Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2019

Họ đang làm gì với Cái Lớn – Cái Bé?

Trần Văn

Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn (Bộ NN – PTNT) vừa phê duyệt “Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1” (1). Động tác này chẳng khác gì việc định nghĩa lại cống hiến theo hướng: Vận động trí thức hiến hết tâm lực, trí lực để giới hữu trách vứt xuống… cống!
***

Bộ NN – PTNT trình “Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1” cho Thủ tướng Việt Nam hồi tháng 4 năm 2017 và 12 ngày sau, dự án trị giá 3.309,5 tỉ đồng này được Thủ tướng Việt Nam phê duyệt.
Trong khi Bộ NN – PTNT Việt Nam khẳng định, dự án vừa giúp kiểm soát mặn trong khu vực có diện tích 909.000 héc ta, vừa giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu thuộc lưu vực sông Cái Lớn - Cái Bé. Đồng thời, góp phần phát triển thủy sản ở vùng ven biển Kiên Giang. Chủ động ứng phó biển đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển để giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt vào mùa khô, phòng chống cháy rừng, đặc biệt trong những năm hạn hán, góp phần phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn và kết hợp phát triển giao thông thủy bộ trong vùng dự án... thì nhiều chuyên gia phân tích đó là ảo vọng, không chỉ làm công khố mất toi 4.000 tỉ mà còn hủy diệt môi trường, kinh tế, xã hội ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Ông Nguyễn Hữu Thiện, một chuyên gia nghiên cứu độc lập về ĐBSCL, từng chỉ ra hàng loạt điểm bất ổn về đủ mặt: Mức độ cần thiết. Mức độ cấp bách. Tính khả thi. Tác động môi trường. Sẽ gây hối tiếc cao. Cơ sở để truy cứu trách nhiệm,… Ông Thiện phân tích, lịch vận hành – lõi của dự án – được dự trù 24 ngày/năm (mỗi lần sáu ngày, tương đương bốn lần/năm) là hết sức vô lý vì không xác định khác biệt giữa năm có lũ và năm bị hạn hán. Cũng vì vậy, ông thắc mắc, thời hạn sử dụng của công trình là cả trăm năm, khi công trình hoàn tất, ai dám khẳng định là trong 100 năm ấy mọi thứ sẽ ổn định để lịch vận hành luôn luôn như thế? Ông Thiện lên án các viên chức hữu trách liên tục đem biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao ra hù dọa công chúng để có cớ thực hiện dự án: Nước biển sẽ dâng 65 cm vào năm 2100 là giả định. Nếu giả định đó đúng, không phải 909.000 héc ta ở ĐBSCL sẽ chìm trong nước và 3,6 triệu người hết đất sống. Thời điểm ấy, chắc chắn cư dân trong khu vực này không chỉ có 3,6 triệu như Bộ NN – PTNT tính toán để khăng khăng đòi chi 4.000 tỉ đồng ngay vào lúc này (2)…
Tương tự, ông Dương Văn Ni, một chuyên gia về đa dạng sinh học, làm việc tại Đại học Cần Thơ, lưu ý, hai sản phẩm chủ lực của Bán đảo Cà Mau là lúa và tôm. Cả hai vốn có nhu cầu mâu thuẫn với nhau về nguồn nước: Tôm cần nước có độ mặn còn lúa thì không. Vấn đề của ĐBSCL là sự đa dạng về cây trồng, vật nuôi, chứ không phải giải mâu thuẫn mặn ngọt như dự án nhắm tới. Ông Ni cảnh báo: Không nhìn ra điều đó, chính quyền địa phương – được giao trách nhiệm giữ gìn công trình - sẽ xem dân chúng như những kẻ phá hoại, còn dân chúng sẽ nhìn chính quyền địa phương đối tượng cản trở họ kiếm sống. Giống như ông Thiện, ông Ni, sau khi phân tích cặn kẽ cả bốn mục tiêu của “Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1”, ông Lê Anh Tuấn, Viện phó Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu của Đại học Cần Thơ, kết luận: Cả bốn mục tiêu đều thiếu khả thi, không thuyết phục và không nên thực hiện vào thời điểm này (3). Ông Nguyễn Ngọc Trân, người từng là Chủ nhiệm một chương trình nghiên cứu cấp quốc gia về ĐBSCL trong bảy năm từ 1983 đến 1990, tán thành và nhắc nhở: “Phải cân nhắc để đầu tư không hối tiếc”!Trong khi Bộ NN – PTNT Việt Nam khẳng định, dự án vừa giúp kiểm soát mặn trong khu vực có diện tích 909.000 héc ta, vừa giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu thuộc lưu vực sông Cái Lớn - Cái Bé. Đồng thời, góp phần phát triển thủy sản ở vùng ven biển Kiên Giang. Chủ động ứng phó biển đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển để giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt vào mùa khô, phòng chống cháy rừng, đặc biệt trong những năm hạn hán, góp phần phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn và kết hợp phát triển giao thông thủy bộ trong vùng dự án... thì nhiều chuyên gia phân tích đó là ảo vọng, không chỉ làm công khố mất toi 4.000 tỉ mà còn hủy diệt môi trường, kinh tế, xã hội ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Ông Nguyễn Hữu Thiện, một chuyên gia nghiên cứu độc lập về ĐBSCL, từng chỉ ra hàng loạt điểm bất ổn về đủ mặt: Mức độ cần thiết. Mức độ cấp bách. Tính khả thi. Tác động môi trường. Sẽ gây hối tiếc cao. Cơ sở để truy cứu trách nhiệm,… Ông Thiện phân tích, lịch vận hành – lõi của dự án – được dự trù 24 ngày/năm (mỗi lần sáu ngày, tương đương bốn lần/năm) là hết sức vô lý vì không xác định khác biệt giữa năm có lũ và năm bị hạn hán. Cũng vì vậy, ông thắc mắc, thời hạn sử dụng của công trình là cả trăm năm, khi công trình hoàn tất, ai dám khẳng định là trong 100 năm ấy mọi thứ sẽ ổn định để lịch vận hành luôn luôn như thế? Ông Thiện lên án các viên chức hữu trách liên tục đem biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao ra hù dọa công chúng để có cớ thực hiện dự án: Nước biển sẽ dâng 65 cm vào năm 2100 là giả định. Nếu giả định đó đúng, không phải 909.000 héc ta ở ĐBSCL sẽ chìm trong nước và 3,6 triệu người hết đất sống. Thời điểm ấy, chắc chắn cư dân trong khu vực này không chỉ có 3,6 triệu như Bộ NN – PTNT tính toán để khăng khăng đòi chi 4.000 tỉ đồng ngay vào lúc này (2)…
***
“Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1” đã buộc một nhóm sáu nhà khoa học (Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Nguyễn Hồng Tín, Đặng Kiều Nhân) vốn gắn bó với ĐBSCL tiến hành khảo sát, đánh giá hiệu quả các hệ thống ngăn mặn từng được thực hiện trước đó (Ngọt hóa bán đảo Cà Mau, Cống đập Ba Lai, Thoát lũ ra biển Tây, Âu thuyền Tắc Thủ...) (4).
Theo kết quả cuộc khảo sát đó, những hệ thống ngăn mặn mà hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam từng thực hiện trong quá khứ tại ĐBSCL, không chỉ vứt bỏ những khoản tiền khổng lồ, phần lớn là vay, đến nay dân chúng vẫn còn đang gồng mình đóng đủ loại thuế, phí để hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam trả cả vốn lẫn lãi, mà còn phá nát đồng bằng trù phú nhất Việt Nam này.
Bởi đắm đuối với ngăn mặn, ngọt hóa, những hệ thống ngăn mặn đẩy nông dân đến chỗ bần cùng và phong trào phá cống – đập ngăn mặn nhằm nuôi tôm kiếm sống đã lan khắp bán đảo Cà Mau trong nửa cuối thập niên 1990. Bởi những cống – đập ngăn mặn làm nước tù đọng, sông, rạch bị ô nhiễm nặng nề, không còn nguồn nước trong lành dùng cho ăn uống, tắm giặt, dân chúng ĐBSCL phải khai thác nước ngầm và đó là lý do khiến bề mặt ĐBSCL sụt lún rất nhanh – gấp nhiều lần mức nước biển dâng. Những cống – đập ngăn mặn còn là thủ phạm khiến các loại thủy sản vốn hết sức phong phú biến mất vì hệ sinh thái sông ngòi bị chuyển thành hệ sinh thái hồ. Nguồn thủy sản của sông, rạch bên trong các cống - đập ngăn mặn ít hơn bên ngoài ít nhất ba lần.
Về lý thuyết, việc đổ tiền vào đủ loại công trình ngăn mặn nhằm mở rộng diện tích trồng lúa, gia tăng số vụ lúa/năm, nâng kim ngạch xuất khẩu gạo nhưng trong thực tế, chúng làm chất lượng đất nhanh chóng suy kiệt. Chẳng riêng lúa, tất cả các loại cây trồng khác đều chậm phát triển, dễ chết, chi phí dành cho sản xuất nông nghiệp tăng vọt. Do các loại cây trồng càng ngày càng phụ thuộc vào những tác nhân hóa học (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật), môi trường sống bị đầu độc trên diện rộng. Tất cả những tác động đó hòa quyện vào nhau và hậu quả là nông dân ĐBSCL phải đốn bỏ hàng ngàn héc ta vườn cây ăn trái để trồng mía. Mía cũng thất bại nên họ buông bỏ mía, chuyển sang trồng tràm, song ngay cả tràm cũng chậm phát triển hơn nhiều nơi khác.
Đủ loại công trình ngăn mặn còn khiến các mảng cây rừng ven biển bị suy kiệt mà chết dần, sạt lở ven biển gia tăng, giờ trở thành phổ biến khắp .ĐBSCL. Giao thông đường thủy – đặc trưng và cũng là ưu thế riêng của ĐBSCL – cũng tàn lụi vì bất tiện, chi phí cao… ĐBSCL không còn là nơi đáng sống, cư dân sống bên trong các công trình ngăn mặn lũ lượt bỏ xứ tha phương cầu thực và nay, vấn nạn xã hội này dù nhãn tiền nhưng nan giải.
***
Kết quả khảo sát, đánh giá hiệu quả các hệ thống ngăn mặn từng được thực hiện trước đây ở ĐBSCL, rồi những phân tích sâu, cảnh báo cả về tính khả thi lẫn tác hại đủ mặt của “Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1” vẫn không làm giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam bận tâm. Bộ NN – PTNT vẫn phê duyệt để triển khai dự án này.
Ngoài 9,5 tỉ sẽ được rút ra từ công khố, chính phủ Việt Nam sẽ phát hành lượng trái phiếu trị giá 3.000 tỉ để thực hiện “Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1”. Ai sẽ trả cả vốn lãi cho dự án này? Toàn dân, bất kể nam, phụ, lão, ấu, kể cả những đứa trẻ chưa sinh ra đời!
Giống như những hệ thống ngăn mặn mà hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam từng thực hiện trong quá khứ tại ĐBSCL, cho dù chúng đã phá nát khu vực trù phú này nhưng toàn dân vẫn phải còng lưng gánh chi phí duy tu, bảo dưỡng, vận hành, toàn dân sẽ tiếp tục gánh thêm các chi phí tương tự phát sinh từ việc thực hiện “Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1”.
Nếu “Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1” không sinh lợi, chỉ tạo thêm tốn kém và tác hại như các chuyên gia đã cảnh báo thì sao? Chẳng sao cả. Cứ nhìn lại lịch sử các dự án: Ngọt hóa bán đảo Cà Mau, Cống đập Ba Lai, Thoát lũ ra biển Tây, Âu thuyền Tắc Thủ... nay đã thành công trình hủy diệt ĐBSCL, có ai bị truy cứu trách nhiệm không? Gần hơn, có ai bị truy cứu trách nhiệm khi gạt bỏ tất cả các ý kiến can gián, cương quyết khai thác bauxite ở Tây Nguyên không?
Không thì hà cớ gì không làm, hà cớ gì phải bận tâm đến các thông tin, ý kiến phản biện. Tâm huyết, trí lực, sức lực của đám chuyên gia, trí thức, thích luận bàn, phân tích thiệt hơn, tương lai của một khu vực, tiền đồ của một quốc gia, một dân tộc đâu có sờ, đếm được như những khoản lót tay, rải đều từ trên xuống dưới trong toàn hệ thống.
Chú thích

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2019

“Tiên tích đức, hậu tầm long” – Câu chuyện anh em nhà họ Quách

Trần Hưng

Tổ tiên người Việt từ ngàn xưa luôn dạy con cháu rằng muốn thành công thì phải có đức. Ngay cả trong giới phong thủy chân chính, vốn có thể dựa vào địa lý hay long mạch mà cải mệnh, vẫn luôn lưu truyền câu nói: “tiên tích đức, hậu tầm long”. Văn hóa cổ truyền đó ngày nay ít người thật sự tin tưởng, nhưng có không ít câu chuyện có thật được ghi chép lại là minh chứng cho điều này, trong đó phải kể đến chuyện hai anh em nhà họ Quách thời Lê sơ.

“Tiên tích đức, hậu tầm long”

Trong thời Lê Sơ ở xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình có một người họ Quách tính tình thật thà chất phác, không tranh cãi với ai. Một lần khi cuốc đất, anh ta tìm thấy một đĩnh vàng. Vốn tin vào đạo lý của trời đất, nghĩ rằng số vàng này không phải của mình nên không thể lấy được, nhưng không biết của ai, người họ Quách liền đem cất riêng ở một chỗ.
Mấy tháng sau có một người từ phương Bắc đến chỗ khu đất ấy kêu khóc, người họ Quách đến hỏi thì người khách đáp rằng tổ tiên có của để lại ở chỗ này. Người họ Quách bèn trả lại số vàng đã đào được.
Người khách cảm tạ nói: “Tôi biết qua địa lý, ở đây có hai ngôi huyệt tốt: một ngôi đời đời kế tiếp làm công khanh; một ngôi đỗ Tiến sĩ một đời. Ông thích ngôi nào, tôi sẽ để giúp để báo ơn đức.”
Người họ Quách thật thà nói rằng: “Nhà tôi nhiều đời nghèo túng, có đâu dám mong quá phận định, chỉ muốn con cháu một đời đỗ Tiến sĩ, công danh hiển hách, thế là đủ rồi.” Vị khách liền để đất giúp.
Người họ Quách đó chính là ông nội của Quách Đình Bảo. Quách Đình Bảo một vị danh thần tài đức của nhà Lê Sơ, thông minh nức tiếng sánh ngang Lương Thế Vinh thời bấy giờ. Em Quách Đình Bảo là Quách Hữu Nghiêm cũng là một vị quan tài hoa. Hai anh em ông thật sự ứng với câu nói: “…chỉ muốn con cháu một đời đỗ Tiến sĩ, công danh hiển hách, thế là đủ rồi.”

Quách Đình Bảo và Lương Thế Vinh

Vua Lê Thánh Tông xem trọng hiền sĩ, chú trọng khoa bảng. Khoa thi năm Quý Mùi 1463, sĩ tử các nơi nô nức dự thi.
Trước kỳ thi Hội khoảng 3 tháng, Lương Thế Vinh nghe tiếng Quách Đình Bảo từ lâu nên có ý định ghé thăm, đến hàng nước trước cổng làng dò hỏi thì biết rằng Đình Bảo đang đọc sách. Lương Thế Vinh nghĩ: “Kỳ thi gần đến nơi, hãy còn cố sức học, chỉ có tiếng hão thôi, chắc là anh này trong bụng chẳng có uẩn súc gì cả”, liền quay trở về, không gặp Đình Bảo.
Họ Quách
Lương Thế Vinh tìm gặp Quách Đình Bảo. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)
Lúc Đình Bảo ra hàng nước thì được nghe nói lại chuyện này, đoán biết người đó là Thế Vinh liền quyết định đến thăm. Thế nhưng khi đến nơi thì Lương Thế Vinh không có nhà, khi hỏi thì được biết Thế Vinh đang thả diều ngoài đồng cùng đám trẻ con. Đình Bảo nghĩ: “Tài học người này, ta không thể theo kịp được”. Trở về nhà, ông cũng không dùi mài khổ sở nữa.
Kỳ thi Hội năm đó Quách Đình Bảo vượt qua Lương Thế Vinh và tất cả các sĩ tử khác, đứng đầu thi Hội tức Hội nguyên.
Đến kỳ thi Đình thì Lương Thế Vinh lại đỗ đầu tức Trạng nguyên, Quách Đình Bảo đỗ Thám hoa, người đỗ Bảng nhãn là Nguyễn Đức Trinh. Đây đều là những người hay chữ từ nhỏ, vua Lê Thánh Tông trực tiếp ra bài thi văn sách rất vui mừng vì tìm được những nhân tài xuất chúng, bèn sai làm 3 lá cờ, mỗi người một lá, trong cờ thêu 4 câu sau:
Trạng nguyên Lương Thế Vinh,
Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh,
Thám hoa Quách Đình Bảo,
Thiên hạ cộng tri danh.
Truyền kỳ về khí phách của vị Trạng nguyên Tam nguyên đầu tiên trong sử Việt
(Tranh minh họa: Bìa sách về Trạng nguyên, NXB Kim Đồng)
Ba năm sau đến khoa thi năm 1466, em trai của Đình Bảo là Quách Hữu Nghiêm dự thi và đỗ Hoàng Giáp.
Điều thú vị là hai anh em họ Quách đảm nhận những chức vụ tương tự nhau. Quách Đình Bảo làm đến Lễ, Hình bộ, Thượng thư kiêm Đô ngự sử, thì sau đấy người em là Hữu Nghiêm cũng nối gót đảm nhận chức vị ấy.
Quách Hữu Nghiêm giữ chức Tả thị lang bộ lễ, năm 1484 được phong phó Đô ngự sử Ngự sử đài, năm 1500 được thăng Thái thường tự khanh. Năm 1502, ông được cử làm Chánh sứ đi sứ nhà Minh, rồi thăng làm Đô ngự sử.

Vua sáng, tôi hiền, Giang Sơn cực thịnh

Vua Lê Thánh Tông là vị Vua sáng suốt, anh minh, rời xa nịnh thần, quý trọng hiền tài giúp cho Đại Việt lên đến thời kỳ cực thịnh. Được làm quan trong môi trường ấy, hai anh em họ Quách cũng thi thố hết được tài năng của mình. (Xem bài: Chống tham nhũng từng giúp Đại Việt có được thời kỳ “ngủ đêm mọi nhà không phải đóng cửa”)
Năm 1484, Lễ bộ Thượng thư Quách Đình Bảo tâu với Vua nên dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám nhằm khuyến học tìm được hiền tài trong nước. Vua chuẩn tấu cho dựng bia tiến sĩ ghi lại họ tên, thứ bậc những người thi đậu cả những khoa thi các đời Vua trước.
Năm 1494, vua Lê Thánh Tông lập ra hội Tao Đàn tập hợp 28 vì sao sáng về thơ văn trong bầu trời Đại Việt (gọi là nhị thập bát tú) trong đó có cả Quách Đình Bảo, Quách Hữu Nghiêm, Lương Thế Vinh.
Họ Quách
(Tranh minh họa từ baophapluat.vn)
Sự tài năng của hai anh em họ Quách khiến nhà Vua tin tưởng, luôn đem các ông theo bên mình trong các trận chiến lớn. Trong cuộc tiến quân đánh Chiêm Thành, quân Đại Việt thắng lớn, Quách Hữu Nghiêm làm bài vịnh hào khí ba quân. Lúc đó ông tình cờ gặp người con gái tên Hồ Thị Thành, vốn là dòng dõi Hoàng tộc, quốc sắc thi hương thì đem lòng yêu mến. Được Vua và anh của mình vun vén, hai người đã nên duyên vợ chồng.
Năm 1471 quân Đại Việt đánh vào kinh thành Chà Bàn bắt được vua Chiêm, khiến nạn Chiêm Thành quấy nhiễu Đại Việt không còn nữa. Quách Hữu Nghiêm được cho về quê vợ, không bao lâu sau thì có được con trai đặt tên là Quách Quý Công, sau trở thành Anh Kiệt tướng quân và thành tổ chi họ Quách Hữu ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Anh Kiệt tướng quân sau này được cử làm thượng tướng, coi quân cẩm y vệ, luôn hầu giá bên vua.
Lê Quý Đôn đánh giá Quách Hữu Nghiêm “là người phóng khoáng, có tài bàn luận”.
Cuốn “Đại Việt lịch triều đăng khoa lục” ghi chép lại rằng khi Quách Hữu Nghiêm đi sứ sang nhà Minh. Một lần thấy trên sân rồng có ánh nắng chiếu qua do cái lọng bị thủng một lỗ, Vua Minh ra câu đối rằng:
Ốc lậu nhật xuyên hình như kê noãn tam tam tứ tứ.
Nghĩa là:
Nhà thủng mặt trời xuyên qua, hình như trứng gà ba ba bốn bốn.
Quách Hữu Nghiêm đối rằng:
Giang trường phong lộng thế tự long lân điệp điệp trùng trùng.
Nghĩa là:
Sông lớn gió thổi giống như vẩy rồng trùng trùng điệp điệp.
Vua Minh thấy ông đối rất chỉnh lại hùng khí lẫm liệt thì hết lời khen ngợi.
Quách Hữu Nghiêm cũng đã thể hiện tài thông minh, ứng đối mau lẹ qua các bài biểu, bài tâu đối trí, những lần được mời lên trên điện. Vì thế vua Minh ban cho ông áo đại hồng có thêu con dê thần và đám mây bằng kim tuyến xen chỉ tơ sống, chỉ gai. Đồng thời khi trở về, vua Minh cũng sai cấp cho đoàn sứ bộ một thuyền lớn.
Vua Minh còn ban cho Hữu Nghiêm 4 chữ: “Tam Đại Di Tài”. Tam Đại là ý chỉ 3 triều đại lớn là Hạ, Thương, Chu. Ý vua Minh ví ông như những nhân tài tuấn tù thời 3 Triều đại này.
Vua Minh tiễn đoàn sứ thần Đại Việt trở về nước rất trọng thể, kết quả chuyến đi rất tốt đẹp
Họ Quách
Đền Thái Phúc thờ hai anh em họ Quách. (Ảnh từ Wikipedia)
Thời kỳ vua Lê Thánh Tông là thời kỳ thịnh trị, nhà Vua trọng người hiền tài, tránh xa kẻ xấu. Trong Triều đình chỉ có “Vua sáng, tôi hiền”, quả là môi trường tốt để những bậc hiền thần như anh em họ Quách dốc lòng phục vụ cho Giang Sơn Xã Tắc. Đại Việt lên đến thời kỳ toàn thịnh.
Trần Hưng
Tham khảo tư liệu từ “Kiến văn tiểu lục”, “Tam khôi bị lục”

Thứ Tư, 22 tháng 5, 2019

Tham nhũng, an toàn thực phẩm, ô nhiễm: Quan ngại hàng đầu của người Việt

VOA

Lo lắng lớn nhất của người dân Việt Nam là an toàn thực phẩm, ô nhiễm và tham nhũng, theo một khảo sát mới nhất. Khảo sát này cũng cho thấy chính phủ chưa hành động đủ về những vấn đề này.
An toàn thực phẩm đứng đầu danh sách 13 mối quan ngại với 86% những người được vấn ý đề cập đến trong một nghiên cứu ý kiến công chúng do công ty nghiên cứ thị trường Indochina Research Vietnam Ltd thực hiện hồi cuối tháng Tư. Cùng nằm trong năm mối quan ngại hàng đầu là giáo dục và y tế. Những người thực hiện thăm dò gọi đây là điều ngạc nhiên và thú vị khi mà những kết quả này cũng giống hệt những quan ngại lớn nhất của người Việt trong cuộc thăm dò hai năm trước.
“Kết quả này cũng tương tự như hồi năm 2017 và cho thấy những vấn đề mà người dân quan tâm vẫn còn đó và chưa được giải quyết,” Indochina Research, vốn có trụ sở ở thành phố Hồ Chí Minh, nhận định.
Mặc dù những vấn đề này tồn tại qua nhiều năm, nhưng nếu xem xét kỹ hơn số liệu sẽ cho thấy có sự khác biệt theo giới tính, thu nhập và địa lý.
Ví dụ như vấn đề ô nhiễm, vốn nắm giữ vị trí thứ hai trên toàn bảng tổng sắp. Nhưng người dân ở Hà Nội lo lắng nhiều hơn với 82% người được vấn ý đề cập đến, so với 73% ở thành phố Hồ Chí Minh. Vị trí địa lý giải thích cho sự khác biệt này do thủ đô Hà Nội nằm gần hơn với các tỉnh miền Nam Trung Quốc vốn đông đúc các nhà máy sản xuất và điều này vẫn luôn tạo ra không khí bẩn nhiều hơn ở Hà Nội so với thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy người dân trên cả nước xem không khí là nguy cơ ngày càng tăng. Người dân Việt Nam không thể chấp nhận việc các doanh nghiệp kiếm tiền bằng cách làm ô nhiễm môi trường.
“Ô nhiễm đã từng được chấp nhận là hậu quả phụ của quá trình phát triển công nghiệp và được đề cập như là tiến bộ kinh tế,” tác giả Thu Vân viết trên một bài xã luận trên tờ Việt Nam News, cơ quan ngôn luận của chính phủ, và kêu gọi các quan chức chính phủ phải hành động. “Đã đến lúc họ phải xem ô nhiễm là cuộc khủng hoảng sức khỏe của công chúng.”
Tác giả bài báo cho rằng quốc gia đông nam Á này cần phải giảm số lượng xe hơi lưu thông trên đường, buộc các tài xế phải sử dụng nhiên liệu thân thiện với môi trường, trấn áp các xí nghiệp gây ô nhiễm và chuyển hướng ra khỏi các nhà máy nhiệt điện than.
Các câu phản hồi trong cuộc khảo sát của Indochina Research cũng khác biệt theo giới tính. Công ty này cho biết nữ giới có khuynh hướng bày tỏ quan ngại về quấy rối tình dục, y tế và an toàn thực phẩm nhiều hơn so với nam giới.
Kết quả đó cũng phù hợp với kết quả của một nghiên cứu hồi tháng 3 do Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) đồng tài trợ.
“Phụ nữ để ý đến những vấn đề tinh tế hơn,” bà Caterina Meloni, cố vấn về giới tính và hội nhập xã hội của dự án Green Invest Asia của USAID, nhận định. “Họ tìm kiếm những cách tốt nhất để chi tiêu thu nhập của họ để bảo vệ sức khỏe gia đình, sự bền vững của đất nước họ, và sự an lạc của cộng đồng.”
Nghiên cứu của Green Invest Asia cho thấy an toàn thực phẩm là một vấn đề lo lắng ở Việt Nam nhiều hơn ở Indonesia, Philippines hay Singapore.
“An toàn thực phẩm là quan ngại hàng đầu của phụ nữ ở Việt Nam, nơi phụ nữ sẵn sàng trả thêm một số tiền lên đến 30% mức giá cho những thực phẩm hữu cơ được chứng nhận là bền vững và tỷ lệ này cao hơn ở những quốc gia được khảo sát khác,” cơ quan này cho biết trong một thông cáo.
Người Việt hàng ngày lo lắng bởi vì họ không biết nguồn gốc thực phẩm của họ. Vấn đề này không chỉ không hề giảm bớt kể từ khi Indochina Research thực hiện cuộc khảo sát của họ hồi năm 2017 nhưng một số nguy cơ mới cũng xuất hiện. Bên cạnh khả năng bị ngộ độc thực phẩm, cho dù là ở tiệc cưới, ở các quán nhậu hay do dịch tả lợn vốn đã lan nhanh ở châu Á trong những tháng vừa qua, trong đó có Việt Nam.
Những quan ngại khác được nêu lên trong khảo sát ý kiến mới nhất của Indochina Research là tiếp cận nước sạch, hiện tượng tăng nhiệt toàn cầu, chất lượng báo chí, cạnh tranh bất bình đẳng và phân biệt giới tính.

Thứ Ba, 21 tháng 5, 2019

Sự Sống, một Thiết kế Vĩ đại

Phạm Việt Hưng

DNA structure is an undisputable evidence to prove that life cannot be a random combination of inorganic molecules, but must be surely the result of a work which is designed purposedly to conform to the Axiom of Order. This is the most important conclusion which can be drawn from the work by Prof. Dr. Vũ Hữu Như, “The Axiom of Order and The Biological Space-Time”,…
Cấu trúc của DNA là bằng chứng không thể chối cãi chứng tỏ sự sống không thể là sự kết hợp ngẫu nhiên của các phân tử vô cơ, mà chắc chắn phải là kết quả của một công trình được thiết kế có chủ ý thích hợp với Tiên đề Thứ tự. Đó là kết luận quan trọng nhất có thể rút ra từ công trình “Tiên đề Thứ tự và Không Thời gian Sinh học” của GSTS Vũ Hữu Như,…
Muốn biết bản chất của một tư tưởng, nên biết bối cảnh ra đời của nó. Muốn biết tư tưởng cuốn sách của GS Vũ, nên biết cái không-thời-gian đã sinh ra nó. Nội dung cuốn sách này chứa đựng nhiều sự kiện khoa học trong một phạm vi rất rộng cả về không gian lẫn thời gian, từ Dịch học thời cổ đại cho đến những khám phá của sinh học phân tử vừa xảy ra trong thời đại chúng ta. Nhưng vì thời cổ đại chưa có lịch sử thành văn nên tôi xin lược duyệt phần lịch sử hiện đại chắp cánh cho cuốn sách của GS Vũ, tính từ giữa thế kỷ 19 cho tới nay.

1/ Lược sử tối giản của khoa học từ giữa thế kỷ 19 tới nay

Năm 1897, họa sĩ Paul Gauguin vẽ một bức tranh khổ lớn mô tả cảnh sinh hoạt của người thổ dân trên đảo Tahiti thuộc Pháp ở Thái Bình Dương, rồi ghi lên đó những câu hỏi tư lự về thân phận con người:
“Que sommes-nous? D’où venons-nous? Où allons-nous?” (Chúng ta là gì? Chúng ta từ đâu tới? Chúng đi về đâu?)
Đó là những câu hỏi triết học từng làm cho những tâm hồn đa cảm giàu suy tư phải day dứt. Xã hội càng xuống dốc về đạo lý, những câu hỏi ấy càng đòi hỏi được trả lời một cách nghiêm túc. Trong khi triết học loay hoay tìm câu trả lời thì khoa học hiện đại đã tự nhận lấy trách nhiệm giúp đỡ triết học. Thật vậy, chưa bao giờ sinh học và khoa học về sự sống nói chung, bao gồm cả khoa học về nhận thức, dám đặt ra cho mình những câu hỏi tương tự như câu hỏi của Gauguin:
  • Bản chất sự sống là gì?
  • Sự sống đến từ đâu?
  • Có sự tiến hóa thật không, hay đó chỉ là một ngộ nhận?
  • Ý thức là gì?
  • Nhận thức có giới hạn không?
  • Nhận thức duy lý khác với nhận thức duy cảm và duy linh ở chỗ nào?…
Những câu hỏi ấy thôi thúc con người khám phá. Trong hai thế kỷ qua, hàng loạt bí mật đã dần dần được vén mở:
  • 1848, Louis Pasteur khám phá ra Định luật Bất Đối xứng của Sự Sống, để lộ cho thấy sự sống là một tác phẩm được thiết kế một cách có chủ ý
  • 1862, với Thí nghiệm Bình cổ cong Thiên nga nổi tiếng, Louis Pasteur khám phá ra Định luật Tạo sinh (Biogenesis), khẳng định sự sống chỉ ra đời từ sự sống.
  • 1865, Linh mục Công giáo Gregor Mendel công bố các Định luật Di truyền, dẫn tới cuộc cách mạng Di truyền học trong thế kỷ 20.
  • 1953, Francis Crick và James Watson khám phá ra DNA, khởi đầu cuộc tấn công của khoa học vào thế giới sâu kín nhất của sự sống. Các công trình giải mã DNA dẫn sinh học tới ranh giới giữa khoa học và siêu hình học bởi câu hỏi: Nguồn mã DNA là gì (Mã DNA từ đâu đến)? Đây có thể là điểm tận cùng của khoa học vật chất và là điểm khởi đầu cho một thứ khoa học mới ─ khoa học về thông tin của sự sống.
Theo một hướng khác hoàn toàn độc lập với sinh học nhưng ngẫu nhiên hỗ trợ đắc lực cho sinh học, một loạt khám phá của toán học và vật lý đã dần dần từng bước vén mở thế giới thông tin trong vũ trụ, giúp các nhà sinh học khám phá ra thế giới thông tin của sự sống, từng bước tiếp cận tới thế giới ý thức và tư duy của con người:
  • 1931, Kurt Gödel khám phá ra Định lý Bất toàn, chỉ ra rằng nhận thức duy lý có giới hạn, và tồn tại những sự thật vượt ra ngoài nhận thức duy lý.
  • 1936, Alan Turing phác thảo thiết kế Máy Turing, tiền thân của computers ngày nay, đồng thời khám phá ra Sự cố dừng như một biểu hiện cụ thể của Định lý Bất toàn trong khoa học tính toán theo chương trình.
  • 1948, Claude Shannon và Nobert Wiener cho ra đời những công trình nghiên cứu quan trọng được coi là tiền thân của Lý thuyết Thông tin, dẫn tới một cuộc cách mạng triệt để cả trong đời sống thực tế lẫn triết học nhận thức, bởi lần đầu tiên thừa nhận một hiện thực phi vật chất có tác động quyết định đến mọi cỗ máy trong vũ trụ, đặc biệt là những cỗ máy sinh học. Hiện thực ấy xưa nay đứng ngoài khoa học, bởi chủ nghĩa duy vật không thừa nhận bất kể cái gì không phải là vật chất. Nhưng những tiên đề của lý thuyết THÔNG TIN đã thách thức chủ nghĩa vật chất, buộc khoa học duy vật phải thay đổi cách nhìn về thế giới, nếu nó muốn tiếp tục tiến lên để nhận thức bản chất của thế giới!
  • 1949, chiếc computer EDVAC ra mắt tại “Viện nghiên cứu đạn đạo” (Ballistics Research Laboratory) của Mỹ. Đó là một trong những chiếc computer điện tử đầu tiên có bộ nhớ và hoạt động theo chương trình dựa trên hệ nhị phân. Khoa học computer ra đời, thừa hưởng những khám phá của toán học, vật lý, sinh học, và lý thuyết thông tin, giúp con người tiến gần tới những bí mật tận cùng của sự sống.
Nói một cách hình ảnh, những khám phá khoa học trong 150 năm qua đã lần lượt bóc những lớp vỏ của “củ hành nhận thức”, cho chúng ta tiếp cận tới phần lõi trắng tinh của nó. Điều này làm cho một số người lạc quan vui mừng cho rằng khoa học sắp trả lời được những câu hỏi của Gauguin. Nhưng những người có tư duy triết học sâu sắc lại nhận ra điều ngược lại: khoa học càng tiến gần tới cái lõi của nó thì giới hạn của nhận thức lại càng lộ ra ngày một rõ nét hơn.
Trong không khí tưng bừng của những khám phá đó, một công trình nghiên cứu của GSTS Vũ Hữu Như, một nhà vật lý từng làm việc tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, đã chỉ ra ranh giới phân biệt sự sống với cái không sống nằm ở đặc trưng thứ tự  sự sống là một hệ thứ tự trong khi thế giới vô cơ thì không. Nhận định này rất quan trọng, vì nó giúp chúng ta trả lời được nhiều câu hỏi vẫn còn tranh cãi trong sinh học, đặc biệt là vấn đề nguồn gốc sự sống. Hơn thế nữa, nó mở rộng tầm nhìn của khoa học tới một khu vực mà cho tới nay khoa học vẫn “kính nhi viễn chi”, ấy là khu vực phi thứ tự.
Những tư tưởng nói trên đã được GS Vũ trình bày trong cuốn sách của ông “Tiên đề Thứ tự và Không Thời gian Sinh học”, do NXB Đại học Quốc gia Hà-nội xuất bản năm 2014, và đã được tóm tắt trong một bài báo do chính ông viết, Thứ tự và Không thứ tự; Thứ tự và Quy luật Tư duy, vừa được công bố trên mạng ngày 13/08/2018.
Từ công trình nghiên cứu này, chúng ta có thể rút ra 2 kết luận quan trọng:
  • Một – Sự sống là một hệ thứ tự, do đó nó KHÔNG THỂ là kết quả của sự kết hợp ngẫu nhiên các phân tử vô cơ, như học thuyết Abiogenesis (lý thuyết nguồn gốc sự sống của Thuyết tiến hóa) đã nói. Sự sống ắt phải là kết quả của một công trình được thiết kế một cách có chủ ý, tuân thủ Tiên đề Thứ tự.
  • Hai – Khoa học là một hệ thống nhận thức duy lý dựa trên Tiên đề Thứ tự, do đó khoa học có giới hạn ─ Khoa học là công cụ hữu hiệu để nhận thức những hệ thứ tự, nhưng bất lực khi tiếp cận tới những hệ phi thứ tự. Điều này phù hợp với tư tưởng của Định lý Gödel.
Hai kết luận nói trên là điểm đến tất yếu khi tôi lần giở từng trang sách của GS Vũ và dò dẫm từng chữ trong bài báo của ông để liên tưởng tới những gì tôi từng suy nghĩ về bản chất sự sống. Trong hành trình tư tưởng đó, tôi khám phá ra những điểm tương đồng với cách nhìn vốn có của mình về thế giới. Đặc biệt, tôi khám phá ra những luận cứ ủng hộ Lý thuyết Thiết kế Thông minh, và điều đó làm tôi thích thú reo lên trong lòng: “Mọi con đường đều dẫn tới La Mã” (Tous les chemins mènent à Rome). Những thảo luận tiếp theo đây là tiếng reo mừng đó, như một chia sẻ chân thành với GS Vũ và độc giả.

2/ Đặc trưng thứ tự của sự sống

Mọi tư duy duy lý (rational thinking) hoặc tư duy lý lẽ (resoning thinking) xét cho cùng đều có thể quy về khái niệm so sánh lớn hơn / nhỏ hơn hoặc bằng. Nói cách khác, mọi tư duy duy lý và lý lẽ xét cho cùng đều là tư duy thứ tự, trong đó các đối tượng quan sát được xếp đặt sao cho cái nào đứng trước, cái nào đứng sau, cái nào có trước, cái nào có sau. Sự so sánh này hình thành một cách tự nhiên trong nhận thức của con người, nhưng dần dần, với sự phát triển của ngôn ngữ, quan hệ so sánh được biểu diễn rõ ràng và chính xác nhất dưới dạng toán học.
Toàn bộ toán học là một hệ thứ tự, hình ảnh tiêu biểu nhất của tính chất sắp thứ tự trong toán học là trục số thực, trên đó 2 điểm tương ứng với 2 số thực x và y sẽ được sắp xếp theo thứ tự “trước – sau” nếu x < y
Nói cách khác, tập hợp số thực là một hệ được sắp thứ tự, nói gọn là một hệ thứ tự. Hình ảnh trục số lập tức gợi ý cho chúng ta thấy một hệ thứ tự là một hệ được định hướng. Tập số thực là một hệ được định hướng từ nhỏ đến lớn ─ trục số thực được định hướng từ trái sang phải (hướng mũi tên là chiều tăng của số thực).
Nếu “đặc trưng thứ tự chỉ là đặc thù của các hệ sinh học, các hệ vô cơ không có đặc thù này”[1] như GS Vũ đã nói, thì điều đó có nghĩa là chỉ có sự sống mới được định hướng, trong khi các hệ vô cơ thì không. Câu hỏi lập tức được đặt ra: AI ĐÃ ĐỊNH HƯỚNG SỰ SỐNG?
Đây là một câu hỏi rất quan trọng, nhưng trước khi thảo luận câu hỏi đó, hãy hỏi: “Căn cứ vào đâu để kết luận sự sống là một hệ thứ tự?”. Để trả lời, xin hãy quay trở lại với trục số thực.
Nếu coi trục số là hình ảnh của không gian 1 chiều hoặc hình ảnh của trục thời gian thì ta có thể nói không-thời gian 1 chiều là một hệ thứ tự.
Có thể mở rộng khái niệm đó cho các không gian nhiều chiều hơn. Chẳng hạn:
Trong không gian 2 chiều, mỗi điểm sẽ là một cặp số thực được sắp xếp theo thứ tự, sao cho:
Nếu  b thì (a,b)  (b,a)  (O2)
Trong ký hiệu (O2) ở trên, chữ “O” là viết tắt của “Order” (thứ tự), còn số “2” ý nói đây là hệ thức thứ tự trong không gian 2 chiều.
Những bạn không làm toán có thể thấy mệnh đề (O2) có vẻ rắc rối quá, làm mệt óc, nhưng thực ra ý nghĩa thực tế của nó rất đơn giản: Trong hệ trục tọa độ Descartes 2 chiều, nếu hoành độ độ a không bằng tung độ b thì điểm có tọa độ (a,b) sẽ khác biệt với điểm (b,a).
Tóm lại, mệnh đề (O2) chính là một hệ thức thể hiện Tiên đề Thứ tự trong không gian 2 chiều. GS Vũ còn mở rộng ý nghĩa của (O2) cho Tích Đề-các (Cartesian Product) trong Lý thuyết Tập hợp, nhưng vì nhiều độc giả có thể bị mệt với toán học, nên chúng ta hãy làm một công việc nhẹ nhàng hơn, đó là mở rộng (O2) cho không gian 3 chiều. Khi đó ta sẽ có:
Nếu a  b  c  a thì (a, b, c)  (b, c, a)  (c, a, b) ≠ … (O3)
(O3) chính là hệ thức thứ tự trong không gian 3 chiều. Thật bất ngờ khi ta gặp hệ thức tương tự như (O3) trong Sinh học Phân tử:
“Hệ thức trật tự (AUG) ≠ (UGA) ≠ (UAG) trong mã di truyền sẽ làm tiền đề cho việc nghiên cứu thời gian trong sinh học của tác giả. Để hiểu được ý nghĩa quan trọng của hệ thức này cần phải nghiên cứu sâu về các dạng của Tiên đề Thứ tự”[2].
Có thể một số độc giả không nghiên cứu sinh học sẽ không hiểu câu nói trên. Vậy xin làm rõ: Mỗi bộ ba (AUG), (UGA),… là một nucleotide trong gene. Chúng đóng vai trò gì đối với sự sống? GS Vũ nói cho chúng ta biết:
“Mỗi bộ ba nucleotide nhất định trong gene  xác định vị trí gắn của một acid amin trong một chuỗi polypeptid”[3].
Có nghĩa là chuỗi polypeptide tuy bao gồm nhiều acid amin khác nhau, nhưng không phải các acid amin ấy được nối ghép với nhau một cách tùy tiện, ngẫu nhiên, vô trật tự, mà phải tuân thủ đặc trưng thứ tự. Đặc trưng ấy được thể hiện bởi hệ thức: (AUG) ≠ (UGA) ≠ (UAG)
Nói cách khác, mỗi bộ ba nucleotide sẽ xác định vị trí của một acid amin trong chuỗi polypeptide, và theo hệ thức (AUG) ≠ (UGA) ≠ (UAG), ta thấy mỗi acid amin sẽ có một vị trí riêng của nó, một vị trí hoàn toàn xác định trong thứ tự nối ghép các acid amin để tạo thành chuỗi polypeptide!
Đến đây ta không thể không lắc đầu thất vọng với ý kiến nhảm nhí cho rằng vật chất vô cơ có thể NGẪU NHIÊN và TÌNH CỜ tập hợp lại để tạo thành sự sống! Toán học xác suất đã tham gia vào việc này để khẳng định rằng sự kiện tình cờ đó là KHÔNG THỂ xảy ra! Chuyện này sẽ nói sau, còn bây giờ phải nói ngay điều cần nói:
Một người có hệ thần kinh lành mạnh ắt sẽ phải sửng sốt khi thấy hệ thức thứ tự của các nucleotide hoàn toàn giống hệ thức của Tiên đề Thứ tự trong không gian toán học 3 chiều! Nếu ai đó không ngạc nhiên và thán phục Tạo Hóa đã khéo xếp đặt như vậy thì người ấy thuộc loại người vô cảm đáng thất vọng mà Albert Einstein từng chê bai một cách lịch sự khi ông nói:
“Chỉ có hai cách sống cuộc sống của bạn. Một là sống như chẳng có cái gì là phép lạ. Hai là sống như mọi thứ đều là phép lạ” (There are only two ways to live your life. One is as though nothing is a miracle. The other is as though everything is a miracle)[4]
Chính tác giả bài báo “Thứ tự và Không Thứ tự” đã không thể cầm lòng mà phải thốt lên: “Số học đã ẩn chứa ngay trong các cơ thể sống!”[5]
Câu nói ấy hàm ý: Một thiết kế có chủ ý định hướng cho sự sống đã ẩn chứa ngay trong các cơ thể sống. GS Vũ giải thích:
“Các nhà sinh học quan niệm rằng một phân tử DNA là một dãy sắp thứ tự của hàng trăm hay hàng ngàn nucleotide. Sự thay đổi vị trí dù chỉ một nucleotide trong dãy thứ tự này đồng nghĩa với việc đã hoán đổi thành một vector khác”[6].
Và đó là lý do để ông kết luận:
“…đặc trưng quan trọng của các hệ sinh học đó là đặc thù thứ tự. Đặc thù này thể hiện qua việc điều hành các hệ thống sinh học được thực hiện qua các lệnh. Các lệnh này được thông báo bằng một ngôn ngữ thông qua các dãy ký tự, đó là các sâu thứ tự. Vì vậy các hệ sinh học là các hệ thứ tự”[7].

3/ Lý thuyết Thiết kế Thông minh

Toàn bộ công trình của GS Vũ không nhắc đến Lý thuyết Thiết kế Thông minh (Theory of Intelligent Design), nhưng tự thân công trình nghiên cứu của ông là một luận văn chứng minh cho sự đúng đắn của lý thuyết này.
Lý thuyết thiết kế thông minh là lý thuyết chỉ ra những cỗ máy tinh vi và phức tạp nhưng tài tình của tự nhiên để chứng minh rằng những cỗ máy ấy ắt phải được thiết kế một cách có chủ ý. Sự sống là cỗ máy vĩ đại và tiêu biểu nhất của tự nhiên nói lên vai trò tất yếu phải có của của Nhà Thiết kế Sự Sống.
Lý thuyết này tự động bác bỏ thuyết tiến hóa, và do đó các nhà tiến hóa ra sức lên án nó, coi nó như một cánh tay nối dài của Thuyết Sáng tạo (Creationism), từ đó đổ vấy cho nó những ý đồ tôn giáo. Đó là những hành vi thấp kém, sợ sự thật, đánh lạc sự chú ý của công chúng nhằm biến cuộc tranh luận về tính phản khoa học của Thuyết tiến hóa thành chuyện đấu khẩu về tôn giáo. Một số người đã bị mắc lừa bởi kiểu đánh lận con đen này, nhưng những người tỉnh táo và có bản lĩnh thì không.
Lý thuyết Thiết kế Thông minh dựa trên tư tưởng nền tảng do Thánh Thomas Acquinas phát biểu từ thế kỷ 13, như một Tiên đề:
Ở bất kỳ nơi nào tồn tại một bản thiết kế phức tạp ở đó ắt ĐÃ phải có một nhà thiết kế; Tự nhiên rất phức tạp, do đó tự nhiên ắt ĐÃ phải có một nhà thiết kế thông minh” (wherever complex design exists, there must have been a designer; nature is complex; therefore nature must have had an intelligent designer)[8]
Tất cả các nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại như Nicolas Copernicus, Galileo Galilei, René Descartes,  Blaise Pascal, Isaac Newton, Louis Pasteur, Gregor Mendel, Lord Kelvin, Max Planck, Albert Einstein, Werner Heisenberg, Thomas Edison, Nicolas Tesla, Kurt Gödel,… đều thể hiện quan điểm tán thành Tiên đề nói trên. Chỉ có các nhà tiến hóa mới bác bỏ nó. Stephen Hawking từng tin tưởng vào tiên đề đó, nhưng cuối đời đã thay đổi quan điểm, có lẽ vì quá tự phụ.
Tuy nhiên, chúng ta không cần dựa vào uy tín của bất cứ một nhà khoa học lỗi lạc nào để khẳng định điều chúng ta thấy là hợp lẽ phải. Tiên đề do Thánh Thomas Acquinas là điều hiển nhiên đúng, giống như các tiên đề của Euclid trong hình học vậy.
Toàn bộ công trình nghiên cứu của GS Vũ Hữu Như về Tiên đề Thứ tự và ý nghĩa lớn lao của tiên đề này đối với sự sống chính là một luận văn chứng minh bản chất đã được thiết kế của sự sống ─ càng hiểu rõ những sự xếp đặt kỳ lạ và tài tính của những phân tử bé tí xíu, người ta càng khâm phục bàn tay khéo léo và KHÔN NGOAN của Tạo Hóa, để đi tới kết luận chắc chắn ràng sự sống đã được thiết kế, thay vì ngẫu nhiên hình thành.
Công trình của GS Vũ trước hết là một cuộc tìm kiếm dấu vết của Tiên đề Thứ tự trong khắp các lĩnh vực khoa học và nhận thức, từ toán học tới điều khiển học, thậm chí tới Dịch học, Lão học,… để rồi cuối cùng muốn gửi đi một bản thông điệp mà ông nung nấu trong tâm can mấy chục năm trời, rằng SỰ SỐNG TUÂN THỦ TIÊN ĐỀ THỨ TỰ, và đó là điều bạn nên biết và phải biết, bởi cái biết ấy không chỉ làm cho bạn trở nên thông thái hơn trong những nhận định về thế giới, mà còn ảnh hưởng tới thái độ của bạn đối với cuộc sống.
Tôi nhiệt liệt đón nhận bản thông điệp của GS Vũ, đơn giản vì công trình nghiên cứu của ông là một đóng góp lớn cho Lý thuyết Thiết kế Thông minh, một lý thuyết mà từ lâu tôi đã tin tưởng và ủng hộ, một lý thuyết vừa giàu tính khoa học vừa mang ý nghĩa triết học, trong đó khẳng định SỰ SỐNG LÀ MỘT CÔNG TRÌNH TUYỆT MỸ ĐÃ ĐƯỢC THIẾT KẾ MỘT CÁCH CÓ CHỦ Ý. Chủ đề này đã từng được thảo luận sôi nổi trên PVHg’s Home, như:
Ngoài đặc trưng thứ tự mà sự sống phải tuân thủ, Định luật Pasteur về tính bất đối xứng của sự sống cũng là một bằng chứng rõ ràng cho thấy SỰ SỐNG ĐÃ ĐƯỢC THIẾT KẾ CÓ MỤC ĐÍCH.
Định luật này khẳng định rằng phân tử của sự sống là bất đối xứng, hầu hết đều thuận tay trái, chỉ có một số rất ít thuận tay phải, trong khi vật chất vô cơ thì bao gồm những phân tử đối xứng phải/trái ─ tỷ lệ xuất hiện phân tử thuận tay trái ngang bằng với phân tử thuận tay phải.
Chính Pasteur đã đặt câu hỏi tại sao sự sống bất đối xứng, và ông đã nêu lên giả thuyết cho rằng tồn tại một lực bí ẩn tác động vào các phân tử của sự sống để buộc chúng bất đối xứng. Nói cách khác, Pasteur cho rằng tính bất đối xứng có nguyên nhân sâu xa thuộc về vũ trụ, một căn tính của vũ trụ, rồi ông kết luận:
“Vũ trụ là bất đối xứng và tôi tin rằng sự sống, như chúng ta đã biết, là một kết quả trực tiếp của tính bất đối xứng của vũ trụ hoặc hệ quả gián tiếp của nó. Vũ trụ là bất đối xứng” (The universe is asymmetric and I am persuaded that life, as it is known to us, is a direct result of the asymmetry of the universe or of its indirect consequences. The universe is asymmetric)[9].
Vật lý học thế kỷ 20 đã chứng minh rằng Pasteur hoàn toàn đúng, tiên đoán của Pasteur là một lời tiên tri. Vũ trụ quả thật là bất đối xứng[10].
Ảnh bên: GSTS Vũ Hữu Như, tác giả công trình nghiên cứu về các hệ thứ tự và đặc trưng thứ tự của sự sống.
Nhưng các nhà tiến hóa không hiểu tại sao sự sống lại bất đối xứng, vì thế họ đã cố gắng chế tạo ra acid amin, một thành phần cơ bản của sự sống, để tuyên truyền với mọi người rằng các phân tử vô cơ có thể ngẫu nhiên tập hợp lại thành các phân tử của sự sống. Nhưng họ thật đáng thương. Mọi thí nghiệm của họ đều thất bại. Tập hợp acid amin do họ chế tạo ra luôn luôn đối xứng phải-trái, vi phạm tính bất đối xứng mà sự sống đòi hỏi.
Rốt cuộc, đặc trưng thứ tự và đặc trưng bất đối xứng đã đập tan ảo tưởng của các nhà tiến hóa hòng chế tạo ra phân tử của sự sống từ những phản ứng hóa học của các hợp chất vô cơ.
Theo Ken Funk, một Tiến sĩ hóa học hàng đầu về peptide từng có 3 bằng sáng kiến phát minh và nhiều bài báo trên các tạp chí khoa học uy tín nhất, chúng ta có thể độ lượng với các nhà tiến hóa để giả định trong một cái ao đã có sẵn 20 loại acid amin thuận tay trái cần thiết cho sự sống. Khi đó xác suất để cho một loại protein hình thành từ 140 acid amin (mỗi acid amin chọn ngẫu nhiên trong số 20 acid amin đã có) kết nối với nhau đúng thứ tự (như GS Vũ đã nói) sẽ là một con số vô cùng nhỏ, P = (1/10)^182. Theo Émile Borel, một trong những nhà xác suất lớn nhất thế kỷ 20, mọi sự kiện có xác suất nhỏ hơn (1/10)^50 đều không thể xảy ra. Kết luận: Sự kiện một loại protein hình thành từ 140 acid amin (chọn ngẫu nhiên trong số 20 acid amin cần cho sự sống) kết nối với nhau đúng thứ tự là không thể xảy ra![11]
Thực ra 3 Định luật Di truyền do Mendel khám phá cũng đã cho thấy sự sống được thiết kế một cách rất toán học rồi, và điều này đã từng đe dọa làm sụp đổ Thuyết tiến hóa ngay từ đầu thế kỷ 20. Để cứu vãn Thuyết tiến hóa, các nhà tiến hóa đã nêu lên giả thuyết đột biến gene sẽ dẫn tới tiến hóa. Nội dung cốt lõi của nó là trong quá trình thích nghi với môi trường, gene có thể đột biến, và sự tích tụ vô số những đột biến trong một thời gian rất dài có thể dẫn tới sự thay đổi hệ gene làm cho một loài có thể biến thành loài khác. Đó là giả thuyết được khoác cho một tên gọi khoa học là Học thuyết Tân-Darwin (Neo-Darwinism).
Liệu đột biến gene có thể dẫn tới tiến hóa không?

4/ Đột biến gene dẫn tới tiến hóa?

Công nghệ biến đổi gene đang tạo ra các “phép lạ” ─ các nhà khoa học đang chủ động tác động vào các hệ gene của sinh vật để biến chúng thành những thứ theo ý muốn của họ. Liệu công nghệ biến đổi gene sẽ “sáng tạo” ra thiên thần hay quỹ dữ? Đột biến gene có dẫn tới tiến hóa như thuyết Tân-Darwin đã nói không? Sau đây là câu trả lời…
Trong công trình nghiên cứu của mình về Tiên đề Thứ tự, của GSTS Vũ Hữu Như cũng đã đề cập đến Công nghệ Biến đổi Gene (Genetic Mutation). Theo ông, công nghệ này giúp cho khoa học ngày nay nhìn thấy tận mắt sự biến đổi của gene dưới tác động của ngoại cảnh. Nhưng sự biến đổi ấy có thể dẫn tới đâu? GS Vũ nhận định:
“Dưới tác động của các yếu tố bên ngoài như tia phóng xạ, tia vũ trụ, các hoá chất, v.v… phân tử DNA mới được tạo thành có thể có sự xắp xếp lại thứ tự của các cặp nucleotid, kết quả là tạo ra các đột biến, tạo ra nguyên liệu để hình thành các giống mới, ví dụ lắp thêm một gene mới vào một phân tử DNA của một giống cũ”[12].
Nhận định của GS Vũ hoàn toàn chính xác! Ông tỏ ra thận trọng trong nhận định này, rằng sự biến đổi gene chỉ tạo ra nguyên liệu để hình thành các giống mới, thay vì các loài mới!
Thiết tưởng, dù có nghiên cứu sinh học hay không, có lẽ ai cũng đã từng chứng kiến sự thay đổi của sinh vật thông qua việc lai tạp cây trồng hoặc động vật. Nhưng kinh nghiệm thực tế hàng ngàn năm nay cho thấy một kết quả RẤT RÕ RÀNG rằng sự thay đổi ấy là CÓ GIỚI HẠN ─ chưa hề có hiện tượng BIẾN ĐỔI LOÀI, chưa từng có một hiện tượng thực tế nào chứng tỏ một loài này biến thành một loài khác. Tất cả những câu chuyện nói về sự biến đổi LOÀI chỉ xuất hiện trong các sách giáo khoa và tuyên truyền của Thuyết tiến hóa. Tuyệt đối không có một thực tế nào chứng minh cho điều này! Tất cả mọi lý thuyết nói về điều này đều chỉ là GIẢ THUYẾT, đơn giản vì chính giả thuyết đó nhấn mạnh rằng phải có VÔ SỐ đột biến tích lũy lại trong một khoảng thời gian VÔ CÙNG DÀI, cỡ hàng trăm triệu năm hoặc hàng tỷ năm, thì mới dẫn tới sự biến đổi loài. Vì thế khoa học sẽ KHÔNG BAO GIỜ có thể kiểm chứng giả thuyết đó được.
Thực tế, những thí nghiệm bắn phá hàng triệu thế hệ ruồi giấm bằng tia X không hề biến ruồi giấm thành loài mới, mà chỉ sản xuất ra những thế hệ ruồi giấm bệnh hoạn và chết chóc.
Bằng chứng duy nhất của sự biến đổi loài nếu có, chỉ có thể tìm thấy ở kho HÓA THẠCH. Nhưng sau hơn 150 năm kể từ khi Darwin công bố cuốn “Về Nguồn gốc các loài” (On the Origin of Species, 1859), hóa thạch vẫn luôn luôn nói KHÔNG đối với Thuyết tiến hóa. Tất cả các hóa thạch từng được trưng ra làm bằng chứng cho sự biến đổi loài đều đã được chứng minh là SAI LẦM hoặc GIẢ MẠO.
Xin lưu ý: Vì không có bằng chứng biến đổi loài nên các nhà tiến hóa đã nghĩ ra một “mẹo” để làm lú lẫn người đời. Đó là họ bịa ra các thuật ngữ mù mờ lần lộn là “vi tiến hóa” (micro-evolution) và “vĩ tiến hóa” (macro-evolution), trong đó vi tiến hóa là những thay đổi nhỏ, thí dụ như virus biến đổi để kháng thuốc, hoặc giống chó chân cao sau khi lai tạp biến thành giống chó chân thấp,… Còn vĩ tiến hóa là sự biến đổi loài, thí dụ vượn biến thành người, một chuyện tưởng tượng 100% đã được thuyết tiến hóa biến thành “sự thật”.
Thực tế chỉ có những biến đổi nhỏ (cái mà giới tiến hóa gọi là “vi tiến hóa”) nhưng không hề có biến đổi loài (cái mà họ gọi là “vĩ tiến hóa”). Nhưng một em bé ngây thơ được thầy giáo dạy là có vi tiến hóa (thầy chỉ rõ bằng chứng cho em thấy), để em tin là có tiến hóa. Khi “ĐỨC TIN” ấy đã ngấm vào xương tủy và máu, em bé đó sẽ lập tức tin là có “vĩ tiến hóa”, bởi vì “vi” hay “vĩ” chỉ khác nhau là nhỏ hay lớn mà thôi, nhưng có cùng một bản chất là “tiến hóa”. Đây là một trò đánh lận con đen, không chỉ lừa được các em bé, mà lừa được cả nhiều người lớn. Tôi đã từng gặp một số bài báo chống tiến hóa ở Mỹ cũng sử dụng thuật ngữ “vi tiến hóa” và “vĩ tiến hóa”, có nghĩa là ngay cả một số người chống thuyết tiến hóa mà vẫn bị thuyết tiến hóa lừa ! Có trường hợp tôi phải viết thư để nhắc tác giả biết rằng họ đã bị lừa.
Công nghệ GM (Gene Mutation), tức công nghệ biến đổi gene còn có khả năng đánh lừa lớn hơn nhiều! Nó đã làm cho nhiều học giả kinh hồn bạt vía về khả năng biến đổi của hệ gene, và nhờ đó, niềm tin vào Giả thuyết đột biến gene dẫn tới tiến hóa một lần nữa lại rộ lên như một “sự thật”. Vậy một lần nữa, chúng ta lại cần phải thảo luận xem sự thật là thế nào?
LIỆU CÓ THỂ CÓ SỰ BIẾN ĐỔI LOÀI KHÔNG?
Thuyết tiến hóa có hai bộ phận chủ yếu:
  • Một – Học thuyết về sự biến đổi loài, tức là sự tiến hóa từ loài này thành loài khác
  • Hai – Lý thuyết về nguồn gốc sự sống, tức Thuyết phi tạo sinh (Abiogenesis), trong đó cho rằng sự sống đầu tiên đã ra đời một cách NGẪU NHIÊN từ vật chất không sống.
Như ta đã thấy ở các phần trên, đặc trưng thứ tự và đặc trưng bất đối xứng của sự sống đã tự động bác bỏ học thuyết Abiogenesis. Vậy còn vấn đề biến đổi loài thì sao?
Xin nhấn mạnh rằng học thuyết biến đổi loài là bộ phận cốt lõi của Thuyết tiến hóa. Tư tưởng này đã ra đời ngay trong ngày khai sinh của Thuyết Tiến hóa, tạo thành nội dung chủ yếu của cuốn “Về Nguồn gốc các loài” (On the Origin of Species) của Charles Darwin, xuất bản lần đầu tiên năm 1859.
Khi Mendel công bố các Định luật Di truyền, 1865, cho thấy loài là cố định, không thể thay đổi, vì hệ di truyền tuân thủ các định luật xác định, người ta có thể thấy ngay rằng Thuyết tiến hóa là SAI, không thể có hiện tượng loài này biến thành loài khác.
Nhưng không may, công trình của Mendel bị chìm trong bóng tối, không ai biết. Rất may cho Darwin đã không hề biết công trình của Mendel nên ông đã có thể ăn ngon ngủ yên cho đến ngày rời khỏi thế gian (mặc dù Mendel thì biết rõ công trình của Darwin và đã phê phán nó)[13].
Vì thế, cuộc khủng hoảng của Thuyết tiến hóa do các Định luật Mendel về Di truyền gây ra chỉ thực sự xảy ra vào đầu thế kỷ 20, khi công trình của Mendel được tái khám phá. Khi ấy, Thuyết tiến hóa đứng trước nguy cơ sụp đổ. Nhưng các nhà tiến hóa là những bậc thầy trong việc sáng chế ra những giả thuyết ngụy biện. Đó là lý do để học thuyết Tân-Darwin (Neo-Darwinism) ra đời, trong đó cho rằng những đột biến gene có thể làm cho hệ di truyền thay đổi, và tích lũy vô số những đột biến gene có thể dẫn tới một thay đổi lớn đến mức biến một loài này thành một loài khác!
Trong thời đại ngày nay, khi Công nghệ GM phát triển, mọi người chứng kiến các nhà khoa học biến đổi gene một cách chủ động, làm cho sinh vật biến dạng, thay đổi một cách rõ ràng trông thấy, làn sóng tin vào học thuyết đột biến dẫn tới tiến hóa bỗng nhiên như được sống lại, giống như sinh vật được tiêm thuốc tăng trọng hay tăng trưởng ào ạt, làm cho ngay cả những người có bản lĩnh khoa học cao cũng ngả nghiêng về phía tin vào thuyết tiến hóa nhiều hơn.
Một trong những thực tế làm rung chuyển tâm trí mạnh nhất là sự biến đổi của virus kháng thuốc. Sự biến đổi này nhanh đến mức làm cho người ta kinh ngạc. Một trong những người thể hiện sự kinh ngạc đó là Perry Marshall. Từ chỗ kinh ngạc, ông đã ngả về phía tin vào sự tiến hóa do đột biến đến nỗi ông cho rằng đã đến lúc phải kết hợp Thuyết Sáng tạo (tin rằng Chúa sáng tạo ra sự sống) với học thuyết về đột biến dẫn tới tiến hóa[14]. Tôi từng khen ngợi Marshall hết lời vì ông từng thuyết giảng rất hay về Định lý Gödel, nhưng khi biết quan điểm của Marshall về đột biến, tôi vô cùng thất vọng. Qua đó có thể thấy học thuyết về đột biến đã “chinh phục” các nhà khoa học ghê gớm tới mức nào. Vậy câu hỏi đặt ra là:
Liệu sinh vật có thể biến đổi gene đến mức có thể tiến hóa không? Tức là hiện tượng đột biến có thể dẫn tới tiến hóa không? Câu hỏi này đã được trả lời rõ ràng trong bài “EVOLUTION 2.0 PRIZE – Giải thưởng 5 triệu USD cho thuyết tiến hóa” trên PVHg’s Home ngày 08/08/2018. Xin nhắc lại và nhấn mạnh:
  • Đột biến gene là có thật, nhưng không hề có một bằng chứng nào chứng tỏ một loài đã bị biến đổi toàn bộ hệ gene của nó để trở thành một loài mới. Công nghệ GM chỉ biến bắp cải thành bắp cải dị dạng, ngô thành ngô dị dạng. Châu Âu chống thực phẩm biến đổi gene. Mỹ và Canada cũng bắt đầu xem xét lại thực phẩm này. Châu Phi là nơi có số dân nghèo đói đông nhất nhưng cũng từ chối thực phẩm biến đổi gene.
  • Toán học xác suất đã bác bỏ học thuyết đột biến dẫn tới tiến hóa. Điều này đã được nói rõ trong bài báo Mendel disproved Darwinism / Mendel bác bỏ học thuyết Darwin[15]trên PVHg’s Home ngày 28/08/2015. Trong đó cho biết Hội nghị chuyên đề tại Viện Wistar ở Philadelphia năm 1966 đã kết luận “Thuyết Tân Darwin không thể bảo vệ được bằng toán học”. Nói cách khác, hiện tượng vô số đột biến gene dẫn tới tiến hóa là một giấc mơ không tưởng!
  • Phần lớn đột biến đều dẫn tới bệnh hoạn và cái chết. Thực phẩm biến đổi gene đã bị tố cáo là có hại. Để thấy rõ điều này, xin đọc bài Did GM lead to Evolution? Đột biến Gene dẫn tới Tiến hóa?[16] trên PVHg’s Home ngày 15/02/2016. Bằng chứng rõ nhất là thí nghiệm gây đột biến gene ở ruồi giấm (fruit fly), kết quả cho thấy, sau hàng triệu tác động gây đột biến, ruồi giấm vẫn chỉ là ruồi giấm, và là ruồi giấm quái thai và chết chóc.
  • Mọi sự biến đổi đều có giới hạnVượt quá giới hạn ấy, sinh vật sẽ chết.
  • Hệ gene của loài chỉ có thể chấp nhận những biến đổi trong loài, bởi các Định luật Mendel về Di truyền đã chứng minh rằng LOÀI LÀ CỐ ĐỊNH. Đó là định luật của tự nhiên, mọi ý đồ chống lại tự nhiên sẽ thất bại!
  • Hệ gene có khả năng tự sửa chữa và điều chỉnh để đảm bảo bản thiết kế nguyên thủy, và khả năng này mạnh hơn khả năng thay đổi. Khám phá này đã đoạt Giải Nobel Sinh-lý-học năm 2015[17].
Tóm lại, lý thuyết đột biến dẫn tới tiến hóa mãi mãi chỉ là một giả thuyết. Giả thuyết này đem lại công ăn việc làm cho công nghệ biến đổi gene. Công nghệ này chứa đựng tiềm tàng những mối hiểm nguy chưa thể lường hết được. Có ai dám áp dụng công nghệ gene cho con người không? Một câu hỏi thật đáng sợ!

5/ Định lý Gödel và Hệ phi thứ tự

Theo GS Vũ, tính thứ tự là MỘT đăc trưng của sự sống, nhưng không phải là TẤT CẢ,  ý nói rằng sự sống tinh vi và kỳ diệu hơn nhiều so với những gì khoa học đã biết và tưởng rằng sẽ biết. Cụ thể hơn, sự sống có thể còn bao gồm những hệ phi thứ tự, và do đó về nguyên tắc, khoa học sẽ không thể tiếp cận được, đơn giản vì khoa học dựa trên Tiên đề Thứ tự. Đây là một THÔNG ĐIÊP TUYỆT VỜI, cho thấy tư tưởng của GS Vũ đã vượt xa những đồng nghiệp chỉ quen tư duy thứ tự và tưởng rằng tư duy thứ tự là phương pháp tư duy khoa học duy nhất.
Cá nhân tôi, một người say mê, ngưỡng mộ và thấm nhuần Định lý Gödel, không thể không nói lên lời tán thưởng bản thông điệp đó, vì đó chính là một trong những hệ quả triết học của Định lý Gödel.
Ảnh bên: Sự sống không chỉ được định hướng ở cấp độ phân tử, mà được định hướng ngay ở cấp độ đời sống thông thường. Hình bên trái cho thấy cây leo không leo tùy tiện bất phương hướng, mà được định hướng leo theo một chiều xác định. Đây là đặc trưng thứ tự biểu lộ ra ở cấp độ đời sống thông thường. 
Thông điệp ấy mang tính gợi mở rất bổ ích trong việc nhận thức bản chất sự sống, kích thích tư duy vươn tới những khu vực phi thứ tự, điển hình là thế giới ý thức ─ một thế giới bấy lâu này bị “gạt ra rìa” khoa học, bởi lẽ ý thức không tuân thủ bất kỳ một định luật khoa học nào, mặc dù nó là một hiện thực khách quan không thể chối cãi.
Nhưng gần đây, dưới ánh sáng của Lý thuyết Thông tin, người ta dù muốn hay không cũng phải chấp nhận sự tồn tại của những hiện thực phi vật chất, đó là THÔNG TIN!
Đặc biệt, từ khi DNA chứng tỏ những “phép lạ” của nó, mã DNA được coi là “Ngôn ngữ của Chúa” (Francis Collins) thì một người cứng đầu đến mấy cũng phải mở to mắt ra để chấp nhận một thực tế rằng thông tin, mặc dù là một thành phần hiện thực phi vật chất, nhưng lại đóng vai trò quyết định trong sự tác thành sự sống. Điều này lập tức làm nẩy sinh ý nghĩ cho rằng Ý THỨC CÓ THỂ LÀ MỘT DẠNG THÔNG TIN CỦA SỰ SỐNG!
Nếu sự sống là một CỖ MÁY TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ LƯU TRỮ THÔNG TIN thì mã DNA là thông tin đầu vào và ý thức là thông tin đầu ra! Tất nhiên, cỗ máy này vượt quá xa computers, vì chương trình của nó đạt tới trình độ của “phép lạ”!
Sự liên tưởng vô cùng thú vị đó là một trong những nguyên nhân làm cho bài toán ý thức SỐNG ĐỘNG TRỞ LẠI!
Tại sao lại nói “bài toán ý thức sống động trở lại”?  Vì thực ra nó đã từng được René Descartes nêu lên từ thế kỷ 17 trong “Luận đề về ý thức” (Thèse de la conscience), trong đó ông lập luận rằng ý thức là một hiện thực khách quan không thể chối cãi, nhưng nó không tuân thủ bất cứ định luật vật chất nào, vì thế ta buộc phải thừa nhận ý thức là một hiện thực phi vật chất do Chúa sáng tạo… Vì thế trong một thời gian dài, Descartes bị coi là một nhà triết học duy tâm (mặc dù ông là một ông tổ duy lý), và khoa học dựa trên nền tảng duy vật đã bác bỏ luận đề của Descartes. Nhưng “cái gì của Ceasar phải trả cho Ceasar” ─ ánh sáng khoa học thế kỷ 20 và hiện nay đang quay trở lại ủng hộ Descartes, đơn giản vì khoa học ngày nay bắt đầu thừa nhận sự tồn tại của những hiện thực phi vật chất.
Với con mắt hiện đại, DNA không phải là mã DNA, mặc dù mã DNA được biểu lộ thông qua DNA. Nobert Wiener, một trong những nhà tiên phong của Lý thuyết Thông tin, khẳng định điều này rõ hơn ai hết:
“Thông tin là thông tin, thông tin không phải là vật chất hay năng lượng. Không có chủ nghĩa vật chất nào không thừa nhận điều này mà có thể sống sót trong thời đại ngày nay” (Information is information, not matter or energy. No materialism which does not admit this can survive at the present day)[18].
Đó là một nhận định mang tính chất cách mạng về nhận thức! Càng ngày người ta càng nhận ra rằng ý thức mới thật sự là chìa khóa của sự sống. Thật bất ngờ, khoa học đến đây ĐÃ “vô tình” gặp gỡ thần học:
“Rồi Chúa nặn ra một người đàn ông từ bụi đất và thổi sinh khí qua lỗ mũi của nó, tức thì con người trở nên một vật sống động” (Then the Lord God formed a man from the dust of the ground and breathed into his nostrils the breath of life, and the man became a living being)(Kinh Thánh, Sách Sáng Thế, 2:7).
Phật giáo cũng coi ý thức mới là đặc trưng thật sự của con người. Điều này đã được Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rõ trong cuốn sách của ngài: “Vũ trụ trong một nguyên tử”. Với cách nhìn này, thuyết tiến hóa không thể được xem là một lý thuyết về sự sống, bởi nó hoàn toàn làm ngơ trước vấn đề ý thức. Chính Darwin từng thú nhận ông không biết gì về sự hình thành của năng lực tinh thần.
Với những cách nhìn mới mẻ đó, vấn đề ý thức đang trở thành một đối tượng nghiên cứu hấp dẫn nhất của nhiều lĩnh vực mũi nhọn trong khoa học hiện đại, từ khoa học thần kinh đến tâm lý học, từ vật lý lượng tử đến đạo học, từ logic toán học đến thần học,… Trong bối cảnh này, Định lý Gödel trở thành một nền tảng tư duy, bởi nó nói cho chúng ta biết rằng khoa học vật chất duy lý bị chặn lại ở hệ tiên đề của nó, trong khi khát vọng hiểu biết của con người muốn vượt ra khỏi hệ tiên đề đó. Vấn đề này đã được gợi ý ở nhiều đoạn trong bài báo “THỨ TỰ VÀ KHÔNG THỨ TỰ” của GS Vũ Hữu Như:
  • Theo Định lý Gödel, trong toán học tồn tại những sự thật không thể chứng minh và cũng không thể phủ nhận. Kết luận này được GS Vũ minh họa bằng một thí dụ rất đơn giản và dễ hiểu, đó là một định lý cơ bản mà mọi học sinh đều biết: Mọi số nguyên đều có thể phân tích thành tích của các thừa số nguyên tố.
  • Đinh lý Gödel cũng khẳng định rằng không tồn tại một hệ tiên đề nào vừa đầy đủ vừa phi mâu thuẫn. GS Vũ nhắc đến một “kẽ hở nhỏ” trong Lý thuyết Tập hợp nhưng dẫn tới “vết nứt lớn”, đó là sự thiếu vắng một định nghĩa rõ ràng về khái niệm “một phần tử THUỘC một tập hợp”, và điều này dẫn tới Nghịch lý Russell, một nghịch lý làm tiêu tan tham vọng của Siêu Toán học đầu thế kỷ 20[19].
Trong khi khẳng định sự sống có đặc trưng thứ tự, GS Vũ đã nêu lên một gợi ý thú vị rằng sự sống cũng có thể chứa đựng những hệ phi thứ tự mà khoa học sẽ phải “kính nhi viễn chi”, bởi khoa học dựa trên nền tảng tư duy thứ tự. Cụ thể, nếu tư duy của chúng ta là một thành phần của sự sống thì trong tư duy của chúng ta có bộ phận tuân thủ thứ tự, nhưng đồng thời cũng có bộ phận không tuân thủ thứ tự.
Thật vậy, khoa học thần kinh từ lâu đã khám phá ra rằng bộ não gồm hai bán cầu trái và phải, trong đó bán cầu não trái chuyên phụ trách tư duy tính toán, logic, bán cầu não phải chuyên phụ trách tư duy tổng hợp, tư duy tưởng tượng,… Thậm chí người ta còn gán cho phụ nữ thiên về tư duy não trái, nam thiên về não phải… Việc phân chia khu vực chuyên trách và xu hướng phát triển tư duy phụ thuộc theo giới tính có lẽ chỉ đúng một phần nào, nhưng thông qua thực tiễn, có thể thấy rõ sự tồn tại của hai dạng tư duy là có thật.
Hai dạng tư duy đó có thể ví như Âm và Dương là hai mặt đối lập, nhưng không loại trừ lẫn nhau, ngược lại chúng liên kết với nhau, bổ sung cho nhau để đạt tới một nhận thức phong phú hơn, đầy đủ hơn, gần với hiện thực hơn. Cụ thể, hai dạng tư duy đó là:
  • Tư duy duy lý và tư duy cảm thụ.
  • Tư duy logic và tư duy phi logic
  • Tư duy lý luận và tư duy trực giác
  • Tư duy theo chương trình và tư duy bất chợt
  • Tư duy thứ tự và tư duy phi thứ tự
Trong đời sống, nhiều khi chúng ta phê phán nhau: “Ý kiến của anh chẳng logic tí nào cả”, ý nói “ý kiến của anh là sai”. Theo cách hiểu này, logic được coi là đúng, phi logic là sai. Nhưng dưới ánh sáng của Định lý Gödel, cách hiểu đó trở thành ngây thơ, ấu trĩ. Vậy thực ra logic là gì?
Nhà toán học kiêm triết học toán học nổi tiếng người Mỹ, Reuben Hersh, trả lời trong cuốn sách đoạt giải năm 1998 của ông, “What is Mathematics, Really?” (Thực ra Toán học là gì?) rằng:
“Logic là gì? Phải chăng đó là những quy luật tư duy chính xác? Kinh nghiệm thường ngày và những nghiên cứu phong phú của các nhà tâm lý học cho thấy phần lớn tư duy của chúng ta không tuân theo logic. Từ đó suy ra rằng, hoặc phần lớn tư duy của con người là sai, hoặc logic chỉ tác động trong một phạm vi quá hẹp. Computers chính là những chiếc máy tuân thủ logic, đó chính là câu trả lời! Logic là những quy tắc của máy tính! Logic cũng áp dụng cho con người khi con người cố gắng biến mình thành những chiếc máy tính!”
Nói cách khác, tư duy logic chỉ là một bộ phận trong nhận thức của con người. Đó chính là tư duy duy lý, tư duy lý luận, tư duy khoa học và tư duy thứ tự. Trong thời đại ngày nay, computers đang trở thành một trợ thủ đắc lực của con người trong dạng tư duy này. Sẽ là phí phạm vô cùng nếu coi dạng tư duy này là thống soái, thậm chí là duy nhất đúng để gạt bỏ tư duy cảm thụ, tư duy trực giác, tư duy ngoài khoa học, tư duy phi thứ tự. Về điều này, GS Vũ đã có những kết luận rất thú vị trong bài báo “THỨ TỰ VÀ KHÔNG THỨ TỰ”, xin được trích nguyên văn dưới đây để thay cho KẾT LUẬN của bài viết này:
“Cuối cùng ta nói đến Định lý bất toàn của Gödel. Định lý này khẳng định rằng: mọi lý thuyết hình thức hoá nhất quán có chứa số học các số tự nhiên đều là không đầy đủ. Xin độc giả hãy suy ngẫm về ý nghĩa sâu sắc của điều khẳng định nói trên. Phải chăng tập hợp các số tự nhiên N, mô hình cơ bản của tư duy thứ tự chính là cội nguồn của nghịch lý kẻ nói dối : “I’m a liar” (Tôi là kẻ nói dối). Tư duy thứ tự tạo ra những khái niệm đối lập (“TRUE” and “FALSE”) và phải chăng tư duy thứ tự không thể thành công khi “mô tả” các biến hoá không thứ tự của tự nhiên. Chẳng hạn, ta không thể nói gì về thứ tự phân rã của các hạt nhân phóng xạ và cũng không thể nói gì về khái niệm vũ trụ. Tư tưởng của Lão Tử (500 TCN), Đạo khả đạo phi thường đạo, cho thấy giới hạn của tư duy thứ tự… Mỗi tế bào thần kinh hoàn toàn không đơn thuần là một cấu tử logic hai trạng thái. Cấu trúc của tế bào thần kinh là một hệ thống hết sức tinh vi và huyền diệu, nó càng kỳ ảo hơn ở não bộ con người, khiến bản thân con người cũng đã được xem là một vũ trụ thu nhỏ, nó tương tác với phần bù của nó và thể hiện những hiện tượng không thể giải thích được bằng khoa học thông thường.”
DJP, Sydney 20/08/2018
CHÚ THÍCH
[1] Bài báo đã dẫn, phần VI. Kết luận: Thứ tự và Không Thứ tự
[2] Sách đã dẫn, trang 12
[3] Sđd, t.144
[5] Bài báo đã dẫn, mục 1.3) Tập hợp các số tự nhiên N.
[6] Sđd, t.155
[7] Bài báo đã dẫn, phần VI. Kêt luận: Thứ tự và không thứ tự
[11] Xem “On the Law of Life Asymmetry / Về Định luật Sự sống Bất Đối Xứng” https://viethungpham.com/2016/07/04/on-the-law-of-life-asymmetry-ve-dinh-luat-su-song-bat-doi-xung/
[12] Bài báo đã dẫn, mục 4.2) Tái bản DNA.
[13] Xem “Mendel disproved Darwinism / Mendel bác bỏ học thuyết Darwin” https://viethungpham.com/2015/08/28/mendel-disproved-darwinism-mendel-bac-bo-hoc-thuyet-darwin/
[14] EVOLUTION 2.0 PRIZE – Giải thưởng 5 triệu USD cho thuyết tiến hóa https://viethungpham.com/2018/08/08/evolution-2-0-prize-giai-thuong-5-trieu-usd-cho-thuyet-tien-ho/
[17] LESSONS FROM NOBEL PRIZES 2015 / Những bài học từ Giải Nobel 2015 https://viethungpham.com/2015/10/08/lessons-from-nobel-prizes-2015-nhung-bai-hoc-tu-giai-nobel-2015/
[18] (Cybernetics, xuất bản lần thứ 2, trang 132) http://www.informationphilosopher.com/solutions/scientists/wiener/
[19] Để thấy Nghịch lý Russell nghiêm trong thế nào, xem ĐỊNH LÝ BẤT TOÀN (3): LỜI SÁM HỐI của một nhà toán học hình thức https://viethungpham.com/2010/07/08/d%E1%BB%8Bnh-ly-b%E1%BA%A5t-toan-3-l%E1%BB%9Di-sam-h%E1%BB%91i-c%E1%BB%A7a-m%E1%BB%99t-nha-toan-h%E1%BB%8Dc-hinh-th%E1%BB%A9c/