Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2016

Vận nước rồi sẽ ra sao?


Việc Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế dưới sự hậu thuẫn của thái hậu Dương Vân Nga trong tình thế nước sôi lửa bỏng của đất nước được các sử gia xem xét từ  nhiều góc độ, vị trí lịch sử nên có nhều cách đánh giá khác nhau. Tuy nhiên, với hầu hết người dân Việt Nam, việc Lê Hoàn xưng đế và ngay lập tức dẹp tan quân Tống xâm lược, giữ vững bờ cõi, ồn định giang sơn, xã tắc là một công trạng hiển hách, hợp lòng dân. Do hợp lòng dân, nên nhiều hành vi, thủ đoạn (nếu có) trong quá trình chuyển đổi quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê có thể để lại khá nhiều điều tiếng, song đều được người dân cho qua. Đó mới chính là “đại cục” của lòng dân, là bảo vệ từng tấc đất của cha ông, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thái bình cho muôn dân.



Thập đạo tướng quân Lê Hoàn nắm quyền nhiếp chính khi ấu chúa Đinh Toàn lên ngôi mới vừa 6 tuổi. Thế nước đang ngàn cân treo sợi tóc, nhiều tướng lĩnh không phục (Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp...), lo sợ ông lấn át quyền hành, nên dấy binh tiêu diệt ông, bất chấp hiểm họa ngoại xâm đang cận kề.

Nhà Tống lúc bấy giờ đã dẹp yên loạn “Ngũ đại Thập quốc”, quân lực hùng mạnh, lại thêm những rối ren nội bộ của nước ta là cơ hội tốt cho việc đem quân đánh chiếm. Chưa hết, ở phía Nam, phò mã Ngô Nhật Khánh (con rể Đinh Tiên Hoàng) làm phản, dẫn quân Chiêm Thành với hơn 1000 thuyền chiến do đích thân vua Chiêm cầm đầu theo đường biển tiến thẳng vào kinh đô Hoa Lư, rắp tâm xâm chiếm nước ta, may mà đội quân này chưa tới nơi đã bị bão dìm chết, chỉ còn vua Chiêm sống sót.

Trong tình thế hiểm nghèo như thế, dưới sự hậu thuẫn của thái hậu Dương Vân Nga, Lê Hoàn một mặt nhanh chóng dẹp yên nội loạn, một mặt ráo riết chuẩn bị đối phó với quân xâm lược. Việc Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế dưới sự hậu thuẫn của thái hậu Dương Vân Nga trong tình thế nước sôi lữa bỏng của đất nước được các sử gia xem xét từ  nhiều góc độ, vị trí lịch sử nên có nhều cách đánh giá khác nhau.

Tuy nhiên, với hầu hết người dân Việt Nam, việc Lê Hoàn xưng đế và ngay lập tức dẹp tan quân Tống xâm lược, giữ vững bờ cõi, ồn định giang sơn, xã tắc là một công trạng hiển hách, hợp lòng dân. Do hợp lòng dân, nên nhiều hành vi, thủ đoạn (nếu có) trong quá trình chuyển đổi quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê có thề để lại khá nhiều điều tiếng, song đều được người dân cho qua. Đó mới chính là “đại cục” của lòng dân, là bảo vệ từng tấc đất của cha ông, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thái bình, ấm no cho muôn họ.

Điều đáng ngạc nhiên là Lê Hoàn xuất thân võ tướng nhưng rất biết lắng nghe, tham vấn nhân sĩ trí thức đương thời trong mọi việc. Cụ thể là trong tình cảnh thế nước, và bản thân Lê Hoàn cũng đang trong thế nghìn cân treo sợi tóc, ông đã hỏiThiền sư Pháp Thuận: “Vận nước rồi sẽ ra sao?”.  Thiền sư đáp bằng một bài kệ:

“Quốc tộ như đằng lạc,
 Nam thiên lý thái bình,
 Vô vi cư điện các
 Xứ xứ tức đao binh.”



Dịch nghĩa : 



“Vận nước như cây leo,

 Trời nam mở thái bình,

 Vô vi trong chính sách,
 Chốn chốn hết đao binh.


Tác giả Viên Như bình luận về vụ vấn đáp này như sau:  “Trong tư cách là một thiền sư, trước ông đã khuyên vua nên theo tinh thần tùy duyên của đạo Phật mà ứng xử, tiếp đến ông lại khuyên vua nên thi hành chính sách vô vi nhằm đem đến sự ổn định cho quốc gia thì nhất định tinh thần vô vi này phải xuất phát từ Phật giáo, hơn nữa hoàn cảnh lịch sử và mối quan hệ giữa Pháp Thuận và Lê Hoàn cho ta hiểu rằng chính sách vô vi này chắc chắn mang tính tích cực, có như thế mới giải quyết được những nhiễu nhương của xã hội, tiến tới một nền hòa bình, đáp ứng được mong muốn như câu 2 của bài thơ đã nói.

Tính tích cực ấy là gì? Đó là tính vô trước, vô chấp của đạo(chính sách) vô vi. Làm mọi việc cho nhân dân không phải với suy nghĩ vì mình là vua và mọi người phải biết ơn mình, mà làm là vì hạnh phúc của nhân dân xem hạnh phúc của nhân dân cũng chính là hạnh phúc mình, đó là vô trước. Thi hành những chính sách khoan dung, ai có tài thì tạo điều kiện hoặc mời ra giúp nước, không kể quá khứ, dòng họ, phe phái trước đây của họ, cho họ nhận thức được rằng đất nước này là của chung chứ không của riêng ai, nên phải cùng nhau xây dựng, đó là vô chấp.

Đọc vào lịch sử ta thấy biết bao triều đại đã đổi thay, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần v.v. . Tuy nhiên triều đại có thể đổi thay nhưng chủ quyền của đất nước không bao giờ thay đổi. Bởi vì nếu làm ngược lại, sớm muộn gì triều đại ấy cũng sẽ suy tàn. Ngày nay, sau hơn 1.000 năm, những lời khuyên của thiền sư Pháp Thuận vẫn còn nguyên giá trị. Bởi khi chiêm nghiệm tinh thần tùy duyên bất biến, vô trước, vô chấp mà Pháp Thuận đã  khuyên Lê Hoàn chúng ta mới thấy hết tính chân lí của vấn đề - Đối với chính trị thì tùy duyên - Đối với Tổ quốc thì bất biến - Đối với nhân dân thì công minh, nhân nghĩa. Một khi đã thi hành triệt để tinh thần ấy thì lo gì chẳng hết can qua, lo gì không thực hiện được ước muốn “Chốn chốn hết đao binh”. Tinh thần ấy là khuôn mẫu trị nước an dân mà thiền sư Pháp Thuận đã rút ra từ tinh thần Phật giáo, nó không những là kim chỉ nam cho triều đại Lê Đại Hành, mà còn là khuôn vàng thước ngọc cho mọi triều đại về sau”.

Những tài liệu mà sử sách chính thống ghi lại cho tới ngày nay cũng cho thây đạo dùng người hết sức tinh tế và bao dung của Lê Hoàn, một trong những yếu tố căn bản giúp ông thành đại nghiệp. Đối với lực lượng làm binh biến, ông bất đắc dĩ phải giết những người cầm đầu nhưng không sát hại bất cứ một ai trong gia đình và phe nhóm của họ. Như Phạm Cự Lượng chính là em ruột Vệ úy Phạm Hạp. Phạm Hạp không thể không giết, nhưng giết Phạm Hạp ông lại dùng em ruột Phạm Hạp là Phạm Cự Lượng làm đại tướng quân, rồi thăng đến Thái úy thống lĩnh quân đội. Nguyễn Bặc không thể không giết, nhưng con trai Nguyễn Bặc là Nguyễn Đê lại được Lê Hoàn dùng làm tướng và thăng đến chức Hữu Điện tiền chỉ huy sứ thời Tiền Lê. Dùng người một cách chí công vô tư như thế, chỉ nghĩ đến sự tồn vong của đất nước mà không nghĩ đến sự an nguy của bản thân và dòng họ, trước đó không thấy và sau này cũng chưa từng thấy.

Dùng người nhân văn, hợp lòng người, đạo trời đã giúp Lê Hoàn không phạm sai lầm. Phạm Cự Lượng tài đức vẹn toàn, được nhân dân đời đời ngưỡng mộ, là một vị thần ghi trong Việt điện u linh tập; và  không phải vô cớ mà vào đời Lý, vua Lý Thái Tôn cũng chính thức phong ông là một vị thần chuyên coi về hình ngục, tôn là “Hồng Thánh đại vương” , thờ tại đền Ngự sử; hiện nay ở các địa phương vẫn còn đến 4 di tích thờ ông.

Lê Đại Hành là một vị vua mà "Sứ thần Trung Quốc phải tôn sùng, tù trưởng sơn động hết chuyện làm phản. Thành Hoa Lư phồn vinh hơn cả nhà Đinh. Còn lưu ý đến sức dân, quan tâm đến chính sự của nước, chú trọng nghề làm ruộng, nghiêm ngặt việc biên phòng, quy định pháp lệnh. Tuyển lựa quân ngũ... có thể nói là hết sức siêng năng, hết lòng lo lắng" (Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí). Ông là một vị vua có tài, dẹp nội loạn, khéo bang giao, giữ thể diện cho quốc gia không bị nước lớn chèn ép. Đó là điều không phải đời vua nào của VIệt Nam cũng làm được.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét