Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

Vụ án tỷ đô

17-7-2017
Ông Trịnh Vĩnh Bình. Ảnh: internet
Đến gần đây tôi mới để ý và tìm hiểu về vụ kiện có lẽ là chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, đó là việc một cá nhân khởi kiện một chính phủ của một quốc gia ra tòa án, trọng tài quốc tế để xét xử. Đó là vụ án Trịnh Vĩnh Bình kiện Nhà nước CHXHCNVN về bồi thường thiệt hại về kinh tế (tài sản) và quyền liên quan đến nhân thân mà ông này bị xét xử theo luật pháp Việt Nam trong cùng một vụ án hình sự vào cuối những năm của thập niên 1990s.
Nhà nước Việt Nam nên nhớ cho vụ kiện hãng hàng không VNA (Vietnam Airlines) đã từng thua kiện tại tòa án ở Ý bởi nguyên đơn là một luật sư người nước này. Và hãng hàng không VNA vì chủ quan và nghĩ rằng một vụ kiện ở nước ngoài như vậy là không đáng kể và cũng không ảnh hưởng gì tới họ mặc dù có phán quyết của tòa án đi nữa, nên VNA đã hầu như im lặng trước tất cả các thông báo và triệu hồi tố tụng của tòa án ở Ý gửi sang với các yêu cầu phản hồi cũng như cung cấp chứng cứ chứng minh cho chính bị đơn. Nhưng chính suy nghĩ “ao làng” này đã khiến VNA phải trả một cái giá quá đắt khi bị đóng băng tài khoản và các hoạt động bay, khai thác hành khách ở Pháp, khi luật sư này đã yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án của tòa án ở Ý tại quốc gia được mệnh danh là kinh đô ánh sáng. Và tất nhiên, VNA đã phải móc hầu bao để chi trả khoảng 8 triệu Mỹ kim (tám triệu đô-la Mỹ) để thực hiện bản án mà tòa đã tuyên cho nguyên đơn người Ý kia.
Nay lại xuất hiện một vụ kiện nữa, lớn hơn rất nhiều lần vụ tranh chấp kinh tế về hàng không với doanh nghiệp quốc doanh vừa nêu trên. Doanh nhân Hà Lan gốc Việt kiện Nhà nước CHXHCNVN yêu cầu bồi thường phần tài sản đã bị tịch thu vào năm 1999 và việc bắt giam oan sai. Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Hà Lan năm 1994, và có các điều kiện về bảo hộ, bảo đảm tài sản và việc tham gia giải quyết tranh chấp theo thủ tục tòa án hoặc trọng tài.
Ông Trịnh Vĩnh Bình (người nước ngoài) đã khởi kiện vụ án này vào năm 2003, đến năm 2005 thì có vẻ như đã có thể thương lượng được nên các thủ tục giải quyết vụ việc đã được đình hoãn mà không có thông tin gì khác. Đến năm 2013 (*), ông Trịnh Vĩnh Bình lại tiếp tục có đơn kiện Nhà nước CHXHCNVN ra trọng tài quốc tế ở Stokholm, Thụy Điển. Và ông này yêu cầu phía Việt Nam phải bồi thường một con số lên tới khoảng 1 (một) tỷ USD.
Việc khởi kiện tại trọng tài quốc tế là một hành vi rất khôn ngoan và đầy tính toán, bởi Việt Nam đã tham gia Công ước New York 1958, hiện nay có 130 quốc gia là thành viên. Và mỗi một phán quyết trọng tài, có tính chung thẩm – tức có hiệu lực ngay, sẽ có hiệu lực thi hành đối với không chỉ quốc gia chịu phán quyết mà có thể được thi hành tại bất kỳ quốc gia nào là thành viên của công ước này. Điều này bắt buộc Việt Nam phải tham gia một cách tích cực và chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi của mình, nếu không sẽ mất quyền phản đối và quyền tự bảo vệ trong thủ tục tố tụng trọng tài.
Việc xem xét trước hết là về thẩm quyền trọng tài, sau đó đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài (đương nhiên Hiệp định song phương giữa Hà Lan và Việt Nam là không cần xem xét đến hiệu lực nữa), luật áp dụng để giải quyết về mặt nội dung của vụ án và cuối cùng là quy tắc tố tụng trọng tài nào sẽ được áp dụng để tố tụng.
Theo các thông tin thì ông Trịnh Vĩnh Bình đã thuê một hãng luật lớn ở Mỹ để theo đuổi vụ kiện. Còn phía Việt Nam đã sử dụng hãng luật của Pháp để tư vấn và đại diện pháp lý. Vụ kiện sẽ được mở vào ngày 21/08/2017 tới đây để xét xử yêu cầu của nguyên đơn đối với các đòi hỏi về bồi thường thiệt hại đối với tài sản và việc chống lại bản án hình sự mà ông Bình cho rằng oan sai và là vi phạm về quyền nhân thân đối với ông này.
Nếu không theo sát và tiếp tục tư duy coi thường luật pháp quốc tế, dùng chính trị để chi phối xét xử, không thận trọng trong các tranh chấp vượt ra ngoài ranh giới quốc gia, thì cái giá phải trả sẽ vô cùng lớn. Nếu không thể bảo vệ được mình trong vụ kiện, thì trước hết là thiệt hại tài sản là một con số khổng lồ đối với ngân khố đang cạn kiệt, và hơn thế là các cơ hội đầu tư quốc tế cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng về sau này.
____
(*) Đúng ra ông Trịnh Vĩnh Bình nộp đơn kiện vào năm 2014, không phải 2013 như thông tin trong bài. Tháng 4 năm 2014,  ông Trịnh Vĩnh Bình thuê văn phòng luật sư King & Spalding LLP, một văn phòng luật sư lớn tại Mỹ, để kiện Việt Nam ra tòa án quốc tế. Phiên xử đầu tiên dự kiến ngày 21/8/2017, tại Paris

Thứ Ba, 4 tháng 7, 2017

Những sai lầm trong bài viết về đảo Tri Tôn của BBC


Để ý thấy lúc này BBC viết bài sai khá nhiều, nhứt là các bài về chuyên môn. Lý do bị VOV định hướng hay thiếu người vậy ?
Bài viết về đảo Tri Tôn, tôi đọc còn nóng hổi vì mới ra lò, là điển hình tiêu biểu.
Vụ tàu khu trục Mỹ đi qua hải phận 12 hải lý của đảo Tri Tôn, các chuyên gia, nhà báo người Mỹ xem đó là thông điệp Mỹ “không công nhận tuyên bố chủ quyền” của tất cả các nước có yêu sách (VN, TQ và Đài loan), hay là “thách thức đường cơ sở” của TQ. Tôi không có ý kiến. Ai muốn hiểu sao hiểu.
Theo tôi, chiếu theo điều 17 luật Quốc tế về Biển, “quyền qua lại không gây hại”, thì tàu khu trục của Mỹ, hay của bất kỳ nước nào, đều có quyền qua lại lãnh hải của đảo Tri Tôn, (hay lãnh hải của bất kỳ quốc gia nào đó).
Chiến dịch “freedom-of-navigation operation” gọi tắt là FONOP của Mỹ là phản ảnh trên thực tế điều 17 của Luật Biển quốc tế.
Vấn đề là luật Biển của TQ buộc các tàu qua lại trong lãnh hải nước họ (tức trong vòng 12 hải lý) thì phải xin phép trước.
Theo tôi, hợp lý thì việc tàu chiến Mỹ đi qua vùng hải phận đảo Tri Tôn là thách thức bộ luật biển của TQ. Đơn giản vì bộ luật này không phù hợp với luật quốc tế.
Điểm sai thứ nhứt của bài viết, trong đoạn dẫn sau đây:
“Năm 1932, Pháp tuyên bố đưa quần đảo Hoàng Sa vào thuộc Liên bang Đông Dương và lập một trạm khí tượng tại đây.”
Sai là vì Pháp sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào Việt Nam chớ không phải vào Liên bang Đông dương.
Thoạt tiên vào tháng 8 năm 1925 Toàn quyền Đông dương tuyên bố quần đảo Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratleys) là những lãnh thổ thuộc Pháp.
Năm 1931, nhân lúc nhà cầm quyền Trung Hoa cho đấu thầu khai thác phân chim (guano) trên các đảo Hoàng Sa, chính phủ Pháp gởi công hàm phản đối đồng thời tuyên bố chủ quyền tại quần đảo này (ngày 4 tháng mười hai năm 1931).
Ngày 13 tháng tư năm 1932 Pháp gởi công hàm minh thị VN có chủ quyền lịch sử tại Hoàng Sa. Pháp tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa với tư cách là nhà nước bảo hộ. Cùng thời kỳ Pháp yêu cầu nhà cầm quyền Trung Hoa giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế nhưng TH từ khước.
Điểm sai thứ hai, trong đoạn dẫn sau đây:
“Sau năm 1954, khi Hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam (tạm thời), con số quốc gia tuyên bố chủ quyền tăng lên gấp đôi.
Sai vì không hề có việc “số quốc gia tăng gấp đôi”.
Theo hiệp định Genève 1954, hai bên nam và bắc VN là “hai miền” thuộc về một quốc gia duy nhứt, thống nhứt ba miền bắc trung nam, độc lập và có chủ quyền.
Hai bên Trung hoa, lục địa và Đài Loan, từ khi Tưởng Giới Thạch thua trận Mao Trạch Đông và chạy ra cát cứ Đài loan, năm 1949 đến nay, luôn giữ nguyên tắc “một quốc gia duy nhứt”.
Đài loan và TQ cùng tuyên bố chủ quyền ở HS. Nhưng hai bên có chung nền tảng là Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Hoa.
Điểm sai khác, không thành vấn đề như cũng ghi vô. Là phe Mao không hề “tiếp quản” HS từ tay phe Tưởng, như bài báo đã ghi. Quân Quốc dân đảng (thấy giữ không được) nên rút bỏ.
Điểm sai thứ ba, trầm trọng nhứt, đó là đoạn dẫn sau đây:
“Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng nói họ mới là bên có chủ quyền chính đáng từ tất cả những gì người Pháp trao trả lại.”
Hoàn toàn sai.
VNDCCH chưa hề có một tuyên bố bất kỳ nào về chủ quyền HS và TS, ngoại trừ công hàm 1958 do Phạm Văn Đồng ký tên. Nhưng nội dung công hàm này VNDCCH lại nhìn nhận chủ quyền các đảo HS và TS thuộc về TQ.
Còn về ý kiến VNDCCH có “quyền chính đáng”, ở “tất cả những gì người Pháp trao lại”, theo tôi, có lẽ tác giả đã nằm mơ, hay tự “sáng tác” ra thêm.
“Kế thừa” di sản chính đáng, được sự nhìn nhận của quốc tế, từ các thời vua chúa xa xưa, cho đến các chúa nhà Nguyễn, sau đó triều đình nhà Nguyễn, rồi đến nhà nước thuộc địa… là “Quốc gia Việt Nam” của ông Bảo Đại (thành lập theo Hiệp ước Elysée 1948). Sau đó là hai nền đệ nhứt và đệ nhị VNCH.
Nhà nước Pháp đã tuyên bố “caduc - vô hiệu lực” tất cả các kết ước giữa Pháp và VN, sau 1975, vì sự im lặng của VNDCCH (sau khi chiếm được miền Nam).
"Xù" hết, phủi sạch trơn, kế thừa cái gì ?


* Bài của BBC: 
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-40484726

Thứ Hai, 3 tháng 7, 2017

Nhân nhượng hay chiến tranh tại Biển Đông

Nguyễn Quang Dy
 “Một dân tộc tìm cách tránh chiến tranh bằng cái giá của sự nhục nhãthì cuối cùng sẽ nhận lấy cả sự nhục nhã và chiến tranh” (Winston Churchill).
Nhân nhượng Trung Quốc hay chiến tranh tại Biển Đông? Đó là cách nhìn bàn cờ Biển Đông bằng lăng kính trắng đen của một số học giả và chính khách phương Tây (và phương Đông). Về cơ bản, họ cho rằng đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc là “diều hâu”, sẽ dẫn đến chiến tranh, vì vậy phải nhân nhượng Trung Quốc. Đó là quan điểm nhầm lẫn của một số học giả như Hugh White (Lowy Institute) hay Lyle Goldstein (Naval War College).

Hệ quả của nhân nhượng

Thực tế bàn cờ Biển Đông vốn phức tạp với nhiều ẩn số và biến số, cũng như Châu Á là một bức tranh mosaic nhiều màu sắc đa dạng. Không thể thay đổi được bức tranh đó, nhưng cần thay đổi cách nhìn về nó, mới có thể tìm được giải pháp hiệu quả. Không nhất thiết phải nhân nhượng hay chiến tranh với Trung Quốc như trò chơi một mất một còn (zero sum). Một đường lối cứng rắn không nhất thiết dẫn đến chiến tranh, mà có khi ngược lại.
Trong tám năm cầm quyền, Tổng thống Obama đã nhân nhượng Trung Quốc, tuy ông và ngoại trưởng Hillary Clinton đề xướng chủ trương xoay trục sang Châu Á (hay tái cân bằng) và thúc đẩy Hiệp định TPP làm chỗ dựa để Mỹ và đồng minh kiềm chế Trung Quốc. Đó là một chủ trương đúng, nhưng thực hiện thiếu quyết liệt, vì nhân nhượng Trung Quốc. Tuần tra biển Đông (FONOPs) cũng làm chiếu lệ vì “đi qua vô hại” (innocent passage) như “tiếng kèn ngập ngừng” do Obama “lãnh đạo từ phía sau”. Một chính sách nhân nhượng như vậy (với lý do để tránh né chiến tranh) là phản tác dụng và có thể gây nguy hiểm cho khu vực.  
Thứ nhất, Trung Quốc sẽ hiểu sự nhân nhượng đó là dấu hiệu nhu nhược, nên họ càng làm già, thậm chí còn tạo ra khủng hoảng để hù dọa chiến tranh (brinkmanship). Lãnh đạo Trung Quốc đã nắn gân Obama tuy có tư tưởng đúng nhưng thiếu quyết liệt nên họ không sợ, thậm chí coi thường. Vì vậy Trung Quốc đã tranh thủ chiếm bãi cạn Scarborough của Manila (2012). Trung Quốc biết Hạm đội 7 tuy rất mạnh, có nhiều tàu chiến và máy bay hiện đại, nhưng Nhà Trắng lại “non gan” (no balls). Lịch sử đã lặp lại từ năm 1974 khi Trung Quốc chiếm Hòang Sa, và năm 1988 khi họ chiếm một phần Trường Sa, nhưng Mỹ không phản ứng.
Thứ hai, các nước Đông Nam Á cũng hiểu Mỹ nhân nhượng Trung Quốc là dấu hiệu nhu nhược, có thể bỏ rơi họ vì “nước Mỹ trước tiên” (America first), nên một số nước đã xoay trục ngả theo Trung Quốc. Các nước đồng minh của Mỹ (có căn cứ quân sự) như Philippines và Thailand đã xoay trục trước, bỏ Mỹ theo Tàu. Đó là một nghịch lý, do chính sách của Mỹ xô đẩy họ chứ thực sự họ không muốn thế. Các nước khác độc lập hơn, có truyền thống chống Tàu (như Việt Nam và Indonesia) cũng buộc phải ứng xử nước đôi bằng cách “đu dây”.  
Thứ ba, Trung Quốc đã tranh thủ “cơ hội vàng” này để bành trướng và quân sự hóa Biển Đông, nhằm từng bước biến nó thành cái ao riêng của họ. Trung Quốc không chỉ muốn kiểm soát Biển Đông, mà còn độc chiếm luôn nguồn tài nguyên (dầu khí và đánh cá). Vì vậy, họ đã ráo riết thay đổi thực địa và áp đặt chủ quyền theo “đường lưỡi bò” (đã bị phán quyết của tòa PCA bác bỏ). Nếu Mỹ tiếp tục nhân nhượng thì đến năm 2030, Biển Đông sẽ trở thành cái ao của Trung Quốc (Asia-Pacific Rebalance 2025 report, CSIS, January 19, 2016).
Những dấu hiệu mới
Chính quyền Obama (và các chính quyền Mỹ trước đó) đã “có công” giúp Trung Quốc trỗi dậy bằng chính sách “Constructive Engagement”, nên họ đã trở thành “quái vật Frankenstein” (theo lời cựu Tổng thống Richard Nixon). Trung Quốc còn tham vọng muốn thâu tóm Biển Đông làm bàn đạp để giúp họ thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”, với quốc sách “Một vành đai, Một con đường”, nhằm vượt Mỹ để trở thành siêu cường đứng đầu thế giới. Đến lúc đó, nếu Mỹ muốn ngăn chặn Trung Quốc thì chắc đã quá muộn (too little too late).

Một số học giả theo trường phái realism, nhưng lại thiếu thực tế về khu vực, vì họ chỉ quan tâm đến cân bằng lực lượng giữa các nước lớn (như megapowers), mà không thực sự quan tâm đến lợi ích các nước nhỏ trong khu vực (như micropowers). Họ không quan tâm (hoặc vô cảm) trước một thế giới mới với bản chất quyền lực đã thay đổi, và cấu trúc quyền lực đã chuyển dịch. Trong khi các megapowers bị suy tàn (decay) và mất dần quyền lực, thì các micropowers có vai trò ngày càng lớn hơn, không chỉ tại nước Mỹ mà còn khắp thế giới.

Trong khi hệ thống quyền lực chính thống (mainstream) bị suy tàn (như Moises Naim lập luận trong cuốn sách “the End of Power”), thì Trumpism (và Brexitism) là hiện tượng mới bất thường, đang làm đảo lộn thế giới. An ninh quốc tế ngày càng bất ổn, đặc biệt là tại Biển Đông, trước nguy cơ Trung Quốc trỗi dậy, bắt nạt các nước láng giềng yếu hơn và đòi thay đổi trật tự thế giới. Liệu “Trục người lớn” (Axis of Adults) có ngăn được Trump trở thành “Chump” (như Tom Friedman cảnh báo) có thể làm Trung Quốc (chứ không phải Mỹ) vĩ đại trở lại (making China great again). Theo Richard Haass (Council on Foreign Relations president), chính sách đối ngoại của Trump là tạm bợ (adhocracy), dựa trên ứng phó (improvisations).   

Nói cách khác, liệu James Mattis, HR McMaster, Rex Tillerson… có đủ khôn ngoan và thực tế để không trở thành những chính khách realist ngộ nhân, lăp lại những sai lầm tai hại, nhân nhượng Trung Quốc quá đà, như chính phủ Chamberlain của Anh đã nhân nhượng Hitler bằng chính sách appeasement đầy tai tiếng trong lịch sử. Rốt cuộc, nhân nhượng kiểu Chamberlain không ngăn được nước Đức Phát xít thôn tính Châu Âu. Gần đây, phát biểu của James Mattis và Malcom Turnbull tại Shangri-La Dialogue (3/6/2017) là một dấu hiệu mới tích cưc là Mỹ và đồng minh bắt đầu cứng rắn hơn với Trung Quốc, không để Trump bị ngộ nhận mắc mưu Tập Cận bình, trao đổi vấn đề Biển Đông với vấn đề Bắc Triều Tiên.

Điều đáng chú ý là những dấu hiệu điều chỉnh thái độ của Mỹ và đồng minh (như Nhật, Úc, Ấn) trùng hợp với điều chỉnh thái độ của Việt Nam đang xích lại gần Mỹ và Nhật, qua hai chuyến đi Mỹ và Nhật gần đây của thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Thái độ của Hà Nội đã cứng rắn hơn về chủ quyền và thăm dò dầu khí tại Biển Đông, bất chấp đe dọa của Trung Quốc, muốn ép Hà Nội dừng hoạt động thăm dò dầu khí tại hai dự án nhạy cảm là Cá Voi Xanh (Blue whale) tại lô 118 (hợp tác với Exxon Mobil của Mỹ) và Cá Rồng Đỏ (Red Dragon Fish) tại lô 136-3 (hợp tác với Talisman của Úc/nay là Repsol của Tây Ban Nha).

Thay lời kết

Thái độ cứng rắn hơn của Hà Nội phản ánh kết quả của những hoạt động ngoại giao gần đây giúp tăng cường cam kết và hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt và Nhật-Việt, không chỉ liên quan đến chủ trương khai thác tài nguyên dầu khí tại Biển Đông (oil politics) mà còn liên quan đến trò chơi cân bằng quyền lực (power politics) trong tam giác Mỹ-Trung-Nhật. Một liên minh khu vực vì an ninh tập thể (a regional coalition for collective security) dựa trên nền tảng TPP, là một sự răn đe hiệu quả để duy trì hòa bình. Lời Mở đầu (Preamble) của Hiến chương UNESCO đã khẳng định, “Vì chiến tranh bắt đầu từ trong tâm thức con người, nên phải xây dựng phòng tuyến hòa bình ngay trong tâm thức con người” (Since wars begin in the minds of men, it is in the minds of men that the defenses of peace must be constructed).

Nếu Việt Nam trở thành đối tác chiến lược của Mỹ và Nhật, thì quy chế đặc biệt về Cam Ranh giành cho đồng minh là tất yếu, làm bàn cờ Biển Đông thay đổi. Thời gian không còn nhiều để tiếp tục trò chơi bập bênh và đu dây, trong khi Biển Đông đang trở thành cái ao của Trung Quốc. Khi Alexander Vuving viết “Ai kiểm soát Biển Đông sẽ thống trị châu Á, và bất cứ ai thống trị châu Á sẽ thống trị thế giới.” thì chắc chắn anh ấy nghĩ tới Trung Quốc. Chống lại nguy cơ đó, Mỹ không nhất thiết sa vào bẫy Thucydides như Graham Allison cảnh báo, mà ngược lại nhân nhượng Trung Quốc quá đà sẽ làm tăng thêm nguy cơ chiến tranh. Trong khi người Trung Quốc đánh ván cờ Biển Đông theo lối cờ vây, vận dụng binh pháp Tôn Tử (Sun Tzu) thì người Mỹ và phương Tây không nên chỉ chấp vào học thuyết Clausewitz. 

Tham khảo
Ely Ratner, “The false choice of war or accommodation in the South China Sea”, Lowy Institute, 30 June 2017;
Hugh White, “South China Sea US policy must begin at home”, Lowy Institute, 26 June 2017
Ely Ratner, “Course Correction: How to Stop China’s Maritime Advance”, Foreign Affairs, July/August 2017)
Tom Friedman, “Trump Is China’s Chump, New York Times, June 28, 2017
Doug Bandow, “Who Is Making U.S. Foreign Policy?”, National Interest, June 26, 2017
Lyle Goldstein, “The Main Problem with America’s Abundant South China Sea Hawks”, National Interest, October 28, 2015.
Alexander Vuving, “Think again: Myths and Myopia about the South China Sea”, National Interest, October 16, 2015;  
Lyle Goldstein, “The South China Sea Showdown: 5 Dangerous Myths, National Interest, September 29, 2015;
Alexander Vuving, “Trung Quốc sẽ làm gì ở Biển Đông?”, Đại sử ký Biển Đông, 21/2/2016.
Nguyễn Quang Dy, “Trung Quốc CÓ THỂ làm gì ở Biển Đông? Viet-studies, 26/2/2016

NQD. 1/7/2017