm 1991, giữa lúc đang phải ngồi tù, bà Suu Kyi được tặng giải thưởng Nobel vì đấu tranh cho dân chủ và quyền con người; hai con trai bà – Alex và Kim – đã từ London đến Oslo thay mặt mẹ đón nhận giải thưởng, với bài phát biểu xúc động lòng người. 
Bà Suu Kyi còn được tặng nhiều giải thưởng cao quý khác trên thế giới. Nhưng phần thưởng lớn nhất bà Suu Kyi nhận được là niềm thương yêu và lòng tin của nhân dân Myanmar, dành cho bà tên gọi kính trọng là Daw Aung San Suu Kyi (Madame Aung San Suu Kyi).
3
           
Cuộc tổng tuyển cử ở Myanmar tháng 11-2010 thực chất là do SPDC – cơ quan đầu não của lực lượng quân phiệt tổ chức. Kết quả đã đưa tướng Thein Sein lên làm tổng thống, người đứng đầu nhà nước dân sự đầu tiên kể từ khi SLORC xóa bỏ kết quả cuộc tổng tuyển cứ năm 1990 mà NLD của bà Suu Kyi đã thắng lớn.  
Tuy nhiên, đáng chú ý là ngay sau khi nhậm chức, tổng thống Thein Sein đã  làm nhiều việc gây nên sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng. 
Nổi bật nhất là những quyết định của tổng thống đưa các tướng lĩnh cứng rắn của phái quân phiệt – đứng đầu là tướng Than Swe – về nghỉ hưu. Tiếp đó, ngày 30-03-2011, tổng thống giải thể “Hội đồng Nhà nước vì Hòa bình và Phát triển” – SPDC (tiền thân của nó là  Hội đồng phục hồi luật pháp nhà nước và trật tự SLORC) - cơ quan đầu não của lực lượng quân phiệt; ra quyết định thành lập Ủy ban nhân quyền với trách nhiệm thực sự; ban hành Luật biểu tình… Đến nay chính quyền Myanmar đã thả gần 2000 tù chính trị, trong đó có hầu hết những nhân vật thủ lĩnh các phong trào chống đối của giới tăng ni và sinh viên, một số chính khách…  
Chính quyền của tổng thống Thein Sein nới lỏng kiểm duyệt báo chí; để cho  Liên đoàn dân tộc vì dân chủ (NDL) và bà Aung San Suu Kyi tham gia tranh cử trong cuộc bầu cử bổ sung đột xuất cho 48 ghế còn để khuyết trong Quốc hội sẽ tổ chức vào đầu tháng 4-2012; hủy bỏ hợp đồng đã ký với Trung Quốc xây đập thủy điện Myitsone trị giá 3,6 tỷ USD vì lý do công trình này sẽ gây những hậu quả tàn phá môi trường không thể khắc phục được; thực hiện nhiều hoạt động ngoại giao quan trọng khác chưa từng có, nổi bật là phuc hồi quan hệ ngoại giao với Mỹ, Anh, Pháp… Myanmar đang cố gắng làm tốt vai trò và nghĩa vụ của mình trong ASEAN. 
Những nguyên nhân nào dẫn đến những quyết định như vậy? 
Chắc chắn cần có thời gian để tìm ra những câu trả lời chuẩn xác và thuyết phục.  
Song có thể sơ bộ kết luận những thay đổi nêu trên trước hết là hệ quả trực tiếp của nhiều vấn đề nóng bỏng: (a) sự thâm nhập và can thiệp rất sâu về mọi mặt từ phía Trung Quốc vào công việc nội bộ Myanmar đã gây ra mất ổn định nghiêm trọng trong lòng quốc gia này, đồng thời có nguy cơ biến Myanmar thành một quốc gia phụ thuộc; (b) gần 50 năm ách thống trị của chính quyền quân phiệt gây ra nhiều hệ quả khôn lường cho quốc gia này, (c) ý chí không thể khuất phục của nhân dân Myanmar về tự do dân chủ, nhất là của các lực lượng yêu nước mà tiêu biểu là Liên đoàn quốc gia vì dân chủ (NLD) và vai trò của bà Aung San Suu Kyi, (d) chế độ quân phiệt Myanmar bị tảy chay và cô lập nghiêm trọng trên trường quốc tế.  
Nếu phải nói thật ngắn, nguyên nhân sâu xa của những thay đổi nói trên là ý chí tự do dân chủ không thể khuất phục của nhân dân Myanmar.  
Cho dù với những động cơ gì đi nữa, những quyết định vừa qua của tổng thống Thein Sein có lợi cho tự do dân chủ và phục vụ lợi ích quốc gia của Myanmar, vị thế quốc tế của Myanmar trong cộng đồng các nước ASEAN nói riêng và trên trường quốc tế nói chung được cải thiện rõ rệt…                                                                                                
Những thay đổi mới này của Myanmar còn là những đóng góp quan trọng cho việc tăng cường sức sống của cộng đồng ASEAN nói riêng và cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong toàn khu vực Đông Nam Á nói chung. 
Tuy nhiên, trong hàng ngũ các tù chính trị thuộc giới tăng ni, sinh viên hay chính khách, và từ giới nghiên cứu trên thế giới, đang dấy lên không ít những nghi ngờ. Điểm chung nhất của những nghi ngờ này là: Chế độ của nhóm quân phiệt có thâm niên gần một nửa thế kỷ, có rất nhiều hành động đàn áp đẫm máu, đày rãy tham nhũng và lừa dối. Một chế độ như thế rất khó có khả năng tự sám hối và phục thiện. Các bước đi vừa qua của tổng thống Thein Sein có thể chỉ là những tính toán cao thủ trong bước đường cùng, cốt nhằm cứu vãn tình thế nguy ngập của chế độ hơn là thiện chí dành cho tự do dân chủ của nhân dân…  Những nhân nhượng dành cho Liên đoàn dân tộc vì dân chủ và bà Aung San Suu Kyi có lẽ chỉ nhằm mục đích trang trí cho bộ mặt của chế độ, làm giảm áp lực phản đối của nhân dân Myanma và gỡ thế bị bao vây cô lập trên trường quốc tế… 
Hiển nhiên, toàn bộ con đường đi tới một quốc gia dân chủ và phát triển của Myanmar còn ở phía trước với tất cả những gian nan, thách thức ắt phải có. 
Song nếu động lực của những bước đi có bài bản vừa qua của tổng thống Thein Sein là sự giác ngộ lợi ích quốc gia, cùng với ý chí bất khuất về tự do dân chủ của nhân dân Myanmar, có thể tại đất nước này đang hình thành những yếu tố hứa hẹn tạo ra sự chuyển biến hòa bình, từng bước đưa quốc gia này chuyển sang chế độ dân chủ.  
Đã có không ít ý kiến bình luận, đại ý: Với những quyết định của mình vừa qua, có thể tổng thống Thein Sein muốn bẻ gãy cái vòng luẩn quẩn. Có thể ông đã nhận ra: Càng thẳng tay bạo lực, cả chế độ và đất nước cùng lâm nguy… Một khi nhân dân Myanmar – tiêu biểu là Liên đoàn dân tộc vì dân chủ (NLD) và bà Aung San Suu Kyi – giành được tiếng nói của mình trên chính trường, đất nước Myanmar sẽ chuyển động…  Trong xu thế dân chủ trên thế giới ngày nay, con đường Myanmar hứa hẹn thành công, thậm chí có thể thành công sớm hơn và tiết kiệm xương máu hơn so với các cuộc cách mạng mang tên các mùa hoa diễn ra tại các nước Bắc Phi vừa qua… 
Thế sự xoay vần còn hé lộ ra khả năng, từ một tướng lĩnh chủ chốt trong SLORC - SPDC khét tiếng, biết đâu sau này có thể tổng thống Thein Sein sẽ được nhân dân Myanmar ghi nhận như một anh hùng dân tộc.., nếu như tiếp theo những quyết định quả cảm vừa qua, ông kiên trì theo đuổi con đường trung thành với lợi ích của quốc gia và các quyền tự do dân chủ của nhân dân Myanmar. Cái gì có thể ngăn cản ông Thein Sein trên con đường này?  
Thế mới biết, trên đời này có thể có nhiều con đường khác nhau dẫn tới tự do dân chủ của một quốc gia, một dân tộc, song tất cả những con đường này đều phải bắt đầu từ sự thay đổi. 
Giác ngộ lợi ích quốc gia chân chính và các quyền tự do dân chủ của nhân dân, cùng vớimetta dẫn đến hòa giải dân tộc, đấy là những yếu tố quyết định, có thể sẽ mở ra cho Myanmar một lối đi riêng của mình trong quá trình trở thành một quốc gia của hòa bình, tự do, dân chủ và phát triển.  
Có thể đặt tên cho quá trình này là con đường Myanmar rất đáng mơ ước?

Võng Thị, Tây Hồ - tháng 1 -2012


[1] Theravada (Thượng-tọa-bộ) là một trong 18 trường phái tiểu thừa (còn được gọi là Nam tông Phật pháp) được biết đến và còn tồn tại đến ngày nay, thịnh hành ở các nước Nam Á.
[2] Gần 90% nhân dân Myanmar theo Đạo Phật, thuôc phái Tiểu thừa; 4 “gati” phần nào giống dạng thức trong đạo Phật (Đại thừa) giảng  về tham – sân – si, song nhấn mạnh “gati” thứ tư: nỗi sợ,  coi đấy là gốc rễ gây ra 3 con đường (gati) hủy hoại con người đã nêu ra trước đó.

[3] Tìm xem Alan Clements, Burma: The Next Killing Fields?”, 2002