Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018

Áp lực giờ chót của Mỹ đòi hủy bỏ cuộc lật đổ TT Ngô Đình Diệm

TƯỚNG LÃNH TIẾN HÀNH ĐÁNH DINH GIA LONG 
DÙ ÁP LỰC GIỜ CHÓT CỦA MỸ 
ĐÒI HỦY BỎ CUỘC LẬT ĐỔ NHÀ NGÔ 

us_senate
Phúc Trình Thượng Viện Hoa Kỳ Số 94-465

phuctrinh_94-465_03-content(LỜI NGƯỜI DỊCH:
Đọc lại các chuyển biến trong thời điểm 24 giờ trước cuộc cách mạng 1-11-1963, chúng ta thấy lịch sử có thể chuyển biến theo nhiều hướng khác nhau, khi có nhiều áp lực từ MACV và từ Cố vấn An Ninh Quốc giaHoa Kỳ đòi hủy bỏ cuộc đảo chánh. Một bản phúc trình của Ủy Ban Đặc Tuyển Thượng Viện Hoa Kỳ dày 351 trang về “những âm mưu ám sát các lãnh tụ nước ngoài mà phía Hoa Kỳ có liên hệ”, trong đó các trang 216-223 kể về trường hợp các tướng lãnh VNCH lật đổ ông Ngô Đình Diệm.
Sau đây là bản dịch trang 222, từ kho lưu trữ hồ sơ của Ủy Ban Đặc Tuyển Thượng Viện Hoa Kỳ. Bản phúc trình có tựa đề “Alleged Assassination Plots Involving Foreign Leaders -- An Interim Report of the Select Committee to Study Governmental Operations, November 1975” -- tức là “Các Âm Mưu Ám Sát Liên Hệ Các Lãnh Tụ Ngoại Quốc -- Bản Phúc Trình Lâm Thời của Ủy Ban Đặc Tuyển để Nghiên Cứu Hoạt ĐộngChính Phủ, Tháng 11-1975.
Vài ghi nhận từ bản phúc trình tháng 11 năm 1975 này:
 Tướng Stillwell ngày 17-10-1963 yêu cầu chính phủ ông Diệm đổi cách làm việc, áp lực cụ thể là sẽ ngưng viện trợ cho các đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt cho tới khi các đơn vị này chuyển về trực thuộc Tổng Tham Mưu Trưởng và được dùng ngoài chiến trường thay vì dùng để đàn áp Phật Giáo.
 Đại sứ Lodge ngày 27-10-1963 đã trực tiếp nói với ông Diệm, nhưng ông Diệm không cam kết gì.
 Tướng Trần Văn Đôn hứa sẽ tiết lộ kế hoạch đảo chánh cho Đại sứ Lodge biết 4 giờđồng hồ trước khi đảo chánh khởi động. Tuy nhiên, vào ngày 1-11-1963, Tòa Đại sứ Mỹ chỉ được báo trước 4 phút mà thôi.
 Đại sứ Lodge điện văn về Mỹ ngày 30-10-1963 nói rằng chuyện đảo chánh hoàn toàn nằm trong tay phía người Việt, còn Mỹ không cản ngăn gì được.
 Tướng Tư Lệnh MACV là Harkins lập tức cùng ngày 30-10-1963 từ Sài Gòn gửi điện văn về Mỹ phản đối tất cả những âm mưu đảo chánh ông Diệm.
 Hai điện văn cùng ngày 30-10-1963 từ Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ khuyến cáo Đại sứ Lodge, bày tỏ quan ngại và nói Lodge có thể nên khuyến cáo hủy bỏ đảo chánh.
 Khoản tiền 42,000 Mỹ Kim đã do CIA trao trước đó để dùng mua thực phẩm cho chiến binh VNCH và dùng làm tiền tử tuất cho gia đình tử sĩ trong cuộc đảo chánh.
 Tướng Dương Văn Minh hai lần điện thoại tới ông Diệm, đề nghị hai anh em Diệm-Nhu đầu hàng sẽ được an toàn xuất ngoại. Ông Diệm hai lần từ chối.
Ngoài ra, trong phần Tổng Kết Những Phát hiện và Kết luận Về Những Âm Mưu(Summary of Findings and Conclusions On The Plots) tại 5 nước là Cuba (Fidel Castro), Congo (Patrice Lummumba), Dominica Republic (Rafael Trujillo), Chile (Rene Schneider), và South Vietnam (Ngô Đình Diệm), kết luận về trường hợp Ngô Đình Diệm ở trang 5 là như sau:
Ngô Đình Diệm (Nam Việt Nam) – Diệm và em ông ta, Nhu, bị giết vào ngày 2 tháng 11 năm 1963, trong quá trình diễn biến của một cuộc đảo chánh của các Tướng lãnh Nam Việt Nam. Mặc dù Chính phủ Mỹ ủng hộ cuộc đảo chánh, [Ủy ban chúng tôi] đã không tìm thấy chứng cớ nào cho thấy quan chức Mỹ đồng ý với cuộc ám sát. Thật vậy, có vẻ như việc ám sát Diệm đã không nằm trong kế hoạch trước khi đảo chánh của các Tướng lãnh, nhưng lại là một hành động tự phát xảy ra trong cuộc đảo chánh và đã được tiến hành không có sự can dự và ủng hộ của Hoa Kỳ.
phuctrinh_94-465
Trang 5 của Phúc Trình 94-465
Kết luận về trường hợp Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam
Bản dịch dưới đây do Cư sĩ Nguyên Giác thực hiện)
Nguyên văn toàn bộ Phúc trình 94-465 có thể hạ tải ở:
BẮT ĐẦU BẢN DỊCH
Hoa Kỳ đã tăng áp lực lên Tổng Thống Ngô Đình Diệm để điều chỉnh phương cách làm việc của ông ta. Vào ngày 17-10-1963, Tướng Richard Stillwell (Chỉ huy trưởng về hoạt động của MACV, cơ quan điều hợp viện trợ quân sự Hoa Kỳ ở VN, viết tắt của “Military Assistance Command, Vietnam”) thông báo cho Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần rằng Hoa Kỳ sẽ ngưng viện trợ cho các đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt đã tấn công các ngôi chùa cho tới khi nào các đơn vị này chuyển ra chiến trường và đặt dưới quyền của Tổng Tham Mưu Trưởng. (Theo Pentagon Papers, trang 217)
Vào ngày 27-10-1963, Đại sứ Lodge cùng với ông Diệm tới thăm Đà Lạt, nhưng không nhận được cam kết nào từ ông Diệm để thực hiện theo yêu cầu của Mỹ. (Pentagon Papers, trang 219)
Vào ngày 28-10-1963, Conein (LND: tình báo CIA) gặp Tướng Trần Văn Đôn; Tướng này trước đó đã nhận được bảo đảm từ Đại sứ Lodge rằng Conein đã nói nhân danhcho Hoa Kỳ. Tướng Đôn nói rằng ông sẽ tiết lộ kế hoạch đảo chánh cho Đại sứ Lodge biết bốn giờ đồng hồ trước khi xảy ra, và đề nghị rằng Đại sứ Lodge đừng đổi kế hoạchbay sang Mỹ dự kiến vào ngày 31-10-1963. (Bản phúc trình I.G. Report, phần C, trang 37; Pentagon Papers, trang 219)
Vào ngày 30-10-1963, Đại sứ Lodge báo cáo về Washington rằng ông không có cách nào ngăn cản cuộc đảo chánh nữa, và rằng chuyện này hoàn toàn nằm trong tay người Việt rồi. Tướng Harkins (LND: Tư lệnh MACV) không đồng ý, và gửi điện văn bày tỏ lập trường chống đảo chánh của ông lên Tướng Maxwell Taylor (LND: Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Hoa Kỳ) (Pentagon Papers, trang 220)
Một điện văn từ Bundy (LND: Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ) gửi cho Đại sứ Lodge đề ngày 30-10-1963 bày tỏ quan ngại của Tòa Bạch Ốc và chỉ thị rằng “Chúng ta không thể chấp nhận kết luận rằng chúng ta không có sức mạnh để trì hoãn hay khuyến cáo hủy bỏ cuộc đảo chánh.” (Điện văn, Bundy gửi Lodge, 30/10/63)
Một điện văn kế tiếp trong cùng ngày từ Washington gửi cho Đại sứ Lodge ra lệnh Lodge vận động các tướng lãnh VNCH hủy bỏ cuộc đảo chánh nếu Lodge không tin là cuộc đảo chánh sẽ thành công. Chỉ thị này yêu cầu Lodge “tuyệt đối không liên hệ gì [tới đảo chánh] và giữ thái độ trung lập một cách nào đó.” (Pentagon Papers, trang 220)
Vào buổi sáng ngày 1-11-1963, các đơn vị đầu tiên liên hệ tới cuộc đảo chánh bắt đầu vây quanh Sài Gòn. Tòa Đại Sứ Mỹ chỉ được thông báo có 4 phút đồng hồ trước khi cuộc đảo chánh khởi sự. (Điện văn, MACV gửi Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Hoa Kỳ, ngày 1/11/63)
Một phụ tá của Tướng Đôn nói với Conein là hãy mang tiền có sẵn tới Bộ Tổng ThamMưu Quân Lực VNCH. Conein mang 3 triệu đồng VN (tương đương khoảng 42,000 Mỹ kim) tới Bộ Tổng Tham Mưu, trao cho Tướng Đôn để mua thực phẩm cho chiến binh và để trả tiền tử tuất cho các chiến binh hy sinh trong cuộc đảo chánh. (Conein, ngày 20/6/75, trang 72) (1)
Conein có mặt ở doanh trại của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH trong hầu hết thờigian đảo chánh. (Bản phúc trình I.G. Report, C, trang 41-42)
Vào lúc 1:40 giờ trưa ngày 1-11-1963, các tướng lãnh đề nghị rằng ông Diệm hãy từ chức tức khắc, và hứa sẽ bảo đảm cho hai ông Diệm và Nhu an toàn ra đi [khỏi VN]. (Conein, bản phúc trình Conein After-Action, trang 15)
Dinh Tổng Thống bị bao vây liền sau đó, và vào khoảng 4:30 giờ chiều, các tướng tuyên bố đảo chánh trên đài phát thanh và yêu cầu hai ông Diệm và Nhu từ chức.
Ông Diệm điện thoại cho Đại sứ Lodge và hỏi về lập trường Hoa Kỳ. Đại sứ Lodge trả lờirằng Mỹ không có quan điểm nào, và bày tỏ quan ngại về an toàn của ông Diệm. (Pentagon Papers, trang 221)
Theo bản phúc trình của Conein, Tướng Dương Văn Minh nói với ông Ngô Đình Nhu rằng nếu ông Diệm và Nhu không từ chức trong vòng 5 phút đồng hồ, Dinh Tổng Thống sẽ bị dội bom. Rồi Tướng Minh điện thoại cho ông Diệm. Ông Diệm từ chối nói chuyện với Tướng Minh, và tướng này ra lệnh dội bom vào Dinh. Chiến binh tiến vào Dinh, nhưng ông Diệm vẫn từ chối điều đình. Tướng Minh đề nghị cho ông Diệm cơ hội thứ nhì để đầu hàng nửa giờ sau đó...
GHI CHÚ:


(1) Chuyển số tiền này cho các lãnh đạo cuộc đảo chánh đã được đề cập đến từ trước cuộc đảo chánh. Vào ngày 29-10-1963, Đại Sứ Lodge gửi điện văn nói rằng nên đoán trước rằng cần có tiền trợ giúp. (Điện văn, Đại sứ Lodge gửi Bộ Ngoại Giao Mỹ, ngày 29/10/1963 và ngày 30/10/1963) Conein đã nhận tiền này vào ngày 24-10-1963, và giữ tiền này trong tủ sắt tại nhà riêng của ông.
- HẾT TRANG 222 –
phuctrinh_94-465_02med

Nguyên Ngọc: Minh triết của rừng



    Hoài Nam/Người Đô Thị

    Tôi bắt đầu đọc Nguyên Ngọc cũng đã khá lâu. Thú thực, các tác phẩm hư cấu của ông: Đất nước đứng lên, Mạch nước ngầm, Đất Quảng… không hấp dẫn tôi nhiều lắm. Có lẽ vì đó là những tác phẩm của một thời, và không phải là thời của tôi? Nhưng ký Nguyên Ngọc thì khác. Cũng được ông viết trong cái thời chiến tranh ấy, mà sao đến giờ đọc lại bài ký "Đường chúng ta đi" vẫn thấy gai người trước một thứ văn xuôi đẹp, vừa giàu chất thơ vừa hừng hực lời hiệu triệu.

    Nguyên Ngọc là một trong số ít nhà văn Việt Nam mà văn nghiệp không bị đứt đoạn bởi bất cứ lý do nào: chiến tranh, biến động thời cuộc, tuổi tác...Ảnh: TL

    Tạng văn Nguyên Ngọc dường như chỉ phát huy đến tối đa năng lực và sức hấp dẫn của nó khi ông dùng đến thể ký. Tập ký gần đây nhất của Nguyên Ngọc, Các bạn tôi trên ấy (NXB Trẻ, 2013), viết về Tây Nguyên, gợi lên khá nhiều điều cần phải suy ngẫm. Nghĩ lại, và nghĩ tiếp.
    Trong số hai mươi tư bài của tập ký, bài Nước mội, rừng xanh và sự sống là một bài khá lạ. Nguyên Ngọc không đưa người đọc vào không gian của cao nguyên Nam Trung bộ ngay, mà ông kéo người đọc xuống biển, đúng hơn là xuống vùng đất mấy trăm cây số ven biển Nam Trung bộ, nơi miên man những cồn cát lớn, nơi vốn mặc định trong ý nghĩ của rất nhiều người chúng ta là đất nghèo, nghèo xác nghèo xơ.
    Có thật là thế không, có luôn là thế không, khi trong quá khứ, chính ở vùng đất này đã từng hiện diện một vương quốc Champa cực kỳ thịnh vượng? Sự thịnh vượng ấy từ đâu mà có? Câu trả lời: từ nước mội. “Nước mội là nước rỉ ra từ các chân đồi cát, trong veo, mát lạnh, tinh sạch đến mức có thể bụm vào lòng bàn tay, ngửa cổ uống ngay ngon lành. Ở đây người ta vỡ ruộng ngay trên cát, các đám ruộng được gọi là “thổ”, những đám thổ trồng đủ các loại hoa màu. Ở góc thổ bao giờ cũng có một chiếc ao nhỏ, cạn thôi, nhưng quanh năm lúc nào cũng đầy ắp nước, tát đi lại đầy ngay, cả trong những mùa nắng hạn gay gắt nhất” (tr.44). 
    Vậy đó, nước mội giúp người dân xứ cát phát triển sản xuất nông nghiệp. Nó cũng giúp họ phát triển hoạt động giao thương biển, khi ít nhất, dù muốn hay không, thương thuyền quốc tế khi qua các cảng biển ở đây vẫn phải cập bờ để “ăn” nước ngọt. Ngọn nguồn của nước mội ở đâu? “Chính rừng Tây Nguyên, từ trên Trường Sơn rất xa xôi kia, đêm ngày, hàng triệu triệu năm nay, như một người Mẹ vĩ đại, bao dung mà tảo tần, hứng lấy tất cả các nguồn nước của đất trời, cất lấy, để dành, tằn tiện, tuyệt đối không phí mất một giọt nào, để từng ngày từng ngày chắt chiu mà bất tận cung cấp cho đứa con đồng bằng của mình, cho sự sống có thể sinh sôi nảy nở, trường tồn trên dải đất cát trông chừng rất khắc nghiệt kia” (tr.46). Từ xa đến gần, rốt cuộc rồi Nguyên Ngọc lại trở về với Tây Nguyên, quê hương tinh thần, vùng yêu (mà cũng là vùng đau) của mình.
    Tập bút ký Các bạn tôi ở trên ấy đã nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2013. Ảnh: TL

    Bằng các trang viết về Tây Nguyên trong tập sách, Nguyên Ngọc đã làm hiển lộ một Tây Nguyên với tất cả sự huyền ảo, mê đắm, đơn giản mà minh triết một cách đặc dị của nó. Có thể nói, xuyên qua những biểu hiện phong phú đến rậm rịt của đời sống, của văn hóa các tộc người Tây Nguyên, ông đã tìm thấy “yếu tố nền”, có ý nghĩa chi phối mọi dạng thức tồn tại ở nơi đây. Đó là Rừng. Tây Nguyên chính là rừng. Nguyên Ngọc khẳng định: “Ở Tây Nguyên, rừng là tất cả, bao trùm. Khởi nguyên là rừng. Chúa dạy: Khởi đầu là Lời. Ở đây, khởi đầu là Rừng. Nguyên lai là rừng. Rừng là bắt đầu và tận cùng của mọi thứ trên đời này. Như không gian, như thời gian, vô tận” (bài Người về Kông Chro, tr.177). 
    Một không gian rừng, một thực thể rừng kỳ lạ và kỳ diệu. Nó tỏa ra một sức hút, một sức ám đến không thể cưỡng lại được đối với con người. Rải suốt các bài ký, Nguyên Ngọc đã kể cho ta biết, một cách thật thú vị, về nhiều con người bị rừng Tây Nguyên “ám” như thế nào: Nhạc sỹ Y Yơn, nghệ sỹ múa Giang Nga, họa sỹ Su Man, một ông phó tư lệnh quân khu người Hre, rồi Hruck – con trai anh hùng Đinh Núp v.v… toàn những người đang công tác sinh sống yên lành bình thường giữa cộng đồng, bỗng chốc biến mất. Họ “về rừng”, về chỉ để lang thang trong rừng vài ngày, rồi trở lại.
    Thậm chí có những con người vốn sinh ra và trưởng thành trong một không gian xã hội khác hẳn, khi đến với rừng Tây Nguyên, lập tức bị chiếm lĩnh hoàn toàn, họ sống trong rừng Tây Nguyên như những người Tây Nguyên suốt hàng chục năm trời. Đó là trường hợp của các nhà dân tộc học Jacques Dournes (tác giả cuốn P’tao, một lý thuyết về quyền lực ở người J’rai Đông Dương) và Georges Condominas (tác giả cuốn Chúng tôi ăn rừng) – những “ông Tây” đã yêu Tây Nguyên và đã thực sự “sống Tây Nguyên”. Nhưng như vậy thì mới chỉ là sự ghi nhận rừng Tây Nguyên ở bề mặt, ở lớp vỏ. Một người gắn bó với Tây Nguyên hơn nửa cuộc đời - cũng là người, nói như nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, “đi rất rộng trong văn hóa, đi rất sát với cuộc sống, với nhân dân, và đi rất sâu trong tư duy” - như Nguyên Ngọc, ắt sẽ còn phát hiện từ đó nhiều điều hơn thế nữa.
    Ảnh trong Chuyên đề “Nguyên Ngọc vẫn đang trên đường” - Người Đô Thị báo in tháng 10.2017

    Rừng là sức hút và rừng cũng là sức đẩy. Rừng là đam mê và rừng cũng là nỗi sợ. Nếu như tôi không nhầm, có lẽ Nguyên Ngọc là người đầu tiên và cũng là duy nhất cho đến lúc này nhận ra rằng: “Con người Tây Nguyên là con người sống rất chông chênh, trên một ranh giới mong manh, bên này là rừng bên kia là xã hội. Họ luôn bị níu kéo giữa hai bên… Tây Nguyên chính là thế chông chênh kia, một thế chông chênh bền vững, một thế bền vững chông chênh” (bài Các bạn tôi ở trên ấy, tr.72).
    Cái thế chông chênh ấy lý giải tại sao người Tây Nguyên, vẫn phải sống ở làng, nhưng lại có những lúc bất chợt tan biến mất vào rừng, lang thang vô định trong rừng, như một thôi thúc tự thân, không thể không thỏa mãn, cho dẫu họ luôn ám ảnh nỗi sợ bị sảy chân, bị rơi tõm vào cái âm u hoang dã của rừng.
    Cái thế chông chênh ấy lý giải tại sao vào mùa Ninh Nông hàng năm, khi lúa đã gặt xong, mọi cư dân trong làng người Xơ Đăng lại bỏ tất cả nhà cửa, vật dụng, quần áo mà vào thật sâu trong rừng mươi ngày, nửa tháng, hái lượm tìm cái ăn, cọ đá vào nhau để làm ra lửa, dùng cái cây mà ném con thú… như người nguyên thủy, và năm nào cũng vậy. 
    Cái thế chông chênh ấy cũng lý giải tại sao đi giữa rừng Tây Nguyên, thỉnh thoảng ta lại bắt gặp một khoảnh đất lạ, mang dấu vết của một nơi từng là làng: mấy cây mít, xoài, vài bụi ớt hiểm, mấy cây cà đắng, dăm cột nhà cháy… Người Gia Rai gọi đó là rngol, “Rngol là một khoảnh nhỏ con người đã mượn của rừng để thuần hóa làm làng, plei, làm văn hóa, nay lại trả về cho rừng, và hoang dã đang chiếm lại, rất nhanh. Cũng có thể một hôm nào đó con người lại đến đây, lại mượn thêm lần nữa, thuần hóa cho mình một đoạn khúc nào đó, rồi lại trả, cho thành rngol, rồi lại mượn, làm plei, và lại trả…” (bài Akhan, mùa xuân, tr.248). 
    Cứ thế, trên thực địa Tây Nguyên của mối quan hệ rừng, đại diện cho tự nhiên, và người, đại diện cho văn hóa, Nguyên Ngọc đã tiến tới một nhận thức mang tính biện chứng về quan hệ giữa văn hóa và tự nhiên: “Văn hóa là sự cố gắng bứt ra của con người khỏi tự nhiên, bứt ra nhưng vẫn cứ phải dính liền, không chìm nghỉm trong ấy nhưng vẫn còn phải nhúng rễ rất sâu trong ấy, nếu không muốn khô khốc, cằn cỗi, chết rụi” (bài Các bạn tôi ở trên ấy, tr.72). Đây là một nhận thức quan trọng, theo tôi, quan trọng đến mức nó có thể và cần phải trở thành kim chỉ nam cho một định hướng phát triển bền vững về mọi mặt ở Tây Nguyên, và không phải chỉ ở Tây Nguyên. 
    Những tâm tư của già làng Tây Nguyên được nhà văn Nguyên Ngọc lắng nghe. Ảnh: Xuân Chiến

    Trước hết, nó giúp ta hiểu rằng với con người thì tự nhiên chính là bào thai mẹ, là nguồn dưỡng chất, là cái Gốc. Cái cách mà chúng ta đã và đang làm với rừng Tây Nguyên – chặt và đào, hùng hục khai thác, tàn phá rừng đến cùng kiệt – không gì khác hơn, chính là hành động triệt hạ cái Gốc kia. Khô hạn và lũ lụt từ đấy mà ra. Và con người Tây Nguyên, khi không còn rừng nữa, còn có chỗ nào để họ thỉnh thoảng tan biến vào, tự làm mới lại tâm hồn mình bằng cách tắm gội trong ngọn nguồn nguyên thủy?
    Còn có không gian nào để từ đó những lễ và hội, những nhà rông nhà dài, những đêm akhan miên man, những ché rượu cần, những cồng và chiêng, những cuộc diễn tấu Klong Put tự nhiên và đầy ngẫu hứng… tồn tại, vận hành trong một thể thống nhất, hữu cơ? Không ít lần Nguyên Ngọc đã lo sợ: “Tây Nguyên đang mất gần sạch rừng xanh rồi. Đại ngàn thì tuyệt đối không còn. Tất cả đang trống trơn, phơi ra đỏ ngầu đất trơ khô cháy. Con người ở đấy rồi sẽ ra sao đây? Thú thật, tôi chưa biết, chỉ lo sợ. Rất lo sợ” (bài Tây Nguyên, mùa lễ hội, tr.270).
    Thứ hai, nhận thức trên sẽ giúp ta hiểu đúng về đặc điểm của văn hóa tộc người, tránh được những ngộ nhận, nhờ thế, không ứng xử sai và không dẫm phải vết xe đổ của sự áp đặt văn hóa. Trong tập bút ký này, Nguyên Ngọc đã nêu nhiều dẫn chứng chứng minh điều đó. Người ta xúc phạm đến người Tây Nguyên khi “cả gan” hỏi mua hoặc đặt làm tượng nhà mồ chỉ vì không hiểu rằng tượng nhà mồ không phải thứ làm ra để bán, người chế tác tượng (có thể là bất kỳ ai) không hề nghĩ mình là nghệ sỹ đang sáng tạo nghệ thuật, anh ta thậm chí còn không có chủ định làm ra pho tượng nữa kia. “Ở Tây Nguyên không có người nghệ sỹ chuyên nghiệp. Người ta không làm nghề nghệ thuật. Nghệ thuật tuyệt đối không phải một nghề. Nghệ thuật là đời sống, cách sống, thế thôi. Là hơi thở, là không khí… Ở Tây Nguyên, vậy đó, người ta làm nghệ thuật vì chẳng đừng được. Vì một khao khát tự bộc lộ, tự biểu hiện, tự bóc mình ra, đột ngột ập đến, không cưỡng lại nổi” (bài Tượng gỗ rừng già, tr.33, 34, 35). 
    Nguyên Ngọc đối tửu bên ché rượu cần cùng nghệ sĩ Glơh – một trong những nghệ sĩ khắc gỗ, làm tượng gỗ tài hoa trên Tây Nguyên. Ảnh: TL

    Người ta đã vô duyên, đã phí tiền của công sức khi làm và “đem cho” làng Tây Nguyên cái nhà rông đúng kiểu truyền thống, vì không hiểu rằng nhà rông phải do tự làng làm lấy, sống đời sống của làng, nó chính là linh hồn của làng. “Một cái nhà rông đem cho, dù người cho là ai, dù với thiện chí chân thành đến bao nhiêu và đẹp đẽ đến mấy, sao chép giỏi đến mấy kiểu nhà rông đúng nhất, cổ xưa nhất, vẫn là một ngoại vật, một dị vật trong đời sống của làng” (bài Nhà rông, hồn của làng, tr.57).
    Cuối cùng, quan trọng hơn cả, nhận thức trên sẽ giúp ta hiểu đúng giá trị của văn hóa tộc người, từ đó tránh được sự kỳ thị (công khai hoặc ngấm ngầm) về văn hóa. Còn nhớ, vào những năm năm mươi của thế kỷ XX, trong một hội thảo quốc tế về chống phân biệt chủng tộc, nhà dân tộc học lừng danh thế giới Claude Levy Strauss trình bày một bản báo cáo có tên Lịch sử và chủng tộc (đã có bản dịch tiếng Việt, của Huyền Giang) trong đó ông nhấn mạnh: không có những nền văn hóa tộc người cao hơn hay thấp hơn, mà chỉ có những nền văn hóa tộc người khác nhau.
    Nguyên Ngọc đã thấy mọi vấn đề ở Tây Nguyên, từ tâm linh, tình cảm, tri thức, văn hóa, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng đều nằm ở vai trò của rừng, sự tồn tại của rừng, và cách hành xử với nó, nghĩa là với cộng đồng bản địa. Ảnh: TL

    Đọc tập bút ký của Nguyên Ngọc, thấy rõ ràng văn hóa Tây Nguyên là một nền văn hóa khác biệt, và là một sự khác biệt cần phải, rất đáng được trân trọng, cho dẫu đó là sự khác biệt của một thiểu số. Có thể nói, Nguyên Ngọc đã trầm mình vào nó, quan sát, cảm nhận, đánh giá nó với tư cách của một người bên trong chứ không phải một người ở bên ngoài hay ở bên trên. Bởi thế, dễ hiểu tại sao ông đã viết, với đầy sự tự hào về vẻ đẹp của nhà rông Tây Nguyên, vẻ thanh nhã cao quý của già làng Tây Nguyên trong đêm kể sử thi.
    Bởi thế, dễ hiểu tại sao ông đã viết, rất say sưa và đầy sự đồng cảm, về bản tính thích đi lang thang vô định của người Tây Nguyên, quan niệm của họ về cái sống và cái chết, đàn ông và đàn bà, hôn nhân và tình dục, làm và chơi, tích lũy và đem cho v.v… Phải đắm đuối với Tây Nguyên đến thế (đắm đuối nhưng tỉnh táo!) ông mới có thể làm được một sự liên hệ thú vị giữa lễ thổi tai với rượu cần, và nhận ra ở đó một triết lý:
    Nhớ và quên, ngẫm mà xem, phải chăng nói cho cùng đó là hai lẽ sinh tồn tuy hai mà một, hai mặt chủ yếu không thể tách rời của công cuộc làm người ở đời. Không biết nhớ thì hiển nhiên không thể là con người rồi. Song sống mà không biết quên, không có những lúc biết quên đi đến mức “nẻ cả lỗ tai” thì cũng chẳng thể nào sống nổi trên cõi nhân gian biết mấy khổ đau, quá phức tạp và nhiêu khê này. Cuộc đời này, phải chăng lắm lúc cũng đáng quên biết bao nhiêu, quên phứt đi cho rảnh, cho rồi, mà ngẫm cho cùng cũng lại đáng sống để mà nhớ lấy biết bao nhiêu” (bài Lễ thổi tai và rượu cần, tr.314).
    Đó là minh triết mà Nguyên Ngọc nhận được từ văn hóa Tây Nguyên. Minh triết của rừng.
    Hoài Nam