Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 14 tháng 2, 2022

Jeffrey A. Tucker: Miễn dịch tự nhiên đã bị rơi vào “quên lãng”?

Thời điểm mà chúng ta đang sống thật kỳ lạ, một ngày nọ, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Mỹ cuối cùng cũng đã tìm ra một lời “tử tế” để nói về miễn dịch tự nhiên: “Đến đầu tháng 10, những người sống sót sau khi mắc bệnh có tỷ lệ lây nhiễm thấp hơn so với những người chỉ tiêm vắc-xin”.



Điều này không có chút gì gọi là bất ngờ khi hiệu quả của miễn dịch tự nhiên vốn đã được ghi nhận từ thời Chiến tranh Peloponnisos (năm 431 đến năm 404 trước Công Nguyên). Chỉ nói riêng về COVID-19, đã có gần 150 nghiên cứu công nhận hiệu quả của miễn dịch tự nhiên, tuy nhiên hầu hết các tài liệu này đều được xuất bản trước buổi phỏng vấn của Tiến sĩ (TS) Anthony Fauci vào ngày 13/9/2021. Khi được hỏi về vấn đề miễn dịch tự nhiên trong buổi phỏng vấn, ông Fauci trả lời thế này: “Tôi thực sự không có câu trả lời chắc chắn cho bạn về điều đó. Đó là điều mà chúng ta cần phải thảo luận, liên quan đến việc [miễn dịch tự nhiên] đáp ứng được trong bao lâu”.

Trước khi học Y khoa, TS Fauci từng tốt nghiệp ngành học liên quan đến ngôn ngữ cổ điển, phải chăng ông đang “chơi chữ”, phải chăng điều mà ông muốn truyền tải là khoa học không có đủ tri thức để lên tiếng? Trong 2 năm qua, hầu hết mọi người dường như lại đồng tình với ý kiến này, phải chăng họ đã không tập trung trong tiết sinh học hồi lớp 9, hoặc vì sự cuồng nhiệt dành cho vắc-xin đã “quét sạch” những kiến thức cơ bản của chúng ta, cũng có thể là vì miễn dịch tự nhiên không sinh ra đồng lợi nhuận nào, hay là vì một số lý do chưa được giải thích nào đó?

Cho dù lý do là gì đi nữa, vào năm 2020, kể từ khi các đợt phong tỏa bắt đầu, dường như có điều gì đó không đúng đã xảy ra. Hầu hết các cơ quan y tế nhà nước trên khắp thế giới đột nhiên ngừng nhắc đến chủ đề miễn dịch tự nhiên. Các hộ chiếu vắc-xin đã đánh giá thấp hoặc bác bỏ khả năng này. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã thay đổi định nghĩa về miễn dịch cộng đồng để loại trừ việc tiếp xúc tự nhiên. Hàng triệu người đã mất việc làm vì không tiêm chủng dù có khả năng miễn dịch tự nhiên mạnh mẽ.

Tất cả mới lạ làm sao! Các bạn đang nắm trong tay một trong những tri thức về sinh học tế bào đã được thí nghiệm và nghiên cứu, được bảo vệ, chứng minh, ghi chép và được biến đến rộng rãi. Ngày hôm nay hầu hết mọi người (ít nhất là các thế hệ đi trước) đều thừa nhận nó, rồi đột nhiên vào ngày hôm sau rất nhiều người dường như đã quên hoặc không hề biết gì cả. Nếu không thì làm thế nào WHO/CDC/NIH (Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ) có thể phủ nhận chủ đề này một cách “êm đẹp” và kỳ lạ đến vậy?

Tôi đã tự hỏi chính mình, có lẽ khả năng miễn dịch tự nhiên kháng lại COVID-19 là một ví dụ về cái mà nhà kinh tế học Murray Rothbard gọi là “kiến thức bị quên lãng”. Cụm từ này chỉ về một sự thật đã được tìm tòi và công nhận đột nhiên lại biến mất không rõ lý do, và người ta phải đi khám phá lại vào một thời điểm sau đó và thậm chí là vào một thế hệ khác. Đó là hiện tượng khiến ông Rothbard vô cùng tò mò bởi nó làm dấy lên nghi ngờ về cái mà ông gọi là Lý thuyết Lịch sử Whig.

Cuốn “History of Economic Thought (Tạm dịch: Lịch sử tư tưởng kinh tế)” tuyệt vời của ông đã mở ra một luồng gió chống lại quan điểm thời Victoria rằng bất kể như thế nào, cuộc sống vẫn ngày càng tốt hơn. Thử áp dụng quan điểm này (quan điểm thời Victoria) vào thế giới của những lý tưởng, phải chăng những lý tưởng hiện tại của chúng ta luôn tốt đẹp hơn những lý tưởng trong quá khứ? Phải chăng quỹ đạo của khoa học không bao giờ có chuyện bỏ sót và nó chỉ có thể tích lũy? Quan điểm này loại trừ khả năng tri thức có thể bị “quên lãng” trong quá trình phát triển của lịch sử, loại trừ khả năng có những điều gì đó mà nhân loại đã biết chắc chắn, sau đó biến mất một cách bí ẩn và chúng ta phải đi khám phá lại. 

Khái niệm về miễn dịch tự đạt được phù hợp với cách mà tất cả các xã hội xưa nay từng áp dụng để đối phó với bệnh tật: Hãy bảo vệ những người dễ bị nhiễm bệnh trước, còn để những nhóm người có nguy cơ nhiễm bệnh thấp đạt được miễn dịch tự nhiên. Điều quan trọng là phải nắm được kiến thức này nếu bạn muốn bảo vệ quyền tự do của mình, không để bị kiểm soát một cách vô nghĩa trong sự sợ hãi và thiếu hiểu biết.  

Thật kỳ lạ là ngay giữa thế kỷ 21, khi chúng ta thức dậy vào một ngày đẹp trời và những kiến thức này dường như đều “bốc hơi”. Nhà thống kê và miễn dịch học Knut Wittkowski đã công bố những kiến ​​thức cơ bản về virus vào mùa xuân năm 2020, sau đó ông được cho là đã tạo ra một cú sốc và bị vướng phải tai tiếng. YouTube thậm chí đã xóa video của ông ấy! Và 7 tháng sau, các giáo sư hàng đầu thế giới phải lập ra Bản tuyên bố Great Barrington, trong đó nêu rõ về khả năng miễn dịch cộng đồng thông qua tiếp xúc; họ còn phải thề rằng nhân loại vào thế kỷ 11 đã khám phá ra một điều “khác biệt”.

Tất cả những chuyện này thật lạ lẫm đối với tôi và cả với mẹ tôi. Tôi đã đến thăm bà ấy và hỏi làm thế nào bà ấy biết về việc hệ thống miễn dịch có thể tự đạt được. Bà ấy nói với tôi rằng đó là bởi vì mẹ của bà đã dạy cho bà, và điều này được truyền qua các thế hệ. Sau Thế chiến II, tại Hoa Kỳ, kiến thức nghe có vẻ “khác lạ” này (khả năng con người có thể tự đạt được miễn dịch) đã trở thành ưu tiên hàng đầu về chủ đề sức khỏe cộng đồng trong các trường học qua từng thế hệ. Người ta đã dạy trong trường rằng: Đừng sợ hãi về quá trình mà chúng ta phải chiến đấu để tồn tại, thay vào đó hãy tin tưởng vào những gì mà tự nhiên đã ban tặng để chúng ta đối phó với bệnh tật. 

Tại sao khả năng đạt được miễn dịch một cách tự nhiên lại trở thành chủ đề cấm kỵ trong thế kỷ 21? Có lẽ đây là một trường hợp về việc kiến thức bị “quên lãng” như những gì nhà kinh tế học Rothbardian nhắc đến. Tương tự như bệnh Scorbut, nhân loại trước đây đã từng có kiến thức về nó nhưng sau này lại không biết gì nữa và phải đi khám phá từ đầu. Bằng cách nào đó trong thế kỷ 21, bản thân chúng ta cũng rơi vào tình huống kỳ quái khi phải đi tìm hiểu lại những kiến thức cơ bản về miễn dịch học mà mọi người đều biết đến rộng rãi từ những năm 1920 đến năm 2000; kiến thức này bằng cách nào đó đã bị gạt ra ngoài lề và bị chôn vùi. 

Vâng, điều này thật vô cùng đáng xấu hổ. Khoa học vẫn luôn được lưu giữ trong những cuốn sách giáo khoa. Và chúng vẫn luôn còn đó để bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu. Thứ dường như bị “mất tích” này là một kiến thức phổ thông, đã bị thay thế bởi một lý thuyết chống dịch thời cận đại, rằng phải nhốt bỏ người ta. Tệ đến nỗi ngay cả việc cảnh sát được bố trí trên khắp cả nước, cùng những đợt phong tỏa và quản thúc tại gia tàn bạo cũng không khởi lên được một sự phản kháng nào từ công chúng ở mức độ mà tôi dự đoán. Cho đến tận bây giờ, chúng ta vẫn “miệt mài” đeo khẩu trang, kỳ thị những người có triệu chứng đau ốm, áp dụng những chiến thuật phi lý và kém hiệu quả, tỏ ra là mình đang theo dõi, truy vết và cô lập tất cả mọi người với tham vọng tiêu diệt loài bọ này (virus corona) vĩnh viễn. 

Có vẻ như mọi người dần dần trở nên thiếu hiểu biết về toàn bộ chủ đề này và do đó họ bị mất cảnh giác khi các chính trị gia tuyên bố chúng ta phải gạt bỏ nhân quyền để chống lại một loại virus mới.

Có một đặc điểm lạ lẫm khác: người ta có thể cho rằng kiến thức sẽ ít bị “quên lãng” hơn trong thời đại công nghệ thông tin này, nơi mà chúng ta có thể mang theo bên mình khả năng truy cập tất cả các loại thông tin trên thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận chúng chỉ bằng vài cú nhấp chuột. Làm thế nào mà điều này lại không bảo vệ chúng ta khỏi việc trở thành “con mồi” của một lý thuyết quản lý bệnh tật kiểu thời trung cổ? Làm thế nào mà những nỗi sợ hãi và sự phụ thuộc vào công nghệ máy tính lại dễ dàng thay thế trí tuệ được kế thừa từ quá khứ của chúng ta? Tại sao loại virus này lại kích hoạt được các cuộc tấn công tàn bạo vào quyền con người dù chưa từng có điều nào như vậy xảy ra khi các loại virus mới xuất hiện trong thế kỷ trước?

Quân đội của George Washington đã cạo lấy vảy của những người chết vì bệnh đậu mùa để tự cấy cho họ vì ông ấy đã phát hiện ra khả năng tự miễn dịch của chính mình thông qua tiếp xúc vào thời thơ ấu. Còn chúng ta thì thu mình trong nhà vì những nỗi sợ hãi và sẵn sàng tuân thủ các quy định khi loại virus mới này xuất hiện. Ngay cả những người bạn của tôi, những người bị nhiễm virus từ sớm và đã phát triển khả năng tự miễn dịch cũng bị đối xử như thể bị mắc bệnh hủi trong nhiều tháng sau đó. Chỉ khi tỷ lệ các ca tử vong đã ổn định trong suốt thời gian qua thì giới truyền thông mới bắt đầu tò mò về khả năng và mức độ nghiêm trọng của việc tái nhiễm. Bây giờ cuối cùng chúng ta cũng bắt đầu nói về chủ đề này – sau 2 năm!

Tôi chỉ có thể nói thế này. Ngay bây giờ, nhà kinh tế Murray Rothbard, người đã dành cả đời để cống hiến cho tự do, chắc hẳn sẽ rất kinh ngạc về cách mà sự thiếu hiểu biết về y học, các loại khoa học giả mạo và ham muốn quyền lực, tất cả đã kết hợp lại một cách đột ngột để tạo ra cuộc khủng hoảng toàn cầu lớn nhất trong lịch sử hiện đại.

***

Tác giả bài viết trên là ông Jeffrey A. Tucker, người sáng lập và hiệu trưởng học viện Brownstone, Mỹ.

https://brownstone.org/articles/is-natural-immunity-a-case-of-lost-knowledge/




Thứ Bảy, 12 tháng 2, 2022

Tổng chưởng lý Oklahoma: Bác sĩ có thể kê ivermectin, HCQ để điều trị COVID-19



 Katabella Roberts

Tổng chưởng lý Oklahoma đã thông báo với các bác sĩ trên toàn tiểu bang rằng họ có thể kê đơn ivermectin hoặc hydroxychloroquine (viết tắt là HCQ) cho mục đích điều trị COVID-19 và sẽ không phải đối mặt với các quy trình kỷ luật vì làm như vậy.

Trong một tuyên bố được công bố hôm thứ Ba (08/02), Tổng chưởng lý John O’Connor cho biết ông thấy “không có cơ sở pháp lý nào” để hội đồng cấp phép y tế của tiểu bang kỷ luật một bác sĩ đã được cấp phép vì “đưa ra quyết định đúng đắn” và “kê đơn thuốc an toàn”.

Cả ivermectin và HCQ đều không được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận sử dụng trong việc điều trị COVID-19 nhưng ông O’Connor đã khẳng định rằng bác sĩ sẽ không phải đối mặt với hình phạt nếu họ kê đơn một trong hai loại thuốc được dùng với mục đích không theo hướng dẫn được chỉ định trên nhãn (off-label) để điều trị cho bệnh nhân nhiễm COVID-19.

“Tôi ủng hộ các bác sĩ, những người tin rằng việc dùng ivermectin và hydroxychloroquine là vì lợi ích tốt nhất của bệnh nhân,” ông O’Connor nói. “Các chuyên gia y tế của chúng ta nên có sẵn mọi công cụ trong tay để chống lại COVID-19. An toàn cộng đồng đòi hỏi điều này. Các bác sĩ, những người kê đơn thuốc và tuân thủ luật pháp đáng lẽ không cần phải e sợ việc bị kỷ luật vì kê những loại thuốc như vậy.”

Văn phòng tổng chưởng lý nói thêm rằng họ “luôn giữ vững quan điểm rằng các quyết định y tế đúng đắn là những quyết định được thực hiện giữa bệnh nhân và bác sĩ của họ, và chính phủ không nên can thiệp vào mối quan hệ giữa họ.”

Cả ivermectin lẫn HCQ đều là hai loại thuốc gây tranh cãi và gây chia rẽ trong suốt thời gian diễn ra đại dịch.

Ivermectin, một loại thuốc chống ký sinh trùng, đã được Tổ chức Y tế Thế giới sử dụng trong hơn 30 năm để điều trị một số bệnh nhiễm trùng cũng như điều trị chấy và các bệnh về da. FDA đã không chấp thuận sử dụng thuốc này trong quá trình điều trị COVID-19 đồng thời cảnh báo rằng dữ liệu hiện tại không chứng minh được mức độ hiệu quả chống lại virus của thuốc này.

Dùng ivermectin với liều lượng lớn có thể gây nguy hiểm.

Tuy nhiên, FDA cho biết, các thử nghiệm lâm sàng để đánh giá khả năng phòng ngừa hoặc điều trị COVID-19 trên người của thuốc này vẫn đang được tiến hành.

Bất chấp cảnh báo từ các cơ quan y tế Hoa Kỳ, tất cả hoặc một phần của 22 quốc gia trên toàn cầu đã chấp thuận việc sử dụng ivermectin trong điều trị COVID-19, căn cứ vào rất nhiều nghiên cứu.

Nhật Bản vẫn chưa chấp thuận thuốc này cho việc điều trị COVID-19 nhưng hồi tháng trước một tập đoàn [dược phẩm] Nhật Bản đã phát hiện ra, dựa trên nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, rằng ivermectin có hiệu quả kháng virus đối với biến thể Omicron của chủng virus này trong các nghiên cứu ống nghiệm.

Công ty dược phẩm này hiện cũng đang thực hiện thử nghiệm lâm sàng Giai đoạn 3 đối với loại thuốc này để xem liệu nó có hiệu quả trong việc điều trị cho bệnh nhân COVID-19 hay không.

Công ty cho biết ivermectin có “tác dụng kháng virus như nhau” trên tất cả các “biến thể”, bao gồm Alpha, Delta, và Omicron, và hoạt động bằng cách ức chế sự xâm nhập của virus cũng như ức chế sự nhân lên của virus này.

Báo cáo [nghiên cứu của công ty này] cho biết, “[Ivermectin] dự kiến ​​sẽ được áp dụng như một loại thuốc điều trị (dạng viên nén) cho tất cả các bệnh truyền nhiễm do virus corona chủng mới.”

Đầu tháng này (02/2022), các nhà lập pháp tại Cơ quan Lập pháp tiểu bang Iowa đã thúc đẩy một dự luật cho phép sử dụng ivermectin để điều trị cho các ca COVID-19 nặng phải thở máy.

FDA cũng cảnh báo mọi người không nên sử dụng thuốc điều trị sốt rét hydroxychloroquine hoặc chloroquine như một liệu pháp điều trị COVID-19 bên ngoài bệnh viện do các nguy cơ về tim đập nhanh và các vấn đề an toàn khác.

HCQ đã nhận được nhiều sự quan tâm nhưng bên cạnh đó người ta cũng xem xét kỹ loại thuốc này sau khi cựu Tổng thống Donald Trump nói rằng ông đang dùng nó như một loại thuốc phòng bệnh.

Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học Hoa Kỳ (American Journal of Medicine) hôm 01/01 cho thấy hydroxychloroquine giúp giảm tỷ lệ tử vong khi điều trị sớm COVID-19 [ở giai đoạn bệnh mới chớm].

Tuy nhiên, cả FDA và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đều khuyến cáo không nên sử dụng hydroxychloroquine để điều trị COVID-19.

Cô Katabella Roberts là một phóng viên hiện đang sống và làm việc tại Thổ Nhĩ Kỳ. Cô viết về tin tức nói chung và tin kinh doanh cho The Epoch Times, tập trung chủ yếu vào Hoa Kỳ.

Hồng Ân biên dịch

Chủ Nhật, 14 tháng 11, 2021

Khẩu trang có thể gây hại cho trẻ em



Jennifer Margulis

Như nhiều quốc gia và một số tiểu bang bỏ quy định đeo khẩu trang, một nghiên cứu của Đức cho thấy trẻ em đeo khẩu trang gây hại nhiều hơn có lợi.

Bất kỳ bậc cha mẹ nào cũng có thể tận mắt chứng kiến, con cái chúng ta — từ trẻ nhỏ đến thanh thiếu niên — đã trải qua nhiều nỗi sợ hãi, căng thẳng tâm lý và thách thức về hành vi hơn kể từ khi cuộc khủng hoảng COVID-19 bắt đầu vào tháng 03/2020. Người lớn cũng vậy, thật sự rất căng thẳng và lo lắng.

Một nghiên cứu hồi cứu mới đây xem xét dữ liệu từ cuối năm 2020 và năm 2021 đã xác nhận điều mà rất nhiều người trong chúng ta đã nghi ngờ từ lâu: Việc đeo khẩu trang như một điều kiện tiên quyết để học tập trên lớp và tham gia vào cuộc sống công cộng đang gây ra tổn hại cho trẻ em cả về tâm lý và thể chất.

Nghiên cứu trên được thực hiện tại Đại học Witten – Herdecke ở Đức, bao gồm dữ liệu từ hơn 20,000 người tham gia phản ánh về trải nghiệm của tổng số 25,930 trẻ em. Thời gian trung bình những đứa trẻ đeo khẩu trang là 270 phút (4 tiếng rưỡi) mỗi ngày. 

Đa số các bậc phụ huynh (68%) đã báo cáo rằng việc đeo khẩu trang gây hại cho con cái của họ. Trên thực tế, các bậc cha mẹ đã báo cáo những tác hại về tâm lý và thể chất liên quan đến việc đeo khẩu trang ở 17,632 trẻ em. Những tác hại đó bao gồm:

  •      Khó tập trung
  •      Buồn ngủ hoặc mệt mỏi
  •      Nhức đầu
  •      Suy giảm khả năng học tập
  •      Cáu gắt
  •      Ít vui vẻ hơn
  •      Khó chịu
  •      Không muốn đến trường

Mặc dù đây là nghiên cứu hồi cứu và không nhằm mục đích thể hiện mối quan hệ nhân quả giữa việc đeo khẩu trang cho trẻ em và tác động tiêu cực của nó, nhưng nhóm các nhà nghiên cứu người Đức lập luận rằng dữ liệu này minh họa về việc người lớn phải cân nhắc rằng một số nguy cơ tiếp xúc với virus corona có thể chấp nhận được để giúp trẻ em có “chất lượng cuộc sống cao hơn mà không cần phải đeo khẩu trang”.

Tiến sĩ Jeffrey I. Barke, một bác sĩ chăm sóc chính được chứng nhận bởi hội đồng chứng nhận hành nghề tư nhân ở Nam California không tham gia vào nghiên cứu nhưng đồng ý với điều trên: “Chúng ta nên luôn luôn đặt ra câu hỏi ‘Với giá nào?’ khi xem xét bất kỳ chính sách nào”. Tiến sĩ Barke nói thẳng thắn về vấn đề yêu cầu trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ, đeo khẩu trang. 

Ông nói: “Việc đeo khẩu trang cho trẻ em gây ra tác hại trực tiếp, bao gồm gia tăng sợ hãi, trầm cảm, ý định tự tử và rối loạn khả năng học tập. Và quan trọng nhất, việc đeo khẩu trang ngăn cản sự gắn kết quan trọng giữa học sinh và giáo viên vì không thể nhìn thấy các biểu cảm trên khuôn mặt”.

Như Giáo sư danh dự chuyên ngành Tâm lý học của Đại học Yale – bà Marianne LaFrance – đã nghiên cứu trong cuốn sách của mình: “Tại sao phải cười? Khoa học đằng sau các biểu cảm trên khuôn mặt”, khuôn mặt con người là nguồn tín hiệu phong phú về cảm xúc, ngôn ngữ và xã hội đối với người khác. Bà LaFrance trả lời khi tôi phỏng vấn bà vài năm trước, biểu hiện trên khuôn mặt phức tạp hơn nhiều so với những gì mọi người nhận ra. Từ hạnh phúc đến giận dữ, khuôn mặt của chúng ta có thể và thường biểu hiện một loạt các cảm xúc — thậm chí là những cảm xúc trái ngược nhau — vào cùng một lúc.

Nhưng khi mũi và miệng của trẻ em bị bịt kín bởi khẩu trang và chúng chỉ có thể nhìn thấy mắt người khác, chúng sẽ gặp khó khăn hơn nhiều không chỉ trong việc học nói và hiểu ngôn ngữ mà còn trong việc học các tín hiệu xã hội và trí tuệ cảm xúc.

Theo một bài báo trên tạp chí Scientific American, trẻ từ 8 tháng tuổi đã bắt đầu biết đọc khẩu hình. Tuy nhiên, như Tiến sĩ David J. Lewkowicz, nhà khoa học cấp cao tại Phòng thí nghiệm Haskins của Đại học Yale đã viết trong cùng một bài báo, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ không thể tạo ra mối liên hệ giữa cử động môi và lời nói nếu chúng không thể nhìn thấy miệng của người chăm sóc.

Trẻ em trong độ tuổi đi học không phải là những người siêu lây nhiễm

Biện minh cho việc đeo khẩu trang cho trẻ nhỏ, đặc biệt ở trường học, là để tránh lây lan virus corona từ những trẻ không có triệu chứng sang người lớn. Nhưng dữ liệu từ Thụy Điển cho thấy rằng trẻ em đến trường mà không đeo khẩu trang rất ít hoặc không gây nguy hiểm cho người lớn (hoặc những trẻ trong độ tuổi đi học khác). 

Như Tiến sĩ Jonas F. Ludvigsson và ba đồng nghiệp của ông đã viết trong một bức thư đăng trên Tạp chí Y học New England, mặc dù Thụy Điển đã để cho các trường mầm non và tiểu học của họ mở cửa mà không quy định đeo khẩu trang, nhưng tỷ lệ nhiễm COVID-19 rất thấp, kể cả trong các trẻ em và trong các giáo viên của chúng.

Trên thực tế, trong số gần 2 triệu trẻ em Thụy Điển ở độ tuổi đi học tiếp tục đến trường mà không đeo khẩu trang, chỉ có 15 trẻ nhập viện vì COVID-19, tương đương với tỉ lệ 1:130,000.

Bốn trong số những trẻ này có bệnh nền nghiêm trọng (hai trẻ bị ung thư, một trẻ bị bệnh thận mãn tính và một trẻ bị rối loạn về máu.) Không có trẻ em nào bị COVID-19 tử vong.

Đeo khẩu trang cho trẻ em có hiệu quả không?

Ngoài những tác hại mà khẩu trang có thể gây ra, câu hỏi rằng liệu chúng có thực sự có tác dụng trong việc ngăn chặn sự lây lan của COVID-19 hay không vẫn còn đang bỏ ngỏ.

Vào tháng 11/2020, Tạp chí Y khoa Nội khoa đã công bố một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng để đánh giá hiệu quả của khẩu trang phẫu thuật trong việc chống lại SARS-CoV-2.

Trong nghiên cứu bao gồm hơn 6.000 người này, một nhóm các nhà khoa học Đan Mạch đã phát hiện ra rằng khẩu trang không làm giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm SARS-CoV-2. Tỷ lệ lây nhiễm cao hơn một chút ở những người không đeo khẩu trang: 42 người tham gia đeo khẩu trang (1,8%) có kết quả dương tính với COVID-19 trong khi 53 người tham gia (2,1%) trong số những người không đeo khẩu trang có kết quả dương tính. Tuy nhiên, sự khác biệt trong mẫu này không được coi là có ý nghĩa thống kê.

Một phần các nhà nghiên cứu kết luận: “Khuyến cáo đeo khẩu trang phẫu thuật để bổ trợ cho các biện pháp y tế công cộng khác đã không làm giảm tỷ lệ nhiễm SARS-CoV-2 trên những người đeo khẩu trang.”

Các tiểu bang có quy định đeo khẩu trang có tỷ lệ lây nhiễm cao hơn

Nghiên cứu độc lập khác đã phát hiện ra rằng, các bang có quy định đeo khẩu trang có tỷ lệ lây lan COVID-19 thực sự cao hơn so với các bang không có quy định này.

Khi các nhà nghiên cứu từ Rational Ground (một trung tâm thông tin về COVID-19 cung cấp “những phân tích hợp lý và dựa trên thực tế về đại dịch hiện nay bằng cách sử dụng các biểu đồ, đồ họa vi tính, video và các phương tiện chuyên sâu khác”, theo trang web của họ) phân tích dữ liệu từ 50 bang từ ngày 01/05/2020 đến ngày 15/12/2020, họ không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy quy định đeo khẩu trang đã làm chậm sự lây lan của COVID-19.

Tại các bang quy định đeo khẩu trang, đã có 9,605,256 trường hợp mắc COVID được xác nhận, trung bình 27 người trên 100,000 cư dân mỗi ngày.

Ở những bang không có quy định đeo khẩu trang, đã có 5,781,716 trường hợp mắc COVID được xác nhận, trung bình 17 người trên 100,000 cư dân mỗi ngày.

Trong một ý kiến chi tiết về dữ liệu này, ông Daniel Horowitz, biên tập viên cao cấp của TheBlaze và là người dẫn chương trình phát thanh của Tạp chí Bảo thủ, đã viết: “Gánh nặng của những người muốn vi phạm Hiến pháp với một quy định hà khắc như vậy… là đưa ra bằng chứng khẳng định rằng chúng [khẩu trang] có tác dụng. … Nhưng trong khi họ buộc chúng tôi phải chứng minh 100% rằng chúng không có tác dụng, thì những người đưa ra quy định đeo khẩu trang không phải chứng minh bất kỳ hiệu quả nào, ngay cả khi những đứa trẻ 2 tuổi bị buộc phải đeo khẩu trang trên máy bay.”

Khẩu trang thông dụng thường ít có hiệu quả 

Loại khẩu trang cũng rất quan trọng. Như Tiến sĩ Peter Weiss đã giải thích trong một bài báo trên The Epoch Times, các loại khẩu trang được sử dụng phổ biến nhất có khả năng kém hiệu quả nhất.

Tiến sĩ Weiss viết: “Khẩu trang y tế có ba lớp sợi tổng hợp và sợi siêu mịn, có tác dụng ngăn chặn các hạt lớn, nhưng lại kém hiệu quả trong việc ngăn chặn các hạt nhỏ trong lây nhiễm virus COVID-19.”

Tiến sĩ Paul Alexander, một chuyên gia y học và dịch tễ học dựa trên bằng chứng, cũng đồng ý như vậy: “Việc chúng tôi kiểm tra toàn bộ bằng chứng liên quan đến những chiếc khẩu trang vải màu trắng và khẩu trang phẫu thuật màu xanh này cho thấy chúng không hiệu quả và không mang lại lợi ích gì”. 

Ông Alexander là cựu cố vấn tổng hợp bằng chứng cho WHO/Tổ chức Y tế liên Hoa Kỳ về đại dịch COVID và cựu cố vấn cấp cao về đại dịch COVID cho Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ dưới thời chính quyền Trump. 

Ông Alexander cho biết: “Điều thực sự đáng sợ là tất cả những chiếc khẩu trang phẫu thuật màu xanh và những chiếc khẩu trang tương tự đều gây ra tình trạng hít phải sợi nhựa và có thể gây ra hậu quả tệ hại, đặc biệt là đối với trẻ em. Những chất dẻo này sẽ phân hủy rất chậm theo thời gian, và như vậy, nó có thể vẫn còn trong phổi và tích tụ đến mức nguy hiểm. Chúng tôi thậm chí không biết đâu là mức ‘có thể chấp nhận được’, vì tốt hơn hết là chúng không nên có trong phổi”.

Khẩu trang vải, loại mà hầu hết trẻ em đều đeo đến trường, cũng không hiệu quả. Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên về khẩu trang vải được sử dụng bởi nhân viên y tế trong bệnh viện ở Việt Nam, gần 97% khẩu trang bị các hạt virus xâm nhập (so với 44% khẩu trang y tế.) Ngoài ra, công nhân đeo khẩu trang vải có nhiều khả năng nhiễm trùng đường hô hấp hơn.

Tiến sĩ Weiss ví một chiếc khẩu trang vải như việc buộc một sợi dây quanh eo khi lái xe và khẳng định đó là dây an toàn. “Cũng không quá lời khi nói rằng việc đeo khăn che mặt theo phong cách Gucci… giống như yêu cầu kỹ thuật viên chụp X-quang đeo tạp dề nhà bếp của bà ngoại khi chụp X-quang”. 

Đeo không đúng cách

Khẩu trang phải được đeo đúng cách để có hiệu quả. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu trên những người đeo khẩu trang ở Nhật Bản, nơi mà đeo khẩu trang y tế là quy chuẩn văn hóa (không giống như ở Hoa Kỳ,) các nhà khoa học phát hiện ra rằng chỉ 23% người đeo khẩu trang tuân thủ các khuyến cáo. Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Quốc tế về Nghiên cứu Môi trường và Sức khỏe Cộng đồng cho thấy 77% người dân Nhật Bản không tuân thủ đầy đủ các hướng dẫn về khẩu trang.

Nếu bạn dành thời gian trong bất kỳ lớp học nào ở Hoa Kỳ nơi trẻ em được yêu cầu đeo khẩu trang, bạn sẽ nhanh chóng thấy rằng hầu hết trẻ em đều đeo không đúng cách. Các hướng dẫn của CDC quy định rằng bạn không được chạm vào khẩu trang của mình khi đang đeo nó. Nhưng trẻ em (và người lớn) liên tục chạm vào khẩu trang của họ.

Bà Angie Bowman, một bà mẹ bốn con và là một nhà giáo dục ở Medford, Oregon, cho biết: “Tôi thường không nhìn thấy những đứa trẻ đeo khẩu trang đúng cách. Tôi nhìn thấy chúng để khẩu trang xuống dưới mũi hoặc cắn vào phần giữa của khẩu trang để kéo nó ra khỏi mũi. Và tôi đã thấy những đứa trẻ dùng khẩu trang để lau mũi rồi đeo lại. Điều đó thật kinh khủng! Khẩu trang của chúng cuối cùng bị ướt, dính và có thể có nhiều vi trùng hơn trên đó. Theo quan điểm của tôi, trẻ em hoàn toàn không nên đeo khẩu trang”.

CDC khuyến cáo rằng các loại khẩu trang có thể tái sử dụng nên được giặt sạch ngay khi chúng bị bẩn hoặc ít nhất một lần một ngày. Nhưng hầu hết các bậc cha mẹ đều không biết về hướng dẫn này và cho con của họ đeo cùng một chiếc khẩu trang trong nhiều ngày liền. Khẩu trang dùng một lần, được thiết kế để vứt đi sau một lần sử dụng, thường được đeo lại trong nhiều tuần.

Tác hại ngoài dự kiến

Ảnh hưởng lâu dài của việc đeo khẩu trang và các biện pháp giảm thiểu COVID-19 khác đối với con em chúng ta là gì? Không ai có thể nói chắc chắn. Những gì chúng ta biết là tỷ lệ tự tử đang ở mức cao nhất mọi thời đại ở Hoa Kỳ, theo Tổ chức Y tế Thế giới, mặc dù tỷ lệ đó đã có xu hướng tăng lên trong một thời gian. Chúng tôi cũng đã chứng kiến ​​sự gia tăng mạnh mẽ về lạm dụng trẻ em và bạo lực gia đình kể từ khi bắt đầu áp dụng các biện pháp giảm thiểu COVID-19, cũng như các trường hợp tử vong do quá liều thuốc, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi. Theo CDC, hơn 96,750 trường hợp tử vong do sử dụng ma túy đã được báo cáo trong khoảng thời gian từ tháng 03/2020 đến tháng 03/2021, tăng gần 30% so với năm 2019.

Đồng thời, nhiều trẻ em hơn bao giờ hết được kê đơn thuốc chống trầm cảm, thuốc chống lo âu, và thậm chí cả thuốc chống tâm thần.

Người lớn cũng vậy. Theo dữ liệu của chính phủ, đã có sự gia tăng ở những người trưởng thành bị rối loạn lo âu và trầm cảm kể từ khi bắt đầu đại dịch.

Cô Sherry Syence, một bà mẹ của cặp song sinh 11 tuổi sống ở Asheville, Bắc Carolina, cho biết: “Tôi kịch liệt phản đối việc đeo khẩu trang cho trẻ em. Việc này không chỉ gây nguy hiểm cho sức khỏe thể chất của các em mà còn gửi cho các em một thông điệp rằng bản thân chúng là vật trung gian truyền bệnh. Tôi không muốn con tôi sống trong một môi trường có nền tảng là sự sợ hãi. Tôi muốn chúng trải nghiệm niềm vui trọn vẹn của tuổi thơ, được hít thở tự do và có những tương tác bình thường với những người khác mà không bị việc đeo khẩu trang làm cản trở. Các em cần được nhìn thấy toàn bộ các biểu cảm trên khuôn mặt của mọi người”.

Cặp song sinh của cô Syence theo học tại một trường học liên hợp nhỏ tại nhà, nơi việc đeo khẩu trang là tùy thuộc vào cha mẹ. Cô Syence và chồng quyết định đưa con rời khỏi trường công vì quy định đeo khẩu trang, cùng với nhiều lý do khác.

Tiến sĩ Barke nói: “Đừng bận tâm rằng khẩu trang có ít tác dụng bảo vệ chống lại virus đường hô hấp. Đừng bận tâm rằng những đứa trẻ không có triệu chứng chỉ đơn giản là không lây bệnh cho những người lớn có nguy cơ. Chúng ta phải luôn tự hỏi hậu quả của những quy định của chúng ta là gì?”

Tiến sĩ Jennifer Margulis là một nhà báo khoa học ở tiểu bang Oregon, là một nhà báo từng đoạt giải thưởng và là tác giả của  cuốn sách “Con của bạn, theo cách của bạn: Chịu trách nhiệm về các quyết định mang thai, sinh con và nuôi dạy con cái của bạn để có một gia đình hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn.” Cô từng đạt giải thưởng Fulbright và là mẹ của bốn đứa con, cô đã làm việc trong một chiến dịch sống còn vì trẻ em ở Niger, phía Tây của Phi Châu. Cô xuất hiện trực tiếp trên tivi vào khung giờ vàng tại Pháp và làm việc trong một chiến dịch sống còn của trẻ em ở Niger, phía Tây của Phi Châu. Tiến sĩ Jennifer Margulis là người nhận tài trợ của Fulbright và là diễn giả được chào đón. Tìm hiểu thêm về cô ấy tại trang JenniferMargulis.net.


Thứ Bảy, 6 tháng 11, 2021

Thế giới thực: Chỉ là một ảo ảnh

Mọi hành động và vật chất phát triển trong vũ trụ đều tuân theo những gì mà chúng ta vẫn cho là hiện thực. Có ý tưởng cho rằng vũ trụ của chúng ta trôi qua giống như giấc mơ của một người khổng lồ, hoặc như sản phẩm của một chương trình thực tế ảo vô cùng phức tạp, nghe giống như một kịch bản khoa học viễn tưởng tài tình hơn là cái thế giới thô sơ và không hoàn hảo mà chúng ta đang chuyển động trong nó mỗi ngày. 



Thứ Sáu, 8 tháng 10, 2021

Cảnh báo: lỗ hổng lộ thông tin gần 25 triệu người đã tiêm vaccine ở Việt Nam

 KS. Dương Ngọc Thái

Sau khi tôi nói về tư duy làm app quốc dân, một đồng bọn nhắn tin kêu tôi vô coi hệ thống Sổ sức khỏe điện tử, "chắc nó nát lắm". Hệ thống này do Bộ Y tế quản lý và Viettel thực hiện.

Thú thật, sau khi báo lỗigóp ý về Bluezone tôi cũng thấy ngán làm việc với các team quốc doanh. Nhưng số trời hay sao đó, ba tôi đủ tiêu chuẩn nhưng chưa được cấp thẻ xanh, thẻ vàng Covid. Thế là tôi phải vô coi Sổ sức khỏe điện tử (SSKĐT) cấp thẻ thế nào.

Vô coi thì tôi thấy Sổ sức khỏe điện tử có nhiều lỗ hổng bảo mật sơ đẳng, làm lộ thông tin cá nhân và dữ liệu sức khỏe của gần 25 triệu người Việt Nam và người nước ngoài đang sống ở Việt Nam, bao gồm cả đại biểu Quốc hội và lãnh đạo các cấp. Nói chung, nếu bạn từng tiêm vaccine ở Việt Nam, thông tin của bạn nhiều khả năng đã được lưu trữ trong hệ thống này, bất kể bạn đã cài app hay chưa.

Thông tin bị lộ bao gồm: tên, địa chỉ, số chứng minh nhân dân, số điện thoại, nơi làm việc, một số người có số bảo hiểm y tế thì có thể truy ra tình trạng và lịch sử bệnh tật; từ địa chỉ hoặc dữ liệu hộ khẩu có thể truy ra thông tin về người thân trong gia đình. Bà con hãy hết sức cảnh giác.

Chi tiết kỹ thuật tôi đã cung cấp cho Bộ TTTT, Bộ Y Tế và Viettel và sẽ công bố rộng rãi vào ngày 11/10/201. Team SSKĐT cảm ơn, đã nhanh chóng sửa được một phần và đang gấp rút sửa hết.

Nhìn chung, thái độ tôi nhận được là hết sức cầu thị và chuyên nghiệp, tốt hơn nhiều khi làm việc với team Bluezone. Tôi rất cảm kích các anh chị em đội dự án đã phải miệt mài sửa chữa lỗ hổng. Hệ thống đã tốt hơn rất nhiều so với cách đây vài ngày.

Tôi đề nghị họ nên đưa lên GitHub để tôi và những ai quan tâm có thể cùng tham gia sửa lỗi. Tôi không có nhiều thời gian và kiến thức cũng hạn hẹp, nhưng Việt Nam không thiếu tài năng, chỉ thiếu cách để họ "tự gãi ngứa" thôi.

Hệ thống nào cũng có lỗi, nhưng có nhiều lỗi sơ đẳng như vậy, là biểu hiện của thiếu trách nhiệm và thiếu giám sát của người quản lý. Hệ thống nhạy cảm như vậy nhưng tôi có cảm giác chưa hề được đánh giá bảo mật.

Trách nhiệm không nằm ở đội ngũ lập trình viên, mà ở chỗ tại sao không có người hỗ trợ họ. Tôi hiểu và thông cảm phải làm nhanh và gấp rút, nhưng hệ thống này cũng đã có lâu rồi, chứ không phải mới làm ngày một ngày hai.

Những vấn đề này không có gì khó với nhân lực trong nước. Tôi tin tôi cũng không phải là người đầu tiên phát hiện ra các vấn đề này. Thế thì tại sao các sản phẩm công nghệ công của Việt Nam vẫn bị hoài? Tôi nghĩ mấu chốt nằm ở lỗ hổng trong tư duy.

Vá lỗ hổng phần mềm không khó bằng vá lỗ hổng tư duy. Những lỗ hổng mà tôi và người khác phát hiện rồi sẽ sửa được thôi, nhưng nếu không sửa tận gốc cách làm thì đâu lại sẽ vào đấy. Cũng may là Sổ sức khỏe hiện mới có dữ liệu của 25 triệu người - gần ¼ dân số, để đến khi nó có đầy đủ thông tin của 100% dân thì còn nguy hiểm đến chừng nào. Nhưng cũng xui là đã 25 triệu người xài rồi mới phát hiện lỗ hổng.

Thế thì làm sao để sớm phát hiện vấn đề? Không có người làm hoặc làm chưa tới thì phải mở mã nguồn, mở thiết kế, để người có chuyên môn có thể tư vấn ngay từ lúc sản phẩm chưa chạy. Sửa nhà trên bản vẽ lúc nào cũng dễ hơn xây xong hết rồi mới phát hiện cái móng bị toạc.

Làm gì cũng vậy, muốn thành công thì không chỉ phải tìm cách làm đúng, mà còn cần nhanh chóng phát hiện ra mình đang làm sai. Muốn vậy thì phải công khai, minh bạch cách mình muốn làm, tiếp nhận ý kiến, dám sai dám sửa.

Chỉ vậy thôi là dân đã đỡ khổ biết chừng nào. Đâu cần đao to búa lớn, bốn chấm không với không chấm bốn, hùng cường với mai lệ huyền. Làm có mấy cái app thôi, lỗi thì nhiều như vắt rừng mùa mưa, mà có người tuyên bố như thể đang chế tên lửa lên cung Trăng thăm chú Cuội, "super app đi ra thế giới". Thôi, xuống, đừng leo cột điện nữa, để tụi nó còn tìm đường quay lại Mỹ.

Nói thêm cho rõ, tôi chưa thấy team SSKĐT phát biểu ngông cuồng như vầy. Ngoại trừ những vấn đề an ninh, hệ thống của họ khá bài bản, hiện đại. Người làm được việc bao giờ cũng hiểu giới hạn của mình. Phát ngôn “chém gió” là tôi thấy ở một nhóm làm công nghệ quốc doanh trong nước, những kẻ đang cưa bom bằng tiền thuế.

Bạn tôi tư vấn “hay là nói chuyện với lãnh đạo của họ”. Có người còn ngỏ lời giúp chuyển thông tin. Tôi viết một lá thư gửi cho Thủ tướng Phạm Minh Chính vào sáng ngày 4/10/2021. Người quen của tôi nói Thủ tướng đã đọc và làm việc với Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long.

Bạn tôi đã chia sẻ thông tin với một số Đại biểu Quốc hội. Tôi cũng trao đổi với một vị ĐBQH, giải thích tại sao mở mã nguồn các app quốc dân lợi nhiều hơn hại, hy vọng họ đại diện cho lợi ích của người dân và sẽ lên tiếng.

Thú thật, tôi không kỳ vọng sẽ có thay đổi gì, chừng nào thấy mới hay. Tôi vẫn làm những chuyện này, vì trách nhiệm xã hội của mình. Tôi có một niềm tin ngây thơ rằng nếu mỗi người làm tốt phần của mình, xã hội sẽ tự khắc đi lên.

Thứ Năm, 7 tháng 10, 2021

Quyền được gãi ngứa

KS. Dương Ngọc Thái

Làm công nghệ gần hai mươi năm, vậy mà tôi phải vã mồ hôi mới đăng ký được cho ba tôi tiêm vaccine trên Cổng tiêm chủng quốc gia.

Ba tôi đã lớn tuổi, biết xài điện thoại thông minh, tuy không thạo lắm. Ông không tự đăng ký được nên tôi phải giúp.

Đó là đầu tháng tám vừa qua. Tôi điền thông tin xong, thấy cũng thuận tiện, nhưng sau đó Cổng tiêm chủng yêu cầu "xác nhận số điện thoại". Họ gửi về điện thoại của ba tôi một mã số, phải nhập đúng mã số đó mới được đăng ký.

Tôi gọi điện từ nước ngoài về, hỏi mã số để nhập lên cổng. Ông ngơ ngác: "Mã gì con?". Tôi ngớ người, hóa ra ba tôi chưa từng nhập mã OTP để giao dịch trực tuyến. Tôi giải thích một hồi, nhấn nút "gửi lại mã" mấy lần, máy của ông vẫn không nhận được. Mỗi lần gửi mã số mới, hệ thống chỉ chờ hai phút thôi, chậm hơn là phải làm lại.

Cuối cùng, tôi quyết định cứ đăng ký bằng số khác, thầm nhủ "họ hỏi thì ráng giải thích". Đăng ký đến giờ đã hơn một tháng, chưa thấy ai gọi ba tôi đi tiêm. May thay, ông đã tiêm một mũi, đăng ký trực tiếp với tổ dân phố bằng công nghệ xưa như trái đất, tức giấy và bút. Tôi vừa thử tra thông tin của ba tôi trên Cổng tiêm chủng quốc gia, website trả lời "không tìm thấy".

Tôi là kỹ sư an ninh mạng, nhưng công việc của tôi không chỉ là làm cho sản phẩm an toàn, mà phải vừa an toàn vừa dễ sử dụng. Tôi dành nhiều thời gian suy nghĩ về trải nghiệm người dùng, làm sao cho nhanh, thuận tiện mà vẫn an toàn. Tôi hay nói với đồng nghiệp rằng, nếu mẹ tôi, và bây giờ tính luôn cả ba tôi, không dùng được thì thiết kế sản phẩm chưa đạt yêu cầu.

Nhiều năm trước, cứ mỗi vài tuần là Gmail yêu cầu người dùng nhập lại mật khẩu vì lý do an ninh. Chúng tôi quan sát thấy mỗi lần như vậy, lượng lớn người dùng một đi không trở lại, vì không nhớ mật khẩu. Mẹ tôi là một trong số đó. Thế là khá lâu rồi Gmail không còn "đòi" mật khẩu thường xuyên nữa, còn kỹ sư chúng tôi phải tính đến những phương án khác để bảo vệ người dùng.

Tôi nghĩ chắc hẳn Cổng tiêm chủng quốc gia phải có lý do mới yêu cầu "xác thực số điện thoại". Nhưng đâu phải ai muốn tiêm vaccine cũng có điện thoại di động. Và nếu có, họ chưa chắc đều hiểu "mã số xác nhận gửi qua SMS" là gì. Sau này tôi mới biết, nhà mạng khóa sim của ba tôi một chiều nên không nhận được tin nhắn.

Nếu Cổng tiêm chủng vẫn muốn xác nhận số điện thoại, một giải pháp thân thiện hơn với người dùng là gọi điện thay vì nhắn tin. Nhưng tốt nhất hãy hỏi: Liệu có cách nào bỏ xác nhận số điện thoại mà vẫn đạt được yêu cầu dữ liệu không? Tiêu chí thiết kế phải là bỏ được bước nào hay bước đó, chứ không phải thêm được bước nào thì cứ thêm.

Tôi chọn nói về Cổng tiêm chủng quốc gia, nhưng đây không phải vấn đề của riêng hệ thống này. Để viết bài này, tôi đã thử cài đặt hàng loạt app "chống dịch" của Việt Nam. Tôi thấy nhiều app cũng không sao, người dân sẵn sàng cài vài app khác nhau, miễn sao cái nào cũng chạy tốt, dễ dùng, an toàn, đảm bảo riêng tư, và, quan trọng hơn hết, phục vụ đúng nhu cầu của mọi tầng lớp.

Tôi nhấn mạnh nhu cầu vì tôi thấy có những app được tạo ra để phục vụ nhu cầu của cơ quan nhà nước hơn là người dân. Nhu cầu của dân rất đơn giản: tiêm vaccine, đi lại và nhận hỗ trợ an sinh, thất nghiệp. Câu hỏi không phải là tôi có thể làm app gì mà là người dân cần gì?

Thủ tướng mới chỉ đạo các bộ ngành thống nhất thành một ứng dụng chống dịch. Một số người đã nêu ý tưởng về một "siêu ứng dụng" của Việt Nam để "đi ra thế giới". Thật sự, chúng ta không phải đang chế tạo tên lửa để lên thăm chú Cuội trên Cung Trăng. Chúng ta chỉ đang cần một chiếc xe đạp để đi quanh trong làng thôi. Đương nhiên, muốn làm được chiếc xe đạp tốt vẫn cần phải có nghề.

Tin vui là Việt Nam có hàng trăm ngàn kỹ sư và chuyên gia phần mềm. Trong nước đã có những app, website vài chục triệu người dùng, tức là nhiều người đã biết làm cả "ô tô", nói gì "xe đạp". Các tập đoàn công nghệ lớn thế giới cũng không thiếu bóng dáng người Việt.

Những người thạo việc thường đã có việc làm tốt, bình thường chính quyền không có cách gì thu hút được họ, nhưng Covid đem đến một cơ hội. Phải cài bao nhiêu app, mà app nào cũng còn lỗi, họ cũng bức xúc, ngứa nghề chứ. Chỉ cần cho họ một cơ hội, tôi tin nhiều người sẽ nhào vào "tự gãi ngứa".

Chính quyền tạo ra cơ hội đó như thế nào? Câu trả lời, theo tôi, nằm ở mã nguồn mở và một tinh thần mở.

Phong trào phần mềm nguồn mở là một trong những sáng tạo làm nên thành công rực rỡ của giới công nghệ suốt mấy thập kỷ qua.

Không có ngành nào như ngành phần mềm, nơi các công ty thi nhau công bố tài sản trí tuệ, cho phép tất cả mọi người, kể cả đối thủ cạnh tranh, tham khảo, sử dụng lại, cải tiến tất cả thành quả sáng tạo của họ mà không lấy một xu. Nghe thì ngược đời, nhưng đây chính là cách họ cùng nhau phát triển, giúp tất cả đi nhanh hơn phần còn lại của thế giới.

Hầu hết phần mềm xương sống của Internet là phần mềm mã nguồn mở, hoặc được xây dựng dựa trên các phần mềm mã mở. Chính dòng chữ này cũng được tạo ra và đưa đến máy tính của bạn trên những phần mềm như vậy. Nói không ngoa, nếu không có sáng tạo văn hóa nguồn mở thì có lẽ chúng ta đã không có Internet như ngày hôm nay.

Vậy thì trước tiên, thay vì đóng cửa bảo nhau, âm thầm làm, nhà nước phải yêu cầu những đơn vị thực hiện các hệ thống thông tin quốc dân mở mã nguồn, mở thiết kế, công bố rộng rãi kế hoạch phát triển.

Lúc bấy giờ, ai thấy chỗ nào chưa được đều có thể tự do tham gia sửa lỗi và phát triển tính năng mới. Đây chính là cách kích thích sự sáng tạo và đóng góp từ mọi người dân, đặc biệt từ nhóm chuyên môn cao.

Năm ngoái, khi lũ lụt tàn phá miền Trung, một nhóm lập trình viên trẻ đã nhanh chóng tạo ra dự án mã nguồn mở Cứu hộ miền Trung, thu hút sự tham gia của kỹ sư Việt khắp thế giới. Họ cùng đóng góp ý kiến và hoàn thiện trang web. Nhiều kỹ sư làm việc trong các công ty "đối thủ" đã ngồi lại với nhau, chung tay vì đồng bào.

Hay như chỉ cách đây vài ngày, bạn tôi đang làm ở Amazon phát hiện một lỗ hổng bảo mật sơ đẳng trong một app tạo mã đi đường của Hà Nội, khiến ai cũng có thể làm giả mã đi đường. Nếu thiết kế của app này được công bố rộng rãi ngay từ đầu, những lỗ hổng như thế đã sớm được phát hiện và ngăn chặn. Giống như một căn nhà, sửa lỗi lúc còn trên bản vẽ bao giờ cũng dễ hơn khi đã xây xong.

Như bao phong trào cách tân khác, mã nguồn mở cũng có khi này khi nọ. Bluezone có lẽ là sản phẩm phần mềm mở đầu tiên của một cơ quan chính phủ, nhưng cách làm nửa vời khiến nó chẳng đến đâu, dù đã nhận được nhiều góp ý của cộng đồng.

Tôi là người chuyên đi tìm lỗ hổng trong phần mềm của người khác. Đến khi chuyển sang làm phần mềm nguồn mở, tôi cũng đã rất lo, vì sợ bị chê cười nếu lỡ làm sai. Nhưng rồi tôi nhận ra ai cũng có thể mắc lỗi, quan trọng là xử lý thế nào. Tôi nghiệm ra rằng mỗi lần người khác chỉ ra cái sai của mình là cơ hội để học hỏi, hoàn thiện bản thân và sản phẩm của mình.

Thành ra, mấu chốt theo tôi nằm ở tư duy cởi mở (open-mindedness). Lãnh đạo có tinh thần mở sẽ chào đón mọi người cùng tham gia, dám sai dám sửa. Còn tư duy chưa đủ mở thì có tuyên bố "app mở" cũng chỉ là bình mới rượu cũ, dễ gây cảm giác khoa trương hình thức.

Cách đây nhiều năm, giáo sư Ngô Quang Hưng đã chỉ ra rằng bằng cách tôn trọng và khuyến khích "quyền tự do tí toáy" của mỗi cá nhân, tinh thần mở tạo nền tảng và kích thích tiềm năng sáng tạo vô hạn từ cộng đồng, vì nó ghi nhận các tiếng nói cá nhân trong tiến trình phát triển.

Chính phủ đã nói nhiều về việc thu hút và sử dụng nhân tài. Dẫu không phải ai cũng muốn "làm quan" trong bộ máy nhà nước, nhưng tôi tin vẫn còn rất nhiều tấm lòng hướng về đất nước. Không riêng gì công nghệ, mở cửa tư duy và khuyến khích ai có năng lực đều có thể tham gia giải quyết các vấn đề lớn của xã hội là con đường ngắn nhất đưa Việt Nam sớm đi cùng thế giới.

Mọi thay đổi sáng tạo trên thế giới này, xét cho cùng, đều đến từ những cá nhân tâm huyết với vấn đề mà họ muốn giải quyết. Bởi có ai bị ngứa mà không muốn được quyền tự gãi?

Thứ Tư, 14 tháng 8, 2019

Tuệ Sỹ: Tâm Ý Thức



Tuệ Sỹ

Trước hết chúng ta phải hiểu Tâm là gì? Trong tiếng Hán, Tâm là trái tim. Từ cái nghĩa tâm là trái tim, rồi sau mới suy diễn ra tâm là tấm lòng, cho rằng tâm là tấm lòng suy nghĩ. Một bài thơ chữ Hán nói về tâm theo nghĩa này như sau:

三點如星像
橫鉤似月斜
披毛從此得
做佛也由他

“Tam điểm như tinh tượng,
Hoành câu tợ nguyệt tà.
Phi mao tùng thử đắc,
Tố Phật dã do tha”

Bài thơ này ví von cũng rất hay. Chữ Tâm 心 trong chữ Hán được mô tả có ba chấm như ba ngôi sao (Tam điểm như tinh tượng), còn móc câu nằm ngang như ánh trăng nghiêng (Hoành câu tợ nguyệt tà). Phi mao tùng thử đắc, tố Phật dã do tha: Mang lông đội sừng tức làm thân trâu, ngựa… là do tâm này, mà Phật cũng từ nó.

Định nghĩa tâm xét theo nghĩa tiếng Phạn thì có khác. Theo tiếng Phạn, tâm (citta) có nghĩa là tích tập. Định nghĩa này được thấy trong kinh Hoa Nghiêm, bản dịch chữ Hán của Bát-nhã (quyển 6): tích tập danh tâm 積集名心. Nó do gốc động từ là CI (cinoti): tích chứa, tích lũy, tăng trưởng và cũng có nghĩa là quán sát, tri nhận, cảm nhận. Đây là định nghĩa đặc biệt trong thuật ngữ Phật giáo, đặc biệt là Đại thừa. Nghĩa thông thường của nó, được nói là do gốc động từ cit hay cint (cintayati): tư duy, suy tưởng. Tâm là cái tư duy.

Nói tâm là cái tích tập: tích tập gì?

Một cách tổng quát, đó là kinh nghiệm hay nhận thức được tích lũy. Vậy tâm là kinh nghiệm đời sống; tất cả những gì đã từng trải, bằng hành động và nhận thức, tích lũy lại thành tâm. Nếu diễn tả ra trong cuộc đời con người, từ khi bắt đầu biết suy nghĩ, biết hành động và có ghi nhớ, cho đến khi chết; tất cả những ghi nhớ trong óc não còn lại đó gọi là tâm. Chính những ghi nhớ đó tác thành một con ngườihoặc thiện hoặc ác tùy theo kinh nghiệm môi trường, hoàn cảnh. Vì thế, ta nói tâm hướng dẫn đời sốngcon người.

Như vậy, tâm đó chính là nghiệp, là hành vi của con người, vì những năng lực tạo ra hành vi của con người không bao giờ mất. Chúng ta không nói tới luật bảo tồn năng lượng, nhưng phải biết rằng không có cái gì mất đi trong hành động của chúng ta.

Kinh nói: bất sanh bất diệt, bất tăng bất giảm. Thế giới này không sanh cũng không diệt, không có cái gì xuất hiện hoàn toàn mới mẻ cũng không có cái gì biến mất đi hoàn toàn. Chúng sanh luân hồi vô thủy, chỉ là sự biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác, như gạo biến thành cơm, cơm biến thànhnhững dưỡng chất trong dạ dày, tiêu hóa, rồi thải ra, thành da, máu thịt,… khi chết, da máu thịt này biến thành phân tro, phân tro này đem bón trở thành cây trái, rau cỏ…, trở lại làm thực phẩm cho người và vật, theo một quá trình sanh diệt, sống chết nữa nữa. Như vậy, chúng ta thấy rằng, thân này chết nhưng nó không mất mà trở thành những cái khác, biến thành phân tro, đất…, những cái này cũng không mất mà trở thành máu thịt của con người, tức là không có cái gì sanh và cũng không có cái gì hủy diệt mà chỉ có sự biến thái.

Tâm cũng vậy, nó tích lũy. Những gì được làm, được nói năng, suy nghĩ, hoặc thiện, hoặc bất thiện, thảy đều không mất; mà tự chúng là sự biến thái của tâm từ một trạng thái này sang trạng khác. Nghiệp là nguồn năng lượng được tích chứa trong kho chứa gọi là tâm, phát hiện ra ngoài thành hành vi của thân, khẩu; hướng thân, khẩu đến mục tiêu, theo hướng được định bởi lực đẩy ban đầu từ tâm. Kho chứa ấy không phải nằm im lìm bất động, vì nguồn năng lượng trong nó, mà Duy thức gọi là chủng tử(hạt giống, tức hạt năng lượng; cũng gọi là tập khí hay công năng sai biệt, tức một loại công năng hay năng lượng có thế lực đặc biệt tác thành những hiện tượng sai biệt mà ta biết đó là thân, tâm, thế giới), những hạt giống năng lượng này tồn tại trong trạng thái sanh và diệt trong từng sát- na, tạo thành hìnhảnh như một dòng thác chảy liên tục. Kinh nói: Nhất thiết chủng tử như bộc lưu.

Những hành vi của thân và khẩu chỉ là những vận động tự nhiên của thân và khẩu, do tác động hỗ tương giữa trong và ngoài, không mang giá trị đạo đức, không xác định thiện hay ác gì. Nhưng khi có nguồn lực từ tâm điều khiển nó theo hướng thiện hay bất thiện, bấy giờ hành vi của thân hay khẩu bị nhuốm màu hoặc thiện, hoặc bất thiện, ta gọi là nghiệp thiện và nghiệp bất thiện. Hành vi ấy huân tậptrở lại tâm, nghĩa là tác động trở lại tâm và biến đổi nó. Đó là sự tích lũy nghiệp. Theo ý nghĩa này mà ta hiểu câu kinh sau đây: “Tam giới duy tâm”, ba cõi duy chỉ là một tâm. Ý nghĩa ấy cũng phù hợp với điều mà Phật nói trong các kinh điển Nguyên thủy: “Chúng sanh là kẻ thừa tự của nghiệp” tức hành vi của chính nó. Nói cách khác, thế giới được thành hình tốt hay xấu, thảy đều là sự biến thái của những gì, của tất cả hành vi, được tích lũy bởi tâm, chứa đựng trong tâm.

Chúng ta nhớ rằng, khi được phân tích, tâm có ba tầng. Tầng trong cùng, ta hãy gọi là tầng đáy; thứ đến, tầng hoạt động luôn luôn là chấp ngã và một tầng khác hoạt động bên ngoài, là các hoạt động của ý thức cùng với các giác quan. Chúng ta không nhận thức được tâm như là thấy sắc, nghe tiếng, nắm bắt ảnh tượng ý niệm, tư duy; chỉ biết rằng nó tồn tại qua những hoạt động của nó gọi là tâm sở.

Điều đó có nghĩa, tuy rằng gọi tâm là cái tích tập, nó cụ thể, nó tồn tại đó nhưng không thể nhận thứcđược nó mà phải từ những hoạt động của nó thì mới biết nó là cái gì.

Ba tầng tâm thức có khi được gọi chung thành một là tâm-ý-thức. Như trong kinh Trung A-hàm (kinh số 17), Phật nói: “Người mà tâm-ý-thức luôn luôn được huân tập bởi tín, tinh tấn, đa văn, bố thí, trí tuệ; người ấy do nhân duyên này tự nhiên thác sinh lên cõi trên, sinh vào thiện xứ…”; hoặc Tạp A-hàm (kinh số 289): “Tâm-ý-thức, trong một ngày đêm, từng thời khắc, thoáng chốc sinh, thoáng chốc diệt, biến đổi không ngừng…”; hoặc như kinh Hoa Nghiêm (Phật-đà-bạt-đà-la, quyển 23): “Các dòng nước dục, hữu, kiến, vô minh, tiếp nối chảy liên tục, làm nảy sinh hạt giống của tâm-ý-thức trên mảnh đất ba cõi…” Luận Câu-xá (quyển 4) nói: “Nó tập khởi nên được gọi là tâm. Nó tư duy trù lượng nên được gọi là ý. Nó phân biệt nhận thức nên được gọi là thức… Tâm, ý và thức, ba tên gọi cùng chỉ một nội hàm. Nghĩa tuy khác nhau nhưng thể là một.”

Trong đó, về tầng đáy, Thượng tọa bộ Nam phương gọi là thức Hữu phần hay Hữu chi (bhavaṅga); các nhà Du-già hành hay Duy thức luận, gọi nó là thức A-lại-da (ālaya) hay thức thứ tám. Không thể nhận thức được tự thể của nó đã đành, cho đến các hình thái hoạt động của nó cũng không thể dễ dàng nhận biết. Duy chỉ có thể biết rằng nó tồn tại là do quan sát sự tồn tại của thiên nhiên, của vũ trụ, của thân và tâm. Khi nhìn cây, lá cây, mọi người đều biết rằng lá cây đó là do nhiều phân tử hợp thành, nhưng cái gì kết các phân tử đó lại với nhau được? Phải có một lực nào đó kết dính lại. Vậy, lá cây đó tồn tại và lay động như một toàn thể do bởi một năng lực nào đó. Lực đó, trong Phật giáo nói chung, được hiểu là tâm, tức kho chứa tích lũy nhiều đời nhiều kiếp của vô số hạt giống năng lực của nghiệp, để rồi đến khichín muồi, nghĩa là sau một quá trình đã được xử lý, các hạt giống năng lực hay năng lượng ấy biến chuyển, và biến thái thành thân, tâm và thế giới; chúng được duy trì do lực tương tác, tức hỗ tương tác dụng theo quy luật duyên khởi.

Chính qua hoạt động của lá cây và sự tồn tại của lá cây mà chúng ta biết rằng có một cái tâm. Đây là cái nghĩa mà chúng ta đã nói nhiều lần; chính cái nghĩa đó gọi là duy tâm, là do tâm. Tâm như vậy gọi là tâm biến, nhưng nghĩa này chưa tận cùng.

Thân thể chúng ta, trong điều kiện nào đó thì những cái như ngón tay, sợi tóc… gắn kết lại với nhau, nhưng tới một lúc nào đó thì nó rã ra, cho dù có lấy keo dán nó cũng không dính lại, như khi chết chẳng hạn. Vậy khi nào rã ra và sau khi rã ra thì nó trở thành đất, thành bụi… vẫn còn đó nhưng qua trạng tháikhác.

Tóm lại, có mấy vấn đề, chúng ta đi từ từ: tâm là sự tích tập, tích lũy kinh nghiệm. Mà kinh nghiệm là hoạt động của nghiệp, nghiệp tạo ra thế gian, nhưng cái tâm thì chúng ta không thể hiểu được, không thể biết được, vì không thấy được mà phải nhìn qua những hiệu quả của nó, tức là những công dụng, tác dụng mà nó gây ra trên mọi thứ tồn tại trong đời. Tác dụng của nó là duy trì sự tồn tại, duy trì mối quan hệ của các sự vật, tồn tại của các pháp.

Muốn biết rõ tâm và tại sao gọi nó là tâm thì phải qua một tầng nữa, tức là tại sao gọi là nó kho chứa của nghiệp?

Nên biết, đó là tầng thứ hai, gọi tên là ý. Tâm, có nghĩa là là tích tập; còn ý thì có nghĩa là gì? Nói vắn tắt, ý là cái hoạt động tư lương. Tư lương là gì? Những cái mà ta gọi là tư duy, tư tưởng… những hoạt động của tâm lý, nói chung là suy lường, đắn đo ước lượng, phán đoán, v.v., gọi là tư lương; đây là nói theo nghĩa rộng nên hơi mơ hồ, không xác định. Thu gọn lại, tư lương là hoạt động của một cái tôi.

Chúng ta biết mình đang tồn tại, đang hiện hữu, vì biết rằng có một cái tôi: Tôi đi, tôi đứng, tôi ngồi… Từ cái tâm tích lũy này, rõ ràng có thêm một tầng nữa, khiến nó lộ lên mặt biểu hiện một chút, đó là cái (chủ thể) chấp ngã. Trong nhiều tín ngưỡng tôn giáo, cái ngã hay tự ngã này được hiểu là linh hồn nằm trong thân, hoặc nó lớn bằng thân, hoặc nhỏ như hạt cát. Lớn bằng cái thân cho nên nếu vừa bứt một sợi tóc, vừa chích kim dưới bàn chân thì cả hai nơi đều cảm giác đau cùng một lúc. Có cảm giác đó, là do có linh hồn. Khi hồn lìa khỏi xác, xác chết nằm trơ không hay biết gì. Hoặc là linh hồn giống như hạt cát, như một nguyên tử trong thân có vận tốc thật nhanh. Cả hai nơi lại cùng đau một lúc, đó là do linh hồnvận chuyển rất nhanh. Trong Phật giáo không có linh hồn như vậy được thừa nhận.

Bây giờ sang tầng thứ ba để sẽ hiểu rõ hơn về hoạt động của thức. Nhưng tầng thứ ba này nếu khôngcó hai tầng đầu thì cũng không thể hiểu nó được, vì tất cả đều phải quan hệ với nhau. Như do quan hệ với toàn thể xe mà cái khoanh tròn kia được gọi là bánh xe.

Gọi nó là thức, vì nó nhận biết đối tượng. Điều này ta có thể kinh nghiệm và chứng minh được bằng hoạt động của sáu thức: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đây là tầng ngoài cùng của cơ cấu tâm thức, gọi là thức thường nghiệm tức là những hoạt động nhận thức mà ta có thể kinh nghiệm được bằng giác quan thường nhật. Tầng này được gọi chung là thức. Tầng thứ hai trung gian, như đã biết, gọi là ý, hay là thức thứ bảy. Nó cũng được gọi là thức, vì nhận thức về sự tồn tại của một tự ngã, một cái tôi. Tầng trong cùng, gọi là thức thứ tám, mà nhận thức của nó là duy trì mối quan hệ tồn tại của thân, tâm và thế giới. Hai tầng sau này thuộc về thức siêu nghiệm, tức không thể nhận biết được bằng kinh nghiệm giác quan thường nhật. Chính yếu thường chỉ là dựa trên chính hoạt động của sáu thức tầng ngoài để khám phá ra hai tầng kia.

Đứng trước một cái gì đó mà biết rằng, cái trước mắt mình là một cái cây hay một đóa hoa, nghĩa là đóa hoa xuất hiện trong con mắt rồi cái biết khởi lên, cái biết qua con mắt thì cái biết này gọi là nhãn thức, còn nghe những âm thanh trầm bỗng đô, rê, mi, fa… mà biết âm thanh này cao thấp, hay dỡ thì cái biết qua lỗ tai này gọi là nhĩ thức. Còn cái biết trong cùng như đọc sách mà biết rằng đây là Nguyễn Huệ đánh Nam dẹp Bắc, đây là vua Lê Chiêu Thống chạy trốn sang Tàu, thì đó cũng là cái biết. Cái biết này dựa trên ấn tượng quá khứ; ấn tượng này do từ sách vở gợi lên hay do kinh nghiệm mà mình đã từng trải. Cái biết này không do mắt thấy tai nghe mà là do sự ráp nối của thức bên trong, gọi là ý thức. Tức là qua cái biết của con mắt, của lỗ tai, để lại; tất cả những cái biết này ghi dấu trong tâm, được tích lũylại, rồi dựa trên đó mà ráp lại, thì cái biết đó gọi là cái biết của ý.

Thành ra, cái biết của ý thức phải dựa trên nền tảng, là kinh nghiệm tích lũy; tức dựa trên cái tâm, là thức thứ tám. Nhưng nó cũng phải y trên một cơ quan ráp nối, có thể gọi là trung tâm xử lý dữ liệu, để ráp nối cái này với cái kia. Con bò ráp nối dữ liệu tích lũy theo kiểu nó; con chuột ráp nối cảnh theo cách của nó, để nó nhìn và hiểu thực tại theo cái cách khác nhau của mỗi loài; mặc dù mắt tai mũi lưỡi giống nhau nhưng sự ráp nối khác nhau.

Ta hãy lấy thí dụ về máy vi tính. Các dữ liệu được nhập thông qua bàn phím và con chuột là sáu thức. Chúng được lưu trữ như là các chủng tử được tích chứa trong kho chứa thức thứ tám (thức a-lại-da). Tại đó, chúng được đưa vào trung tâm xử lý để chờ xuất. Trung tâm xử lý dữ liệu đó là thức thứ bảy. Từ đó, cũng thông qua bàn phím và con chuột là sáu thức bên ngoài mà chúng được xuất, để cho ra trên màn hình nhiều thứ khác nhau, tức là toàn thể thế giới, thân và tâm của mọi loại chúng sanh.

Như vậy, ta hãy hỏi thêm lần nữa: thức là gì? Thức là nhận thức, là nhận biết. Ban đầu, chỉ như là sự thấy biết của con mắt: chỉ nhìn và thấy biết, nhưng không phân biệt cái được thấy ấy là gì. Ta thường gọi đó là cái biết trực giác; thuật ngữ Phật học gọi là thức hiện lượng vô phân biệt. Nhưng khi nói: “Tôi biết tôi đang nhìn/ hay đang thấy” thì lúc đó rõ ràng có một cái tôi đang chủ trì sự thấy. Song, tất cả mọi cái thấy và biết đều phải thấy, biết về một cái gì. Con mắt thấy, tất phải có cái gì để mà thấy.

Theo cách hiểu thông thường, cái thấy hay biết nào cũng là sự tích hợp của hai yếu tố: thức và cảnh, tức chủ thể nhận thức và đối tượng tương ứng của nó. Nhưng chúng ta biết rằng, thức không tự biết nó là cái gì cả, như lưỡi dao bén không thể tự cắt đứt chính nó. Chỉ khi nào tự ngã hay cái tôi xuất hiện như là chủ thể nhận thức, bấy giờ thức mới nhận biết được nó và đồng thời đối tượng của nó. Thêm bước nữa, ta cũng không biết cái tôi ấy là gì, tồn tại như thế nào. Nhưng do thấy kết quả, rồi suy luận ra có thức đang thấy, đang biết; từ những kinh nghiệm được tích lũy bởi thức, người ta suy nghĩ ra có cái linh hồn, như là chủ thể của sinh mạng và nhận thức. Thật ra đây là một quá trình, một chuỗi quan hệ.

Cho nên, chúng ta nói rằng có một cái thức để biết, và nghĩ nó là linh hồn, thì thật sự không bao giờ có cái linh hồn thường hằng bất biến như được quan niệm trong nhiều tín ngưỡng, tôn giáo. Ta biết có một cái tôi tồn tại, ấy là do quan hệ; quan hệ giữa trong và ngoài, nội giới và ngoại giới; nói gọn, thức và cảnh, chủ thể và đối tượng của nó. Nhưng nếu chỉ y nơi sự quan hệ của hai cái thôi thì cũng không đủ để hiểu được hoạt động của nhận thức và quá trình hình thành, xuất hiện cái tôi.

Cái mà ta gọi là cái biết thì thực sự ta không biết nó là cái gì cả vì nó vô hình và không bao giờ chúng takinh nghiệm được, mà chỉ biết được qua hành vi của nó. Vậy cái mà chúng ta kinh nghiệm được, nắm bắt cụ thể được như nắm viên bi trong tay, và soi vào trong gương mà thấy được, cái đó gọi là con mắt, tức là căn. Con mắt mà ta thấy được, nắm được, đó là phù trần căn, tức khối thịt và các mô, cùng thủy tinh thể, tạo thành nhãn cầu, con ngươi. Phù trần căn mà hỏng, bấy giờ nhận thức con mắt không thể khởi lên vì khuyết duyên. Phù trần căn chưa hư, sắc ngoại cảnh xuất hiện và được phản chiếu lên đó, thuật ngữ duy thức gọi là đới bỉ tướng. Nhưng phù trần căn thì không bị biến đổi theo cảnh sắc; do đó, đới bỉ tướng là ảnh tượng được ghi dấu lên một loại sắc vi tế, minh tịnh, nhạy cảm, thuật ngữ gọi là tịnh sắc. Chính loại tịnh sắc này mới có thể bị kích thích bởi ngoại cảnh. Như vậy, khi cảnh phản chiếu lên phù trần căn, ghi ấn tượng lên tịnh sắc căn, bấy giờ thức xuất hiện. Không có căn, không có cảnh, thì cũng không có thức.

Căn, cảnh và thức, ba cái hòa hiệp thành một tổ hợp ba, gọi là xúc. Giống như 2 O2 và 1 H liên kếtthành một phân tử nước H2O; Nếu thiếu một nguyên tử, thì cũng không thành phân tử nước được. Từ xúc khởi lên thọ, cảm giác thích ý hay không thích ý. Tiếp theo thọ là tưởng; các ấn tượng nhận thứcđược cấu trúc lại thành khái niệm, thành ý tưởng, làm cơ sở cho tư duy và ngôn ngữ; rồi từ đó khởi lên phán đoán, và nhận thức. Đó là quá trình nhận thức một đối tượng, được phân chia thành nhiều giai đoạn.

Ba cái: căn, cảnh, thức hợp lại, quan hệ tổng hợp với nhau, mới thành ra hiệu quả nhận thức. Khi chúng ta chia ra thì đây là thức, đây là căn, đây là cảnh; còn nếu trong tựthể tồn tại, chúng thảy đều là chủng tử như những dữ liệu được lưu trong bộ nhớ của máy vi tính. Tự bản chất, chúng là những dạng xung điện có và không, 1 và 0, nhưng do kết cấu của hệ thống vi mạch để nhận xung điện; rồi tùy theo lập trình mà chúng được đưa vào bộ vi xử lý để xử lý, cho ra kết quả với nhiều hình thái khác nhau trên màn hình: núi, sông, nhân vật; khóc, cười, yêu, ghét… đủ mọi cảnh đời.

Tất cả đều là do sự ghép nối. Thuật ngữ Phật học gọi sự ghép nối ấy là phân biệt. Đôi khi nói thêm là phân biệt vọng tưởng. Phân biệt, nghĩa là cấu trúc lại thực tại. Như ta gõ bàn phím để nạp dữ liệu, đưa vào xử lý, rồi cho ra kết quả trên màn hình. Trên đó, chỉ là hệ thống kết cấu của những cột đèn vi tính sắp thành hàng ngang và dọc, mà mật độ được tính trên từng phần vuông. Mỗi cọc có ba bóng đèn nhỏ bật sang ba màu căn bản. Tùy theo lệnh từ bàn phím, sau khi đã được xử lý, các dữ liệu được bố trí theo một cấu trúc xác định, theo đó, bóng đèn nào có xung điện để được thắp sáng. Mật độ xung điện có và không tạo thành sự chớp nháy liên tục thay nhau của các bóng đèn, với các màu được thắp sáng pha trộn, phản chiếu lẫn nhau, tạo thành vô số hình ảnh và âm thanh. Như vòng hào quang sau tượng Phật tại các chùa. Do sự chớp nháy liên tục thay nhau của các bóng đèn được bố trí thành vòng tròn, ta thấy vòng hào quang sau tượng Phật đang xoay, mà thực tế thì tất cả đều đứng im tại vị trí cố định của nó.

Như vậy, mối quan hệ kết cấu của căn, cảnh và thức hiện hành từ chủng tử riêng biệt của chúng, hòa hiệp với nhau tạo thành hình ảnh thế giới mà ta thấy, ta nghe, v.v… Thế giới xuất hiện theo sự cấu trúc của căn, cảnh thức ấy là thế giới tồn tại do bởi phân biệt. Tất cả tồn tại do phân biệt kết cấu đều có thể nói là vọng tưởng, vì nó không phản ảnh trung thực tồn tại, nó như là nó.

Chúng ta học để hiểu được bản chất của thực tại cũng giống như người kỹ sư hiểu rõ cấu tạo của vi tính, cơ bản là hiểu rõ, trong một giới hạn nào đó, quy luật vật lý, nguyên tắc nhị phân, nguyên tắc xung điện như thế nào… thì có thể xử lý công việc theo ý của mình. Đó là do trình độ hiểu biết những nguyên tắc của tồn tại, của quan hệ các hình ảnh như quan hệ của ánh sáng với những xung điện.

Tóm lại, nếu nhận thức được thực tại, thấy được thực tại, hiểu rõ được chân lý thì có thể biến đổi đượcthế gian này, làm cho nó tồn tại hay làm cho nó hủy diệt; đó chính là nói rằng Ma hay Phật cũng đều do tâm, ba cõi duy chỉ một tâm, là nói theo ý nghĩa này.