Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2018

MƯỜI PHƯƠNG THỨC ĐỂ THAO TÚNG DƯ LUẬN

(NCTG) Tẩy não, nhồi sọ và ngu dân là những thủ đoạn mà nhiều chính quyền thường dùng trong quá trình thao túng đám đông, nhằm tạo dựng một xã hội chỉ biết nhắm mắt tuân thủ những gì có lợi cho chính quyền. Mục tiêu ấy được thực hiện như thế nào?

Minh họa: Internet
Minh họa: Internet
Nhiều người gán 10 khuyến cáo dưới đây cho giáo sư Noam Chomsky, “người trí tuệ nhất thế giới”, mặc dù tác giả của nó khả năng là Sylvain Timsit, tuy một số ý có thể bắt nguồn từ những tư tưởng trong các tác phẩm của Chomsky.

Đây là một phân tích hết sức chính xác và sâu sắc về những phương pháp và công cụ mà mọi chính quyền hay sử dụng ,thông qua bộ máy truyền thông. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Tuấn Anh. Trân trọng giới thiệu (NCTG).
 
Bịt miệng người dân kiểu hiện đại - Minh họa: Internet
Bịt miệng người dân kiểu hiện đại - Minh họa: Internet

1. Cần phải thu hút sự chú ý của dư luận vào những vấn đề thứ yếu, không để họ để tâm vào các vấn đề xã hội thực chất, bằng việc đăng tải những tin tức ít ý nghĩa xã hội nhưng lại đi vào lòng người. Hãy tận dụng các phương tiện truyền thông lá cải, họ sẽ rất trung thành với ta.

2. Nhân dân cần nhìn nhận lãnh đạo như những người cứu rỗi của dân tộc. Để làm như vậy thì, với sự giúp đỡ của truyền thông, hãy chụp lên người dân những báo động giả và những đe dọa không có thật để họ lo lắng, run sợ.

Khi sự lo sợ đã đạt tới đỉnh cao, hay ra tay giải quyết những vấn đề không tồn tại đó! Người dân sẽ biết ơn lãnh đạo và sẵn sàng hy sinh một phần quyền tự do của mình.

3. Người dân luôn phải sẵn sàng cho những tình huống xấu. Muốn vậy, hãy sử dụng các phương tiện tuyên truyền “trắng” (hoàn toàn dưới kiểm soát của chính phủ), “xám” (chỉ một phần được chính phủ kiểm soát) và “đen” (ko ai nghĩ rằng các kênh này lại ủng hộ chính phủ), nhằm tạo nên hình ảnh một chính phủ đang vận dụng mọi sức lực để xua tan những bóng mây đen trên bầu trời Tổ quốc.

Những chính sách thắt lưng buộc bụng cần được áp dụng từ từ để người dân quen dần, rồi đi đến có cảm giác: vẫn còn sống là may lắm rồi!

4. Cần thuyết phục cho người dân tin rằng, những điều tồi tệ hiện nay chỉ mang tính quá độ, tương lai của dân tộc sẽ sáng lạn hơn nhiều. Không cho đời bạn thì cho đời con, đời cháu bạn. Con người ta thường dễ tin mà, hàng trăm năm nay họ sống trong tâm thế “hy sinh đời bố củng cố đời con!”.

5. Cần làm cho người dân bớt suy nghĩ, bớt đi tính phản biện, bớt thói quen phân tích để tìm mối quan hệ nhân quả. Để đạt được điều đó, lãnh đạo cần có những thông điệp ngắn gọn, dễ hiểu kiểu bát cơm quả trứng.

Như thế, người nghe sẽ làm quen với sự hời hợt, trở nên ngây thơ, cả tin hơn, và sẵn sàng tin tất cả những gì truyền thông mang đến cho họ.

6. Tận dụng mọi cơ hội để tác động tới tình cảm của người dân, tránh để họ suy nghĩ logic. Hãy để người dân bày tỏ tình cảm, bởi lẽ tình cảm dễ bị thao túng hơn nhiều so với lập luận.

7. Cần ngu dân tới mức tối đa, vì làm được như vậy sẽ khiến họ không có động lực đạt tới những điều phức tạp, cao siêu (như xây dựng một xã hội dân sự). Hãy đơn giản hóa, tham nhũng hóa hệ thống giáo dục. Một hệ thống trường sở như vậy là công cụ lý tưởng cho thao túng dư luận!

8. Cần ngăn chặn ko cho người dân tiếp cận với các nguồn tin đầy đủ, khách quan. Để như vậy, cần đầu tư, ủng hộ cho các kênh truyền thông một chiều và tiêu diệt các kênh đối lập.

9. Ưu tiên tạo dựng và khuyếch chương tính bầy đàn! Cần tạo ra cảm giác bất lực, kém cỏi trong từng cá nhân, để họ tự nguyện (hoặc bắt buộc phải) phục tùng “tập thể”. Lãnh đạo, kiểm soát và chi phối một bầy đàn thiếu tính chất cá nhân sẽ đơn giản hơn rất nhiều.

10. Làm tất cả để nắm bắt được người dân. Để như vậy hãy dùng các biện pháp, công khai và bí mật, để biết được sở thích, quan điểm chính trị, tôn giáo, hành xử, v.v. tóm lại là toàn bộ tâm lý của họ.

Cố làm sao để hiểu họ hơn chính bản thân họ hiểu họ. Hãy tận dụng những thành quả mới nhất của các môn khoa học xã hội (xã hội học, tâm lý học, v.v...) để đạt được mục đích này, nhưng cần tiến hành một cách bí mật nhất có thể.
Nguyễn Tuấn Anh chuyển ngữ từ bản tiếng Hungary

Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2018

Vật lí Lượng tử Tốc hành (Phần 6)

Khám phá electron
Cùng khoảng thời gian mà các nhà khoa học đang bận tâm về bản chất của ánh sáng, những bí ẩn của cấu trúc nguyên tử cũng bắt đầu được phơi bày. Những gợi ý đầu tiên về sự tồn tại của những hạt nhỏ hơn bên trong nguyên tử xuất hiện từ các nghiên cứu về một hiện tượng gọi là tia cathode.
Cathode là một điện cực được nung nóng làm phát ra một chùm hạt (trong các ti vi cũ và máy hiển thị trong phòng thí nghiệm, những hạt này bị lệch hướng bởi điện trường và từ trường để vẽ nên những hình ảnh phát sáng trên màn hình huỳnh quang). Năm 1897, nhà vật lí Anh J.J. Thomson xác định được tia cathode gồm những hạt tích điện âm, nhỏ hơn nhiều so với nguyên tử, được tạo ra từ bên trong nguyên tử. Là những hạt hạ nguyên tử đầu tiên từng được phát hiện, những ‘electron’ này đã mở đường cho một lĩnh vực hoàn toàn mới của vật lí hạt. Lúc ấy, các nhà khoa học bắt đầu mơ hồ hình dung rằng những tranh luận của họ về bản chất của ánh sáng sẽ sớm xung đột với thế giới mới này của các hạt hạ nguyên tử.
Khám phá electron

Hiệu ứng quang điện

Hiệu ứng quang điện vừa thiết yếu về mặt khái niệm vừa là bằng chứng cho lí thuyết photon của Einstein. Được khám phá bởi kĩ sư người Anh Willoughby Smith vào năm 1873, hiệu ứng quang điện liên quan đến dòng điện từ một số kim loại khi chúng bị chiếu sáng dưới những bước sóng ánh sáng nhất định. Vào cuối thế kỉ 19, các nhà vật lí đã biết đủ để giải thích hiện tượng này là sự giải phóng electron ra khỏi bề mặt kim loại bị chiếu sáng, nhưng thực tế dai dẳng là trong khi ánh sáng xanh và tia tử ngoại tần số cao đánh bật các electron một cách hiệu quả, thì những chùm ánh sáng đỏ dù là cường độ mạnh nhất cũng không thể gây ra dòng điện chạy.
Einstein nhận thấy hiệu ứng quang điện có thể được giải thích bằng cách hiểu ánh sáng không phải là một sóng liên tục, mà là những gói lượng tử hóa rời rạc tương tự như những gói lượng tử mà Planck đã dùng để thoát khỏi thảm họa miền tử ngoại. Công bố vào năm 1905, lí thuyết của ông dự đoán một mối liên hệ giữa tần số ánh sáng và năng lượng của các electron được giải phóng cuối cùng được chứng minh vào năm 1916 bởi nhà vật lí Mĩ Robert Millikan.
Hiệu ứng quang điện
Vật lí Lượng tử Tốc hành | Gemma Lavender

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2018

Vật lí Lượng tử Tốc hành (Phần 5)

Thảm họa miền tử ngoại
Vào cuối thế kỉ 19, các nhà vật lí nghiên cứu hành trạng của “vật đen” ở những nhiệt độ khác nhau cảm thấy họ phải đối mặt trước một vấn đề: các mô hình của họ về mối liên hệ giữa nhiệt độ của một vật đen và sự phân bố bức xạ phát ra từ bề mặt của nó không còn đúng ở những bước sóng tử ngoại. Vấn đề này về sau được gọi là “thảm họa miền tử ngoại”.
Tìm cách giải quyết vấn đề trên, vào khoảng năm 1900 nhà vật lí Đức Max Planck tìm thấy hai liên hệ tách biệt mô tả những phần khác nhau của phân bố năng lượng đó. Một gần đúng được Wilhelm Wien rút ra vào năm 1896 mô tả chính xác bức xạ vật đen ở nhiệt độ cao, còn định luật Rayleigh-Jeans (rút ra vào năm 1900) cho biết ở đầu nhiệt độ thấp của quang phổ, năng lượng phát ra bởi một vật đen tỉ lệ với nhiệt độ chia cho bước sóng lũy thừa bốn. Lúc này Planck đối mặt trước thử thách phải dung hòa hai mối liên hệ độc lập biểu kiến này.
Thảm họa miền tử ngoại
Lượng tử
Đối mặt trước vấn đề giải thích bức xạ vật đen ở nhiệt độ cao, cuối cùng Max Planck phát hiện ông có thể giải thích phân bố thực của bức xạ nếu ông giả sử rằng năng lượng không được giải phóng theo những lượng liên tục, mà thay vậy nó được phát ra theo những xung rời rạc hay những gói năng lượng mà ông gọi là lượng tử.
Planck nhận thấy có một mối liên hệ giữa năng lượng và tần số của bức xạ vật đen, được xác định bởi phương trình đơn giản bên dưới. Ở đây, E là năng lượng, f là tần số và h là một hằng số tỉ lệ ngày nay gọi là hằng số Planck (với giá trị 6,626 ´ 10-34 Js). Planck giả sử rằng sự lượng tử hóa của ánh sáng bằng cách nào đó là một hệ quả của cách các hạt trong một vật đen dao động. Tuy nhiên, mãi đến năm 1905 Albert Einstein mới thông qua ý tưởng lượng tử hóa, ông cho rằng bức xạ về cơ bản được phân chia thành những gói lượng tử hóa gọi là photon. Khám phá của Planck và của Einstein cùng nhau đánh dấu sự ra đời của vật lí lượng tử.
Lượng tử
Vật lí Lượng tử Tốc hành | Gemma Lavender

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2018

Lãnh hải Trung Quốc trong khu vực Biển Đông !?


Thanh Niên

Đó là khái niệm mà Cục Điện ảnh (Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch) trả lời về bối cảnh hạm đội Trung Quốc xuất hiện trong đoạn cuối của phim Điệp vụ Biển Đỏ. Thật bức xúc khi 'lãnh hải Trung Quốc' ấy chính là quần đảo Trường Sa của VN.

Liên quan việc dư luận bức xúc khi phim Điệp vụ Biển Đỏ có đoạn cuối tuyên truyền xuyên tạc “Biển Đông là của Trung Quốc” nhưng vẫn được chiếu ở VN (Thanh Niên đã phản ánh), Bộ VH-TT-DL chiều 26.3 đã có thông cáo tới các cơ quan báo chí.

Cục Điện ảnh không hiểu Luật Biển

Thông cáo trên được đưa ra sau khi Bộ VH-TT-DL yêu cầu Cục Điện ảnh kiểm tra quy trình phát hành bộ phim. Theo thông tin từ bản thông cáo báo chí, vào ngày 2.3, Hội đồng T.Ư thẩm định phim truyện với 7/11 thành viên đã xem và thẩm định phim Điệp vụ Biển Đỏ (4 thành viên vắng có lý do). Theo đó, Cục Điện ảnh khẳng định: Hội đồng đã thẩm định và phân loại bộ phim theo đúng trình tự và quy định hiện hành. Sau khi thẩm định và phân loại, bộ phim được 100% thành viên hội đồng đề nghị cho phép phổ biến với điều kiện cấm khán giả dưới 18 tuổi (C18). Ngày 15.3, bộ phim được cấp giấy phép phổ biến. Cục Điện ảnh chịu trách nhiệm cấp phép sau khi Hội đồng duyệt phim quốc gia đã thông qua.

Về đoạn cuối phim bị chỉ trích, Cục Điện ảnh giải thích như sau: “36 giây cuối, phim thể hiện tàu của Trung Quốc về tới lãnh hải Trung Quốc trong khu vực Biển Đông và thấy một vài chiếc tàu từ xa, hình dáng những chiếc tàu này không rõ nét; loa từ tàu Trung Quốc phát ra: “Chú ý, đây là hải quân Trung Quốc. Quý vị sắp tiến vào lãnh hải Trung Quốc, xin hãy đi ngay”. Những hình ảnh, âm thanh và lời thoại của đoạn cuối phim hoàn toàn không có căn cứ để kết luận rằng bộ phim có liên quan đến vấn đề chủ quyền biển đảo”.

Tuy nhiên, trả lời Thanh Niên, thiếu tướng - Giáo sư Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Công an), cho rằng: “Văn bản của Cục Điện ảnh nói rằng: “Tàu của Trung Quốc về tới lãnh hải Trung Quốc trong khu vực Biển Đông” là hoàn toàn không chính xác. Trong trường hợp này, tôi cho rằng, Cục Điện ảnh đã không hiểu về luật Biển quốc tế. Bởi vì nếu có kiến thức về luật Biển quốc tế, không ai nói là “lãnh hải Trung Quốc trong khu vực Biển Đông”.

Ông Cương giải thích thêm: “Công ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển năm 1982 đã quy định các quốc gia ven biển có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải không quá 12 hải lý (khoảng 22,2 km) tính từ đường cơ sở. Luật Biển VN của chúng ta cũng lấy mốc 12 hải lý để tính lãnh hải. Từ lãnh hải ra ngoài phía biển 12 hải lý nữa gọi là đường tiếp giáp lãnh hải. Vì vậy, khi nói tới lãnh hải, bao giờ người ta cũng phải gắn với một vùng lục địa nào đó chứ không thể nói lãnh hải trên một vùng biển. Chẳng hạn, chúng ta có thể nói, lãnh hải VN xung quanh đảo Lý Sơn, hay đảo Phú Quốc...”.

Không những vậy, ông Cương còn chỉ ra sự ngang ngược của đoạn phim trên: “Luật Biển quốc tế cũng quy định rõ các tàu thuyền nước ngoài được quyền “qua lại không gây hại” trong lãnh hải, và thường lưu thông theo tuyến phân luồng giao thông hàng hải do nước ven biển quy định. Do đó, nếu như tàu hải quân Trung Quốc mà xua đuổi “tàu lạ” tiến vào lãnh hải Trung Quốc thì sẽ vi phạm luật Biển quốc tế nếu như những tàu này chỉ là tàu qua lại bình thường không gây hại”.

Đây cũng là điều mà chính nhật báo của quân đội Trung Quốc cũng đã thừa nhận phim Điệp vụ Biển Đỏ ngang ngược với chi tiết trên. Tờ báo này ngày 27.2 có bài cho rằng chiến hạm Trung Quốc chẳng có quyền gì xua đuổi tàu chiến nước khác đi lại bình thường không gây hại.

Trung Quốc thách thức, truyền thông quốc tế lo ngại

Trong khi Cục Điện ảnh cố ngụy biện cho việc không hoàn thành trách nhiệm, thì Bộ Quốc phòng Trung Quốc lại nói rõ ý đồ của đoạn phim trên. Ngày 28.2, chuyên mục Giáo dục trên website chính thức của Bộ Quốc phòng Trung Quốc có một bài viết với tựa: “Bạn cần phải hiểu rõ ẩn ý sâu sắc trong phim Hành động Biển Đỏ” (tên gốc của phim Điệp vụ Biển Đỏ - NV).

Bài viết có đoạn giải thích “ẩn ý” như sau: “Ở cuối phim còn xuất hiện tàu nước ngoài chưa được sự cho phép của chính phủ Trung Quốc đã xâm phạm khu vực đảo san hô thuộc quần đảo Nam Sa Trung Quốc, đã bị tàu tuần tiễu hải quân Trung Quốc lập tức mời đi khỏi”.

Suốt nhiều năm qua, Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền “đường lưỡi bò” bao trùm gần hết Biển Đông. Trong đó, Bắc Kinh đặt ra cái gọi là quần đảo Nam Sa đối với khu vực quần đảo Trường Sa của VN. Năm 2016, Tòa trọng tài thường trực quốc tế (PCA) đã phán quyết bác bỏ tuyên bố chủ quyền “đường lười bò”. Như vậy, khi gọi bối cảnh cuối phim là “lãnh hải Trung Quốc trong khu vực Biển Đông”, Cục Điện ảnh không chỉ sai mà phải chăng đang tiếp tay cho tuyên bố chủ quyền “đường lưỡi bò”!?

Thực tế, cả trước và sau khi Điệp vụ Biển Đỏ ra mắt, báo chí Trung Quốc không ngừng ca ngợi bộ phim như một thành quả về tuyên truyền để khẳng định sức mạnh của Trung Quốc giữa những vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển, trong đó có Biển Đông. Ngày 24.1, Hoàn Cầu thời báo có bài minh họa cho sức mạnh tuyên truyền bằng dẫn chứng phần cuối bộ phim, hải quân Trung Quốc đã “đuổi” tàu chiến nước ngoài ra khỏi Biển Đông.

Trước sự hung hăng trong thông điệp của bộ phim, sau khi được chiếu ở Hồng Kông, tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng ngày 1.3 nhận xét phim đã có những chi tiết “thể hiện chủ nghĩa sô vanh” một cách không cần thiết, trong đó có đoạn xua đuổi tàu nước ngoài trên Biển Đông.

Viện Nghiên cứu hải quân Mỹ ngày 1.3 cũng có bài phân tích về phim là một cuộc khoe khoang sức mạnh của Trung Quốc khi tung ra hình cảnh các loại tàu đổ bộ lớp 071, tàu hộ vệ lớp 054A… vốn là những chiến hạm mà Bắc Kinh rất tự hào. Gần đây, số chiến hạm này thường xuyên xuất hiện trong các cuộc tập trận trên Biển Đông. Cụ thể hơn, tàu đổ bộ Côn Lôn Sơn 998 và tàu hậu cần hải quân lớp 904 xuất hiện trong trailer phim tại VN, do Công ty CGV phát hành, chính là các tàu vừa mới tập trận trên Biển Đông vào cuối năm 2017 và đầu năm 2018, kèm theo những thông điệp hiếu chiến.

Viện Nghiên cứu hải quân Mỹ còn chỉ ra trong đoạn cuối phim thì các tàu bị xua đuổi có hình ảnh tàu khu trục thuộc lớp Arleigh Burke. Gần đây, Mỹ thường triển khai các tàu khu trục thuộc lớp Arleigh Burke thực hiện các chuyến tự do hàng hải áp sát một số thực thể mà Bắc Kinh chiếm đóng phi pháp trên Biển Đông. Chính vì thế, đoạn cuối của Điệp vụ Biển Đỏ được xem là lời đe dọa.

***

Nếu chỉ nhìn mấy chi tiết trong phim thì có thể những người không có kiến thức về vấn đề Biển Đông thấy là bình thường. Vì trong phim chỉ nói chung chung, không nói trên khu vực nào trên Biển Đông. Chúng ta lưu ý là Biển Đông không hoàn toàn thuộc chủ quyền của một quốc gia nào, mà có nhiều quốc gia cùng nằm cạnh Biển Đông.

Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh các yêu sách của Trung Quốc đối với Biển Đông thì lại khác. Duy nhất chỉ có Trung Quốc đơn phương yêu sách gần 80% Biển Đông là thuộc chủ quyền của họ, và đương nhiên, họ không dựa trên yếu tố pháp lý nào.

Bị quốc tế phản đối, họ đã luôn tìm cách khẳng định bằng cách tuyên truyền bằng nhiều biện pháp để giúp cho yêu sách của họ có lợi thế. Trước đây họ sử dụng “đường lưỡi bò”. Vì thế, nếu hiểu về vấn đề Biển Đông và hiểu về yêu sách sai trái của Trung Quốc trên Biển Đông thì chúng ta sẽ hiểu ngay thông điệp trong phim này muốn nói gì.

Trung Quốc sử dụng một cuộc chiến phi quân sự để giành những lợi thế trên Biển Đông, mà các nhà nghiên cứu gọi là ba cuộc chiến bao gồm cuộc chiến truyền thông, tâm lý và pháp lý. Chính vì vậy, các hành động của họ nếu tách rời thì tưởng chừng vô hại nhưng nó nằm trong một chiến lược chung rất rõ ràng.

Nếu xâu chuỗi nhiều sự kiện này với các chi tiết trong phim Điệp vụ Biển Đỏ, đặc biệt là tin tức về bộ phim trên website của Bộ Quốc phòng Trung Quốc, rõ ràng là phim này nằm trong chiến lược tuyên truyền cho yêu sách chủ quyền vô lý và đi ngược luật pháp quốc tế của họ.

Ông Hoàng Việt (thuộc Ban Nghiên cứu luật Biển và hải đảo của Liên đoàn Luật sư VN)
Nguồn Báo Thanh Niên

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018

Vật lí Lượng tử Tốc hành (Phần 4)

Nhiệt động lực học và entropy
Ngoài việc khám phá lực điện từ, nghiên cứu năng lượng ở dạng nhiệt còn đưa đến một cuộc cách mạng khoa học khác ở thế kỉ 19. Cái sau này gọi là các định luật của nhiệt động lực học trình làng một số khái niệm sẽ tỏ ra thiết yếu đối với thuyết lượng tử.
Định luật thứ nhất của nhiệt động lực học giải thích năng lượng được bảo toàn như thế nào khi thêm nhiệt vào một hệ kín: năng lượng toàn phần của hệ bằng nhiệt cung cấp, trừ đi bất kì công nào đã thực hiện (những biến đổi vật lí đối với môi trường xung quanh).
Trong khi đó, định luật thứ hai về cơ bản mô tả nhiệt sẽ luôn chảy như thế nào từ hệ nóng hơn sang hệ lạnh hơn. Thật vậy, định luật này mô tả entropy, một số đo lượng mất trật tự trong hệ. Rồi định luật thứ ba giải thích entropy tiến tới zero như thế nào khi nhiệt độ trong một hệ ở sát không độ tuyệt đối. Những quan niệm về bảo toàn năng lượng và entropy này sẽ được trình bày kĩ hơn ở phần sau.
Nhiệt động lực học và entropy
Định luật thứ hai của nhiệt động lực học phát biểu rằng các hệ luôn có xu hướng trở nên kém tổ chức hơn theo thời gian, trừ khi có năng lượng ở bên ngoài can thiệp vào. Chẳng hạn, một vết nhỏ nước nóng sẽ có xu hướng tự nhiên lan tỏa ra môi trường xung quanh lạnh hơn, trừ khi nó được đựng trong bình chứa.
Vật đen
Vào giữa thế kỉ 19, việc nghiên cứu những cách để các vật phát ra sóng điện từ đã dẫn tới khái niệm lí tưởng về vật đen bức xạ. Đây là một vật vừa hấp thụ hoàn hảo vừa phát xạ hoàn hảo. Nhà vật lí Đức Max Planck tìm thấy rằng bề mặt của một vật đen càng nóng, thì năng lượng ánh sáng phát ra càng cao. Vì thế, những vật ở nhiệt độ phòng chủ yếu phát sáng hồng ngoại, còn những vật nóng đến hàng nghìn độ phát xạ chủ yếu là những bước sóng nhìn thấy, và những vật nóng nhất thì phát ra ánh sáng tử ngoại hoặc thậm chí những bước sóng ngắn hơn, ví dụ như tia X.
Một ngôi sao thường được xem là thứ gần nhất trong tự nhiên với một vật đen hoàn hảo. Các ngôi sao biểu hiện mối liên hệ nhiệt độ-năng lượng đang tác dụng: những ngôi sao nguội hơn phát ra ánh sáng đỏ hơn và những bước sóng hồng ngoại, còn những ngôi sao nóng hơn có xu hướng ngả về màu xanh và bước sóng tử ngoại. Những nỗ lực nghiên cứu cái xảy ra với các vật đen ở những nhiệt độ cao nhất là mấu chốt cho sự ra đời của thuyết lượng tử.
Vật đen
Vật lí Lượng tử Tốc hành | Gemma Lavender

COC, CÁ RỒNG ĐỎ và NGƯỜI NƯỚC HUỆ




1. Tháng 9/2017, tướng Daniel Schaeffer - quan chức Bộ Quốc phòng nước Pháp đã hồi hưu, chuyên gia hàng đầu về tranh chấp trên Biển Đông, gửi cho tôi bài viết của ông "The Code of Conduct of the Parties in the South China Sea: A Tremendous Mistake" (Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông: Một sai lầm to lớn), đã đăng trên website của Tổ chức tư vấn Asie21 ở Pháp). Bài viết cảnh báo các nước ASEAN về mưu đồ của Trung Quốc trong quá trình đàm phán COC và những nguy hiểm mà các nước ASEAN có thể đối mặt một khi COC được thông qua và ký kết, mà không loại bỏ được ‘đường lưỡi bò’ phi pháp do Trung Quốc tự ý vạch ra, ôm trọn hầu hết Biển Đông.


Tôi xin phép tướng Daniel Schaeffer dịch bài này sang tiếng Việt, gửi in ở tạp chí PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐÀ NẴNG (số 94. Tháng 10/2017) và ở tạp chí VĂN HÓA QUẢNG NAM (số 114. Tháng 10/2017).

Vì 2 tờ tạp chí này có lượng độc giả hạn chế nên tôi đã tóm lược bài viết của tướng Daniel Schaeffer thành một bài báo “Cảnh báo của một học giả Pháp về Quy tắc ứng xử ở Biển Đông trong tương lai”, ngắn gọn và "mềm" hơn, gửi đến một tờ báo lớn mà tôi thường cộng tác để cậy đăng, nhằm lan truyền rộng rãi hơn sự cảnh báo này của tướng Daniel Schaffer.
Đại diện tờ báo này lúc đầu nói sẽ đăng, nhưng sau đó thì gọi điện cho tôi nói là đợi Trung Quốc đại hội đảng (cộng sản) xong thì mới đăng được. Tôi đợi 3 tuần thấy họ không đăng thì rút bài, gửi cho một tờ báo lớn khác. 

Người liên lạc của tờ báo thứ hai trả lời là sẽ đăng nhưng chỉ đăng 1 phần bài viết và đề nghị bỏ một đoạn quan trọng. Tôi không đồng ý nên gửi cho tờ báo thứ 3.

Biên tập viên của tờ báo thứ 3 viết mail trả lời tôi: “Thời điểm này không đăng và đây là vấn đề quốc tế, nhạy cảm với vấn đề Trung Quốc, chỉ viết về cảnh báo của một vị tướng Pháp, trong khi chưa có chỉ đạo TW và báo mình chưa nắm được thông tin thực chất của các cuộc đàm phán COC nên không dùng là tốt nhất”.

Có nhiều lý do để 3 tờ báo nói trên không đăng bài viết trên của tôi, nhưng nguyên nhân chính, theo BTV của tờ thứ 2 là vì đoạn này:

“Nếu không vô hiệu hóa được ‘đường 9/10 đoạn’ phi pháp, mà đã vội vàng thông qua một COC có tính ràng buộc pháp lý, thì Trung Quốc sẽ dùng “công cụ pháp lý” này để chống lại các nước ASEAN một khi các nước này tiến hành những hoạt động hợp pháp trong vùng biển thuộc chủ quyền (hoặc quyền chủ quyền) của họ, nhưng lại ở bên trong ‘đường 9/10 đoạn’ do Trung Quốc vạch ra. Đây là dẫn chứng để chứng minh cho điều này:

- “Trung Quốc đã đe dọa chiến tranh với Philippines nếu nước này tiếp tục thăm dò và khai thác dầu ở Bãi Cỏ Rong (Reed Bank), một bãi ngầm tọa lạc ở phía bắc quần đảo Trường Sa và phía tây đảo Palawan của Philippines. Hành động này của Trung Quốc là hoàn toàn sai trái bởi vì thực thể chìm dưới nước này đã được Tòa Trọng tài thường trực công nhận là nằm hoàn toàn bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, do đó nó thuộc quyền chủ quyền, không phải là chủ quyền, của nước này. Hơn nữa, Trung Quốc không được quyền yêu sách chủ quyền đối với thực thể này bởi vì Tòa Trọng tài thường trực đã viện dẫn Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển (UNCLOS) rằng: không ai có thể yêu sách chủ quyền đối với một bãi ngầm, trừ khi nó nằm ở lãnh hải của nước đó”. Rõ ràng Bãi Cỏ Rong không nằm trong lãnh hải của Trung Quốc nhưng Trung Quốc lại đe dọa chiến tranh với Philippines nếu Philippines không chấm dứt thăm dò dầu khí ở đây.

- “Mới đây Trung Quốc đã ép buộc Việt Nam và Công ty Repsol của Tây Ban Nha ngừng thăm dò dầu khí ở lô 136-03, nơi xa nhất về phía đông nam của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, thuộc khu vực Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) ở phía tây nam quần đảo Trường Sa”, vì khu vực này nằm bên trong ‘đường 9/10 đoạn’. 

Theo tướng Schaeffer, hai dẫn chứng nêu trên cho thấy rất rõ rằng khi một COC có tính ràng buộc pháp lý được thông qua mà ‘đường 9/10 đoạn’ không biến mất, thì “các quốc gia Đông Nam Á ở ven Biển Đông sẽ phải tiếp tục chịu đựng những cáo buộc của Trung Quốc bởi những hoạt động (hợp pháp) của họ, mà Trung Quốc cho là sai trái”. Và như vậy, Trung Quốc sẽ dùng những quy tắc mà các nước ASEAN đặt ra để chống lại họ, thay vì những quy tắc này sẽ bảo vệ họ như họ mong đợi. 

Trong đó câu “Mới đây Trung Quốc đã ép buộc Việt Nam và Công ty Repsol của Tây Ban Nha ngừng thăm dò dầu khí ở lô 136-03, nơi xa nhất về phía đông nam của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, thuộc khu vực Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) ở phía tây nam quần đảo Trường Sa”, bị coi là nguy hiểm nhất vì đã tiết lộ việc Việt Nam bị Trung Quốc ép phải ngưng thăm dò dầu khí ở lô 136-03. Và vì câu này mà các tờ báo tôi đã gửi bài, đều từ chối đăng bài của tôi.


2. Mấy ngày qua, báo chí nước ngoài (BBC, Reuters, RFI, RFA…) đồng loạt đưa tin Trung Quốc ép Việt Nam ngưng thăm dò dầu khí ở mỏ Cá Rồng Đỏ. Theo các nguồn tin này thì “… tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam PetroVietnam đã yêu cầu tập đoàn dầu khí Tây Ban Nha Repsol đình chỉ dự án khai thác mỏ Cá Rồng Đỏ ngoài khơi Vũng Tàu, sau khi bị Trung Quốc gây sức ép… Với quyết định tạm dừng của Việt Nam, tập đoàn Tây Ban Nha Repsol cùng với các đối tác được giao quyền khai thác mỏ Cá Rồng Đỏ (tên tiếng Anh là Red Emperor) có khả năng bị mất đến 200 triệu đô la đầu tư. Giới lãnh đạo Repsol và PetroVietnam cũng như bộ Ngoại Giao Việt Nam chưa phản ứng trước yêu cầu bình luận của Reuters” (Trọng Nghĩa - RFI).


Mỏ Cá Rồng Đỏ, là một phần của lô (Block) 07/03 tại khu vực Bể Nam Côn Sơn, cách thành phố biển Vũng Tàu, phía đông nam của Việt Nam khoảng 440 km (273 dặm), hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Vào cuối năm 2017, báo chí Việt Nam đã liên tiếp trích dẫn các giới chức lãnh đạo dầu khí Việt Nam ca ngợi tiềm năng của mỏ khí Cá Rồng Đỏ, có thể sản xuất 25.000-30.000 thùng dầu và 60 triệu mét khối khí mỗi ngày.

Tuy nhiên Trung Quốc cho rằng mỏ này nằm gần “đường lưỡi bò" mà Trung Quốc tự động vạch ra (chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông, dù đã bị Tòa Trọng tài thường trực (PCA) vô hiệu hóa trong phán quyết về vụ Philippines kiện Trung Quốc theo Phụ lục 7 của UNCLOS và ngày 12/7/2016), nhưng Trung Quốc vẫn bất chấp phán quyết) và cho rằng mỏ Cá Rồng Đỏ đã ăn vào vùng mỏ thuộc quyền của Trung Quốc.

Diễn biến mới nhất này cho thấy cảnh báo của tướng Daniel Schaeffer là hoàn toàn chính xác. Và Trung Quốc tiếp tục dùng “đường lưỡi bò” làm “cơ sở pháp lý” của họ để đe dọa và uy hiếp các nước ven Biển Đông, trong đó có Việt Nam, buộc Việt Nam phải rút lui hai dự án dầu khí quan trọng của mình.

Thực tế này khiến tôi nhớ đến câu nói nổi tiếng của ông Hồ Chí Minh trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vào đêm 19/12/1946: 

“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa! 

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào,
Chúng ta phải đứng lên!”

Tuy nhiên, vào thời điểm này tôi không thấy ai ra lời kêu gọi “Hỡi đồng bào. Chúng ta phải đứng lên” như ông Hồ Chí Minh đã làm cách đây 72 năm cả.


3. Ngày 5/2/2018 UBKT thành ủy Đà Nẵng ban hành quyết định kỷ luật tôi – Trần Đức Anh Sơn – vì một số bài viết của tôi đăng trên FB, thì ngày 9/2/2018, báo mạng http://mp.weixin.qq.com của Trung Quốc đăng bài 越南海专家被高调处分 凸显中越联手管控南海局势 (tạm dịch: Chuyên gia biển Việt Nam bị phạt nặng để làm gương cho sự hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam về tình hình Biển Đông).


Nội dung bài báo này tường thuật việc tôi bị kỷ luật khá chi tiết, và cho rằng: Trần Đức Anh Sơn là một trong những người nghiên cứu về Biển Đông, hay chỉ trích Trung Quốc…, xuất hiện ở nhiều diễn đàn quốc tế về vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, hòa giọng cùng với các chuyên gia phương Tây như Daniel Schaeffer (đăng kèm ảnh tôi với tướng Daniel Schaeffer) chỉ trích Trung Quốc về vấn đề chủ quyền trên biển Nam Hải (Biển Đông), về COC sắp ký giữa ASEAN với Trung Quốc...”. 

Bài báo này cũng trích dẫn quan điểm của tướng Daniel Schaeffer trong bài “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông: Một sai lầm to lớn”, mà tôi đã dịch và cho in trên 2 tạp chí nói trên, rồi cho rằng tôi đã đi ngược lại quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tinh thần hợp tác hữu nghị với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, đã được tướng Nguyễn Chí Vịnh nhiều lần nhắc đến trong các cuộc gặp cao cấp giữa quân đội 2 nước (đăng kèm ảnh tướng Vịnh bắt tay với tướng Tàu Chang Changwan). 

Từ đó, bài báo này kết luận: “Nhìn lại vấn đề Trần Đức Anh Sơn bị kỷ luật, không khó để hiểu được rằng Trần Đức Anh Sơn đại diện cho một lực lượng học giả của Việt Nam quan tâm đối với Biển Đông… Việc kỷ luật này là một cảnh báo (cho những ai) có quan điểm tiêu cực với Trung Quốc”.

Ba chuyện trên đây, thoạt nhìn thì tưởng là không ăn nhập gì với nhau. Nhưng thực tình thì không hẳn vậy.

NGƯỜI NƯỚC HUỆ (@ Đà thành, Quảng Nam quốc)




Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2018

Sai lầm tệ hại nhất trong khoa học

Phạm Việt Hưng


1
Abstract: Buddha said: “Three things cannot be long hidden: The Sun, the Moon, and the Truth”. The truth of Evolutionism has been hidden for a long time, but now it cannot be hidden longer. In 1987, Soren Lovtrup, a famous Swedish biologist, predicted: “one day the Darwinian myth will be ranked the greatest deceit in the history of science”. Yes, Darwinism was really the worst mistake in science!
Tóm tắt: Đức Phật nói: “Ba thứ không thể che đậy được mãi: Mặt trời, Mặt trăng, và Sự thật”. Sự thật của thuyết tiến hóa đã bị che đậy bấy lâu nay, nhưng giờ không thể che đậy được nữa. Năm 1987, nhà sinh học Thụy Điển nổi tiếng Soren Lovtrup tiên đoán: “một ngày nào đó câu chuyện hoang đường của học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như sự lừa gạt lớn nhất trong lịch sử khoa học”. Vâng, học thuyết Darwin quả thật là sai lầm tệ hại nhất của khoa học!
CHÚ Ý: Toàn bộ các bài viết về SINH HÓA (bao gồm Thuyết Tiến hóa) trên trang PVHg’s Home (viethungpham.com) đã được sắp xếp đày đủ theo thứ tự thời gian tại địa chỉ sau đây:
Nếu ai đó cảm thấy bị “sốc” khi đọc ý kiến của Soren Lovtrup ở trên, xin mở cuốn sách của ông: “Darwinism: The Refutation of a Myth” (Bác bỏ chuyện hoang đường của học thuyết Darwin), do Croom Helm xuất bản tại New York năm 1987. Đó là một trong những cuốn sách phê phán học thuyết Darwin mạnh mẽ nhất, làm cho các nhà tiến hóa lo lắng, tức tối, tìm mọi cách để chống đỡ.
2Chẳng hạn, họ cho đăng bài báo “Was Darwin wrong?” (Phải chăng học thuyết Darwin sai?) trên tạp chí National Geographic, trong đó trả lời: KHÔNG (học thuyết Darwin không sai), bằng chứng của tiến hóa tràn ngập khắp nơi! Nhưng ngay lập tức, nhà động vật học nổi tiếng Thụy sĩ Ariel Roth lên tiếng phản bác:
“…phần lớn chứng cứ khoa học được trình bầy trong bài báo ủng hộ thuyết tiến hóa này lại nghèo nàn đến mức đáng ngạc nhiên. Hầu hết đều nói về những biến đổi rất nhỏ trong sinh vật, làm ra vẻ như chúng tiến hóa từ loài này sang loài khác. Đây cũng là những gì Darwin từng nói. Bài báo đã tảng lờ vấn đề hóc búa nhất của tiến hóa là làm thế nào để toàn bộ cuộc sống bắt nguồn từ chính nó như thuyết tiến hóa đề xuất?” (trích “Where did life come from”, Ariel Roth).
Uy tín của tạp chí National Geographic không đủ để bênh vực bài báo “Was Darwin Wrong?”, vì nó không đưa ra được chứng cứ đủ mạnh, và cố tình tảng lờ bài toán khó nhất là sự sống bắt đầu từ cái gì, như thế nào, và tảng lờ vấn đề cốt lõi của tiến hóa là làm thế nào để sinh vật tiến hóa từ loài này thành loài khác.
Thực ra, không cần phải tranh luận dài dòng, chỉ cần chất vấn các nhà tiến hóa bằng một câu hỏi duy nhất: “Làm thế nào để loài khỉ (hoặc vượn, tinh tinh) với 54, hoặc 48, hoặc 42 nhiễm sắc thể có thể biến thành loài người với 46 nhiễm sắc thể?” [1].
The Worst Mistake (3)Theo sinh học phân tử, số nhiễm sắc thể của mỗi loài là cố định, và là một trong những đặc trưng của loài. Vì thế, khỉ hoặc vượn hoặc tinh tinh không thể và không bao giờ có thể biến thành người. Vì Darwin không biết gì về DNA và nhiễm sắc thể nên ông mới tưởng tượng ra chuyện lố bịch là khỉ (hoặc vượn, tinh tinh) tiến hóa thành người.
Theo Francis Collins, tác giả cuốn “The Language of God” (Ngôn ngữ của Chúa), mã di truyền được cài đặt trong DNA là ngôn ngữ của Chúa. Giới tiến hóa và những kẻ vô thần không có cách nào chống lại quan điểm này, vì họ không thể không thừa nhận DNA là một chương trình, nhưng không làm thế nào mà giải thích được vì sao có chương trình đó. Nói cách khác, giới tiên hóa đã vi phạm một định luật của khoa học thông tin, rằng “Bất kỳ một chuỗi thông tin nào cũng có thể tìm được dấu vết đi ngược trở về một nguồn trí tuệ thông minh” (Any given chain of information can be traced backward to an intelligent source).
ngon-ngu-cua-chua-tai-ban-nam-2014DNA là một chuỗi thông tin, ắt phải có nguồn trí tuệ thông minh của nó. Đối với Collins, đó là Chúa. Đối với những người theo thuyết thiết kế thông minh (intelligent design theory), đó là Nhà thiết kế vĩ đại. Nhưng các nhà tiến hóa không công nhận Chúa, không thừa nhận có nhà thiết kế vĩ đại, mà “đổ thừa” cho tự nhiên. Nhưng “tự nhiên” là cái gì? Nếu “tự nhiên” chỉ là thế giới vật chất thông thường thì tự nó làm sao tạo ra chương trình được (chú ý rằng một chương trình bản thân nó không phải là vật chất, mà là một quy tắc tương tác của vật chất)? Làm thế nào để các nguyên tử kết hợp lại với nhau một cách NGẪU NHIÊN hoặc may rủi mà có thể tạo ra những tổ chức phức tạp, có cơ chế chặt chẽ, hoạt động theo những quy tắc xác định, thông minh, thậm chí có ý thức như loài người? Đó là chuyện không tưởng mà thuyết tiến hóa tuyên bố là CÓ THỂ. Điều này có thể ví như một cái cốc chứa 1000 bộ chữ cái trong tiếng Việt, rồi đổ tất cả các chữ cái đó ra mặt bàn giống như gieo súc sắc hay tung đồng xu, tính xác suất để các chữ cái sắp xếp ngẫu nhiên thành một áng văn hay, chẳng hạn như truyện Kiều. Toán học thừa sức tính xác suất đó, nhưng chẳng cần phải giỏi toán, chỉ cần có trực giác tốt cũng cảm nhận được rằng đó là chuyện KHÔNG THỂ, xác suất ấy coi như bằng 0. Cái gọi là DNA xuất hiện ngẫu nhiên từ sự kết hợp may rủi của các nguyên tố là chuyện không tưởng bịa đặt ngớ ngẩn nhất mà ta có thể thấy trong khoa học.
Francis CollinsNgược lại, những người tán thành quan điểm của Collins sẽ thấy mọi chuyện trở nên dễ hiểu. Thật vậy, mặc dù ngôn ngữ mà Chúa sử dụng để chương trình hóa hoạt động của mọi sinh vật đều là DNA, nhưng mỗi loài đã được cài đặt một chương trình riêng. Không có chương trình của loài nào tự biến đổi thành chương trình của loài khác. Một chương trình computer có thể hỏng, lỗi, chứ không bao giờ tự nó biến đổi thành một chương trình khác. Nếu một chương trình được thay đổi, ắt phải có sự can thiệp của người viết chương trình. Nếu Chúa muốn sáng tạo ra loài người, Ngài không cần phải làm cái việc mất thì giờ là sửa chữa chương trình của khỉ dần dần từng tí từng tí một qua hàng trăm triệu năm như Darwin nói. Mọi computer đều dùng ngôn ngữ cơ bản là hệ nhị phân, chỉ có 2 chữ cái là 0 và 1, nhưng loài người đã tạo ra không biết bao nhiêu chương trình kỳ diệu. Apple không dùng hệ điều hành của Microsoft mà vẫn tạo nên những chương trình riêng biệt tuyệt vời. Sự đa dạng và phong phú của các phần mềm trong công nghệ thông tin hiện nay không phải do các phần mềm tự tiến hóa, mà do sự sáng tạo của con người. Sự đa dạng và phong phú của thế giới sinh vật cũng không phải do tiến hóa mà có, mà do sự sáng tạo của Nhà thiết kế vĩ đại. Nhà thiết kế ấy không chỉ sáng tạo ra vật chất, mà còn sáng tạo ra các quy tắc tương tác của vật chất, buộc vật chất hoạt động theo những quy tắc đó. Sự di truyền thực ra là những hoạt động vật chất tuân thủ những lệnh đã được cài đặt trong DNA. Tự nhiên không thể tự nó viết ra những lệnh đó, mà nhận được từ Bà Mẹ Tự nhiên (The Mother Nature), tức nhà thiết kế vĩ đại.
Thực ra không cần tới những hiểu biết hiện đại của sinh học phân tử, chỉ cần kiến thức của khoa học thế kỷ 19 cũng đủ để bác bỏ Darwin. Thật vậy, trong khi giới vô thần trong thế kỷ 19 tôn sùng học thuyết Darwin vì nó phù hợp với những tham vọng làm chủ thế giới của họ, Louis Pasteur và Gregor Mendel là những nhà tư tưởng vĩ đại của thế kỷ 19 đã gián tiếp hoặc trực tiếp bác bỏ Darwin.
Trái ngược 100% với phương pháp nghiên cứu vô bằng của Darwin, mọi thành tựu khoa học của Pasteur và Mendel đều dựa trên những thí nghiệm chính xác không thể chối cãi.
Kết luận quan trọng nhất rút ra từ các định luật di truyền của Mendel là ở chỗ các đặc điểm của sinh vật được BẢO TOÀN trong quá trình di truyền; đặc điểm di truyền của con cái được quyết định hoàn toàn bởi các đặc điểm của cha mẹ – con cái không bỗng nhiên có những đặc điểm di truyền mới lạ mà cha và mẹ không có.
Mendel (11)Không may cho Darwin, ông không biết gì về Mendel, nhưng lại tiếp thu tư tưởng di truyền sai lầm của Jean Baptiste Lamarck về cái gọi là “những đặc điểm mới giành được” (acquire straits) – những đặc điểm không phải do bẩm sinh, mà hình thành sau khi sinh vật ra đời, trong quá trình tương tác với môi trường sống. Theo Lamarck, những đặc điểm mới giành được này có thể di truyền lại cho các thế hệ nối tiếp. Điều này hoàn toàn trái với các định luật của Mendel, như vừa nói ở trên. Chẳng hạn, theo cách suy nghĩ của Lamarck và Darwin, để ăn những thứ hoa quả trên cao, con vật cần phải có cái cổ vươn cao. Nó cứ vươn cổ lên cao mãi mãi. Điều đó dẫn tới một “biến dị có lợi” (một loại đặc điểm mới giành được) là cổ cao lên một tí (?). Một cơ chế thần kỳ không biết từ đâu ra được gọi là “chọn lọc tự nhiên” sẽ khôn ngoan “nói nhỏ” với sinh vật rằng hãy chọn những biến dị có lợi này để di truyền lại cho đời sau. Qua hàng triệu năm, những cái vi phân “cổ cao lên một tí” sẽ tích phân lại để con vật biến thành một loài cổ cao, đó là hươu cao cổ (!).
worst (1)Đây chính là một trong những câu chuyện thần tiên điển hình do Charles Darwin kể. Chuyện thần tiên này đánh lừa được trước hết chính bản thân Darwin – vì ông không biết gì về Mendel và do đó không biết rằng những “đặc điểm mới giành được” không thể di truyền. Sinh học phân tử hiện đại giúp Mendel giải thích rõ hơn vì sao những “đặc điểm mới giành được” không được di truyền – đơn giản vì chúng không hề làm THAY ĐỔI DNA.
Vì thế sẽ không có gì cường điệu khi nói rằng chừng nào còn coi thuyết tiến hóa là một khoa học thì chừng ấy vẫn chưa thấu hiểu các định luật di truyền do Mendel khám phá. Ngược lại, nếu đã thực sự thấu hiểu các định luật do Mendel khám phá thì ắt phải bác bỏ học thuyết Darwin, không thể coi đó là một lý thuyết khoa học, mà chỉ là một giả thuyết thuần túy.
Hoàn toàn tương tự về Pasteur: chừng nào còn coi thuyết tiến hóa là một khoa học thì chừng ấy vẫn chưa thấu hiểu 2 định luật về sự sống do Pasteur khám phá. Ngược lại, nếu đã thực sự thấu hiểu 2 định luật về sự sống do Pasteur khám phá thì ắt phải bác bỏ học thuyết Darwin, không thể coi đó là một lý thuyết khoa học, mà chỉ là một chuyện kể hư cấu.
PĐịnh luật thứ nhất về sự sống do Pasteur khám phá khẳng định rằng sự sống là bất đối xứng – sự sống chỉ thuận tay trái (để hiểu rõ vấn đề này, xin đọc các bài “Pasteur và Chúa” và “Tại sao sự sống thuận tay trái?” trên PVHg’s Home). Định luật này giáng một đòn chết người vào thuyết tiến hóa, vì thuyết này nói rằng sự sống đầu tiên hình thành do sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử. Nhưng làm thế nào mà sự kết hợp ngẫu nhiên ấy lại tạo ra một phân tử hữu cơ chỉ thuận tay trái, trong khi xác suất để một phân tử hữu cơ thuận tay trái hoặc tay phải là 50-50? Theo lý thuyết xác suất, xác suất để tung một đồng xu xấp hay ngửa là như nhau. Hoàn toàn tương tự, sự hình thành một phân tử hữu cơ thuận tay trái hoặc tay phải là như nhau. Nhưng cớ sao sự sống chỉ thuận tay trái? Đã 167 năm trôi qua, kể từ ngày Pasteur nêu lên định luật này như một thách thức đối với khoa học nói chung và thuyết tiến hóa nói riêng, đến nay vẫn không có câu trả lời. Những phòng thí nghiệm tối tân nhất trên khắp thế giới đã lao vào tổng hợp acid amin, một thành phần cơ bản của sự sống, hòng chứng minh sự sống có thể ra đời từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử, phân tử, làm bằng chứng cho thuyết tiến hóa. Nhưng, sau rất nhiều nỗ lực, họ KINH NGẠC nhận ra rằng khoa học chỉ tạo ra được những phân tử acid amin KHÔNG SỐNG, tức là phân tử hữu cơ thuận cả 2 tay – KHÔNG CÓ CÁCH NÀO tạo ra phân tử hữu cơ thuận tay trái và chỉ thuận tay trái, để cuối cùng phải cay đắng thừa nhận rằng PASTEUR ĐÚNG, rằng đặc trưng của sự sống là thuận tay trái và chỉ thuận tay trái, và rằng con người không thể tạo ra sự sống thuận tay trái từ các chất vô cơ. Sự bế tắc trong việc giải thích tại sao sự sống thuận tay trái và sự bất lực trong việc tổng hợp sự sống thuận tay trái từ các chất vô cơ đã đẩy các nhà tiến hóa tới chỗ “đổ thừa” cho vũ trụ. Họ reo mừng khi tìm thấy những thiên thạch rơi vào trái đất chứa phân tử acid amin thuận tay trái, thế là họ lớn tiếng nói rằng sự sống trên trái đất bắt nguồn từ vũ trụ. Nhưng tại sao vũ trụ lại tạo ra sự sống thuận tay trái? Họ vẫn bế tắc, không trả lời được. Có nghĩa là lý thuyết cho rằng sự sống đầu tiên hình thành từ sự kết hợp “ngẫu nhiên” của các nguyên tử vẫn chỉ là chuyện nói láo.
all-about-cells-24-638Định luật thứ hai do Pasteur khám phá nói rằng sự sống chỉ ra đời từ sự sống. Nói cách khác, sự sống không thể sinh ra từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các vật chất không sống. Đây là sự bác bỏ trực tiếp đối với thuyết tiến hóa. Định luật này là kết quả của một thí nghiệm nổi tiếng có tên là “thí nghiệm bình cổ cong” hoặc “thí nghiệm bình cổ thiên nga” (Swan neck experiment) (để hiểu rõ vấn đề này, xin đọc các bài “Pasteur và Chúa” và “Pasteur và nhân loại trên PVHg’s Home). Thí nghiệm ấy đập tan ảo tưởng của cái gọi là “spontaneous generation” (sự hình thành sự sống một cách tự phát). Thuyết sự sống tự phát nói rằng sự sống hình thành một cách tự phát từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử, phân tử vô cơ. Thí dụ, từ một xác động vật thối rữa bỗng nhiên nẩy sinh ra dòi bọ. Dòi bọ là những sinh vật sinh ra một cách tự phát từ không khí. Đó là một niềm tin cổ xưa, ít nhất từ nền văn hóa cổ Hy Lạp. Thuyết tiến hóa đã tiếp thu niềm tin đó để giải thích sự ra đời của sự sống đầu tiên. Nhưng những ai đã thấm nhuần định luật sự sống chỉ đẻ ra từ sự sống do Pasteur nêu lên thì sẽ thấy ngay rằng thuyết tiến hóa đơn giản chỉ là một sự ngoan cố trước sự thật không thể chối cãi. Nếu không chứng minh được sự sống ra đời từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử thì buộc phải thừa nhận có sự can thiệp từ bên ngoài. Pasteur tuyên bố gần như thách thức: “Đừng đưa ra bất cứ cái gì mà bạn không thể chứng minh bằng thực nghiệm”. Tuyên bố này ám chỉ rõ ràng đến thuyết tiến hóa, cụ thể là những công trình của Darwin, vì lý thuyết này hoàn toàn không có bằng chứng, chỉ toàn những giả thuyết phỏng đoán, không hề có bất kỳ một chứng minh thực tế nào cả. Nếu Darwin đúng, hãy đưa ra bằng chứng. Nếu không, chỉ là nói láo. Bằng chứng mạnh nhất của Darwin nếu có, chắc chắn chỉ có thể là xương hóa thạch của những loài chuyển tiếp trong quá trình tiến hóa đã tuyệt chủng. Nhưng không có bằng chứng hóa thạch nào cả. Đây là điểm yếu nhất mà chính Darwin đã phải thú nhận rằng nó sẽ chống lại lý thuyết của ông, như chúng ta sẽ thấy ở phần dưới của bài viết này.
Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày nay, tính ngụy khoa học và phản tự nhiên của thuyết tiến hóa đã lộ ra rõ ràng đến nỗi những người không chuyên ngành về sinh học cũng có thể nhận thấy. Điển hình là trường hợp của Phillip Johnson, một giáo sư luật tại Đại học California ở Berkeley, trở thành một trong những nhà tiên phong trong sự nghiệp giành lại sự thật cho sinh học – tố cáo sự vi phạm luật tự nhiên của học thuyết Darwin. Trong hơn 20 năm qua Johnson liên tiếp cho ra mắt một loạt tác phẩm phê phán thuyết tiến hóa, thậm chí với tư cách một học giả về luật pháp, ông nêu câu hỏi thách thức: “Thuyết tiến hóa có thể chứng minh được tại một phòng xử án hay không?” (Can Evolution be proved in a courtroom?).slide_13
Câu hỏi ấy là lời giới thiệu cuốn “Darwin on Trial” (Darwin được đem ra xét xử) xuất bản năm 1991. Năm 1997, ra mắt cuốn “Defeating Darwinism by Open Minds” (Đánh bại học thuyết Darwin bằng tư duy mở). Năm 2006, ra mắt cuốn “Darwinism’s Nemesis” (Sự báo ứng đối với Darwin),….
Trong bài “Tại sao sự sống thuận tay trái?” trên PVHg’s Home ngày 22/08/2015, tôi đã giới thiệu cuốn video “Richard Dawkins stumped by creationists’ question” (Richard Dawkins bị bí bởi câu hỏi của những người theo thuyết sáng tạo). Xin nhắc lại rằng Richard Dawkins là một nhà tiến hóa học nổi tiếng. Khi được hỏi “liệu ông có bằng chứng nào để chứng minh cho sự tiến hóa hay không?”, Dawkins đã ngớ người ra, im lặng suy nghĩ một lúc rất lâu không trả lời được, đơn giản vì làm gì có bằng chứng. Hôm nay tôi xin giới thiệu thêm 2 videos bác bỏ Darwin:
The Great Evolution Hoax (Trò đánh lùa vĩ đại về tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=w8k_Ja34ymQ
DNA is the Greatest Enemy of Evolution Theory (DNA là kẻ thù lớn nhất của Thuyết Tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=ZHQYj3xfo9w
Toàn bộ thuyết tiến hóa, kể từ cuốn “Về nguồn gốc các loài” (1859) và cuốn “Nguồn gốc loài người” (1871) của Darwin đến những lý thuyết hiện đại sau này, đều là những giả thuyết tưởng tượng, những phỏng đoán không chắc chắn. Phỏng đoán “vĩ đại” nhất của Darwin là sự tồn tại của những thế hệ quá độ chuyển tiếp giữa các loài – vì sự tiến hóa diễn ra liên tục và dần dần tứng tí một (continuously and gradually) nên nếu loài A tiến hóa để biến thành loài B thì ắt phải có những loài trung gian nằm giữa A và B, được gọi là những thế hệ hay những mắt xích quá độ chuyển tiếp trong chuỗi tiến hóa từ A đến B. Những thế hệ này đã tuyệt chủng, nhưng theo Darwin, hóa thạch của chúng ắt phải nằm dưới lòng đất với số lượng lớn, và trước sau khoa học sẽ tìm thấy và phải tìm thấy. Nhưng phỏng đoán ấy càng “vĩ đại” bao nhiêu thì Darwin càng lo lắng bấy nhiêu về việc liệu có tìm thấy lượng hóa thạch đó hay không. Nếu không, lý thuyết của ông sẽ lâm nguy. Vâng, chính Darwin đã bầy tỏ nỗi lo lắng này trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” (Chương 9) như sau:
575.8_D25o_title_page“… số lượng những sinh vật chuyển tiếp quá độ, vốn đã tồn tại trên trái đất, thật sự là khổng lồ. Nhưng tại sao mọi tầng vỉa địa chất không chất đầy những mắt xích chuyển tiếp quá độ đó? Khoa địa chất chắc chắn không tìm thấy bất kỳ một sợi dây xích hữu cơ biến đổi dần dần từng tí một nào như thế; và có lẽ điều này là sự chống đối rõ ràng nhất và nghiêm trọng nhất có thể được nêu lên để chống lại lý thuyết của tôi”.
Có nghĩa là ngay trong thời của Darwin, người ta đã ra công đào xới, tìm kiếm hóa thạch của các thế hệ chuyển tiếp quá độ, và không tìm thấy gì cả. Từ đó đến nay, 156 năm đã trôi qua, kể từ ngày cuốn “Về nguồn gốc các loài” ra đời, vẫn chẳng hề tìm thấy gì cả. Thời gian đã quá đủ để thấy sự thật, rằng KHÔNG TỒN TẠI những thế hệ chuyển tiếp, đơn giản vì KHÔNG CÓ SỰ TIẾN HÓA. Nói cách khác, phỏng đoán “vĩ đại” của Darwin là SAI – sai vì tin rằng có tiến hóa.
Một lần nữa xin nhấn mạnh rằng Darwin ý thức rất rõ rằng vấn đề hóa thạch sẽ quyết định “sinh mạng lý thuyết” của ông. Bằng chứng là ông dành hẳn một chương trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” để bàn về vấn đề này. Đó là Chương 9, nhan đề “On the Imperfection of the Geological Record” (Về thiếu sót trong hồ sơ địa chất), trong đó ông viết: “Sự giải thích, như tôi tin, nằm trong sự cực kỳ thiếu sót của hồ sơ địa chất”.
Thế đấy, Darwin đã cảnh báo rằng hồ sơ địa chất (tìm hóa thạch) là cực kỳ thiếu sót.
Đó là lý do để các đệ tử của Darwin phải tìm mọi cách lấp đầy khoảng trống tiến hóa từ vượn lên người. Họ dựng lên bức tranh tiến hóa “rất đẹp” từ vượn lên người, rồi cho phổ biến rộng rãi, nhằm tiêm nhiễm vào đầu óc mọi người, đặc biệt là trẻ em, rằng thuyết tiến hóa là một sự thật. Với công nghệ 3D hiện đại, bức tranh tiến hóa được bịa ra bằng những xảo thuật đánh lừa bậc thầy, chẳng hạn như bức tranh sau đây:
6.Mutations_evolutionNhưng những hóa thạch mà họ lấp đầy khoảng trống từ vượn lên người thực ra đều là những là những loài khỉ hoặc vượn 100% đã tuyệt chủng, hoặc đôi khi là hóa thạch người 100% thời tiền cổ đại. Họ lừa được đa số mọi người, vì đa số là những người không chuyên. Nhưng họ không lừa nổi các chuyên gia sinh học trung thực. Chẳng hạn như Michael Denton, một nhà sinh học phân tử nổi tiếng của Úc, tác giả cuốn ““Evolution: A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết đang khủng hoảng), xuất bản năm 1985, trong đó viết:
Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.
5.evolution_fossils_say_noHình bên: “Evolution: the fossils still say NO!” (Tiến hóa: hóa thạch vẫn nói KHÔNG!)
Hoảng sợ trước việc không tìm thấy hóa thạch dưới lòng đất, các nhà tiến hóa nghĩ ra cách tìm “hóa thạch sống”. Đó là trường hợp đầu thế kỷ 20, họ đổ vấy cho người Aborigines (thổ dân) ở Australia chính là một loại “người-khỉ/khỉ-người” – một trong những cái được gọi là missing links (mắt xích chuyển tiếp bị mất tích) mà họ cần tìm kiếm để cứu vãn thuyết tiến hóa. Những cuộc truy lùng, săn bắt, thảm sát thổ dân đã diễn ra nhằm lấy hộp sọ nghiên cứu. Đó là một trang lịch sử đen tối của Úc, một vết thương âm ỉ trong lòng xã hội Úc đến nay vẫn chưa lành. Ngày nay ai cũng biết rõ đó là một tội ác của những kẻ nhân danh thuyết tiến hóa, vậy mà thuyết tiến hóa vẫn được tung hô, bằng cách bịt mắt lại để không nhìn thấy những hậu quả phi nhân mà nó đã gây ra trên thế giới, đỉnh cao là chủ nghĩa quốc xã Đức đầu thế kỷ 20. Phải mất nhân tính đến mức độ nào nữa thì người ta mới đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật để kết tội thuyết tiến hóa? Câu hỏi của Grenville Kent trên tạp chí SIGNS of the Times của Australia: “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler điều gì?) vẫn không có nhà tiến hóa nào dám lên tiếng trả lời. Họ biết trả lời sao đây? Bởi chính ông thầy của họ, Charles Darwin đã dạy họ rằng “trong một thời gian không xa lắm, có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh hầu như sẽ tiêu diệt các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới”.
ckF8NcOY4n_1400623235165Hình bên: “Không có Học thuyết Darwin, đặc biệt các lý thuyết con của nó như thuyết ưu sinh và Darwin xã hội, cả Hiler lẫn những phần từ quốc xã đi theo hắn đều sẽ không có một chỗ dựa khoa học cần thiết để tự thuyết phục mình và thuyết phục những kẻ hợp tác với chúng rằng một trong những sự độc ác kinh khủng nhất lại thực sự đáng được ca ngợi về mặt đạo đức” (Richard Weikart, nhà lịch sử tại Đại học Tiểu bang California).
Đó là hệ quả tất yếu của lý thuyết đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua, cái được coi là động lực của tiến hóa. Hitler chỉ đơn giản là áp dụng lý thuyết đó vào xã hội loài người mà thôi. Chính Darwin đã lát đường cho Hitler! Chính Darwin đã cung cấp cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc một cơ sở ngụy khoa học để nó tiến hành những hành vi phản nhân loại nhân danh tiến hóa. Lý Tôn Ngô ở Trung Hoa đầu thế kỷ 20 đã vạch trần bản chất phi nhân này trong học thuyết Darwin.
Nhưng học thuyết Darwin mất uy tín không chỉ vì chủ nghĩa quốc xã. Lý do chủ yếu để nó mất uy tín là ở bản chất phi khoa học, hay chính xác hơn, bản chất phản khoa học của nó.
Nó phi khoa học vì vô bằng chứng: “Lý thuyết của Darwin về nguồn gốc các loài không có lấy một sự kiện thực tế nào để xác nhận nó trong thế giới tự nhiên. Nó không phải là kết quả của nghiên cứu khoa học, mà thuần túy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng” (trích đoạn trang 13, cuốn Witnesses Against Evolution (Những bằng chứng chống lại thuyết tiến hóa) của John Meldau, do Christian Victory Publishing xuất bản năm 1968 tại Denver, Mỹ).
Nó phản khoa học vì toàn bộ lý thuyết của nó dựa trên một cơ chế phi hiện thực – sự chọn lọc tự nhiên dẫn tới những biến dị có lợi qua hàng triệu, hàng tỷ năm biến loài này thành loài khác. Michael Denton gần như giận dữ bác bỏ cơ chế này:
Không ở đâu Darwin có thể chỉ ra một trường hợp đích thực của chọn lọc tự nhiên đã thực sự gây ra biến đổi tiến hóa trong tự nhiên… Rốt cuộc, lý thuyết tiến hóa của Darwin không hơn không kém một câu chuyện hoang đường về nguồn gốc vũ trụ trong thế kỷ 20” (trích trang 62, 358, “Evolution, A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết trong khủng hoảng) của Michael Denton, NXB Adler & Adler, Maryland, Mỹ, 1986).
Khoa học chưa từng chứng kiến một biến dị có lợi nào. Ngược lại, hầu hết biến dị đều dẫn tới bệnh tật, hủy hoại sinh vật. Chọn lọc tự nhiên, một cơ chế tưởng tượng, không “dại gì” mà lựa chọn những biến dị có hại. Nói cách khác, chọn lọc tự nhiên không hoạt động, hay chính xác hơn, không có chọn lọc tự nhiên.
Toán học chứng minh rằng xác suất để xẩy ra liên tiếp hàng triệu, hàng tỷ những biến dị “có lợi” trong quá trình “tiến hóa” hàng triệu, hàng tỷ năm là một đại lượng coi như bằng 0, cơ may để biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn KHÔNG CÓ. Chọn lọc tự nhiên là một khái niệm tưởng tượng. Chọn lọc tự nhiên dẫn tới tiến hóa là chuyện hoàn toàn hoang đường!
Các nhà tiến hóa đã tiến hành những thí nghiệm hòng tạo ra những biến dị làm thay đổi loài. Nhưng họ thất bại thảm hại. Chẳng hạn, họ đã thực hiện những thí nghiệm chiếu xạ hoặc tác động hóa học đối với ruồi giấm trong hơn 1500 thế hệ. Kết quả, ruồi vẫn là ruồi, ruồi chẳng hề biến thành bất cứ con vật nào khác. Hơn nữa, trong những thế hệ tiếp nối, rất nhiều con bị chết, nhiều con bị xoăn cánh hoặc cánh cụt ngủn.
Dưới con mắt vật lý, biến dị chính là một biểu hiện của Định luật Entropy (Định luật thứ hai của nhiệt động học) – định luật nói rằng vật chất biến đổi theo chiều hướng càng ngày càng xấu đi, hỗn loạn hơn. Entropy là đại lượng đo mức độ vô trật tự của một hệ thống. Định luật entropy khẳng định entropy chỉ tăng, không giảm (có thể không tăng trong giai đoạn ngắn). Biến dị là một biểu hiện của sự tăng entropy. Vậy biến dị là một biến đổi ngược chiều với tiến hóa, vì tiến hóa là khái niệm cho rằng sự vật ngày càng có tổ chức cao hơn, trật tự hơn. Vậy lý thuyết nói rằng biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn sai lầm, phản tự nhiên.
Tính chất tưởng tượng bịa đặt đó bị tố cáo mạnh mẽ trong cuốn “Evolution and the Emperor’s New Clothes” (Thuyết tiến hóa và bộ quần áo mới của hoàng đế) của N.J.Mitchell, do Roydon Publications xuất bản tại Anh năm 1983. Xin trích đoạn:
Các nhà khoa học, những người đang truyền bá rằng tiến hóa là một sự thật của cuộc sống, là những kẻ đánh lừa người khác bằng sự cả tin, và câu chuyện họ đang kể là trò lừa bịp hơn bao giờ hết. Trong khi giải thích sự tiến hóa, chúng ta mảy may không có một chút sự thật nào cả”.
Trước trào lưu chống thuyết tiến hóa ngày càng mạnh, thái độ của các nhà tiến hóa ra sao? Hoặc là im lặng, bởi “im lặng là vàng”. Càng làm to chuyện, chân tướng thuyết tiến hóa càng lộ rõ. Đúng ra, những người chống thuyết tiến hóa mới đang là những người muốn làm to chuyện, muốn đưa thuyết tiến hóa ra tòa, như Phillip Johnson chẳng hạn. Thực sự các nhà tiến hóa đã và đang rơi vào tình thế rất lúng túng, như Richard Dawkins đã lúng túng trong cuốn video ở trên. Tuy nhiên, bản chất ngoan cố của con người là điều không làm ai ngạc nhiên. Các nhà tiến hóa vẫn loanh quanh chống chế. Họ kém trung thực so với ông thầy của họ, Charles Darwin.
Thật vậy, dù sao thì Darwin vẫn hơn hẳn các đệ tử của ông vì thái độ trung thực. Nỗi lo lắng của ông về sự thiếu vắng bằng chứng hóa thạch là một ví dụ điển hình. Theo Adrian Desmond và James Moore kể lại trong cuốn “Darwin” (do W.W.Norton and Company xuất bản tại New York năm 1991, trang 456, 475) thì có lần Darwin tâm sự với Asa Gray rằng:
The Worst Mistake (11)… Tôi hoàn toàn ý thức được rằng những phỏng đoán của tôi đã vượt quá giới hạn của khoa học thực sự… Nó chỉ là một mảnh vụn của một giả thuyết với nhiều sai lầm và lỗ hổng cũng như những phần đúng đắn” (…I am quite consciuos that my speculations run beyond the bounds of true science… It is a mere rag of an hypothesis with as many flaws & holes as sound parts).
Thú thực, tôi kính trọng Darwin hơn chính vì lời thú nhận nói trên, thay vì ở lý thuyết của ông. Nhưng càng kính trọng sự trung thực của ông bao nhiêu, tôi càng thất vọng với sự ngoan cố của các đệ tử của ông bấy nhiêu. Họ cố tình che đậy những lời thú nhận của Darwin bấy lâu nay. Nhưng internet đã làm họ thất bại! Sự thật đang ngày càng lộ ra, và lời tiên báo của Soren Lovtrup sẽ trở thành sự thât: “một ngày nào đó, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như trò lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học”.
worst (2)Vậy mà Charles Darwin từng được nhiều sách báo và trang mạng tôn vinh như một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại (!!!). Chẳng hạn, Darwin được coi là một trong 12 người khổng lồ trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Trên vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg. Trên trang mạng Biography Online, Darwin được tôn vinh như một trong 10 nhà khoa học vĩ đại nhất, vì “đã phát triển lý thuyết tiến hóa bất chấp sự không tin tưởng và nghi ngờ, và đã sưu tập được những bằng chứng trong 20 năm, và công bố các kết luận trong cuốn On the Origin of Species năm 1859”. Thật lố bịch hết chỗ nói. Tôi không tìm được một trường hợp thứ hai nào trong lịch sử khoa học lố bịch như trường hợp này.
Nhưng dù gia công đánh bóng tên tuổi Darwin bằng cách nào đi chăng nữa, hai tác phẩm chủ yếu của Darwin, “Về nguồn gốc các loài” (1859) và “Nguồn gốc loài người” (1871) chính là 2 bằng chứng sẽ chôn vùi thanh danh của Darwin, và đến một ngày không xa, có thể tính bằng số năm tháng, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như sự lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học. Sự thật sẽ không thể che đậy được mãi, đúng như lời Đức Phật đã dạy!
12
PVHg, 06/09/2015
GHI CHÚ:
[1]: Thực ra khỉ, vượn có rất nhiều loài khác nhau, với số nhiễm sắc thể khác nhau, và nói chung đều khác với số nhiễm sắc thể của người. Người có 46 nhiễm sắc thể trong khi Khỉ Capuchin có 54 nhiễm sắc thể; Gorilla, Orangutan (đười ươi), Chimpanzee (tinh tinh) có 48 nhiễm sắc thể; Khỉ Rhesus có 42 nhiễm sắc thể;…