Thứ Tư, 26 tháng 4, 2017

Thực tại là gì?

Lê Huy Trứ
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian, nhưng linh ảnh tâm (Lòng Bồ Đề, vũ trụ) vượt thời gian không gian.   
Trong Thuyết Tương Đối Tổng Quát Suy Rộng của Einstein, không-thời gian và vũ trụ không tồn tại độc lập với nhau.  Govinda cũng nói, “Linh ảnh nằm trong một không gian nhiều chiều hơn và vì thế nó phi thời gian.” Không-thời gian của vật lý tương đối cũng là một không gian phi thời gian, có chiều cao hơn, trong đó mọi phản ứng đều liên hệ với nhau, nhưng mối tương quan không có tính nhân quả.  Sự tương tác các hạt (particles) chỉ có thể lý giải trong khái niệm nguyên nhân- kết quả ghi trên biểu đồ không gian – thời gian và được đọc theo nguyên tắc chỉ định, thí dụ từ dưới lên trên, từ trái qua phải.  Nhưng một khi những dữ kiện này được quan niệm trong một cấu trúc bốn chiều, không có một hướng thời gian nhất định, thì không có cái trước, cái sau và vì thế không có nguyên nhân và hậu quả (nhân quả) để tư nghị. 
Trong các bài thuyết giảng Upanishad: Nơi có nhị nguyên, là nơi có một cái thấy một cái khác; một cái ngửi một cái khác, một cái nếm vị một cái khác… Nhưng nơi mà tất cả đã trở về tự tính của nó, thì cái gì thấy và cái gì bị thấy? Cái gì ngửi và cái gì bị ngửi? Cái gì nếm và cái gì bị nếm?  Cái gì cảm nhận? Tất cả từ tâm tưởng, lời của Heraclitus: “Cái lạnh sẽ nóng dần lên, cái nóng nguội đi, cái ướt khô dần, cái khô thành ướt.”  Sách Bích Nham Lục nói, “Tất cả càn khôn đại địa chỉ là cái chính mình. Lạnh thì khắp trời đất lạnh. Nóng thì khắp trời đất nóng…”  
Trang Tử nói: Mối liên hệ của tôi với thân và các phần tử của thân đã tan biến. Giác quan của tôi đã bị dẹp bỏ. Tôi cứ để cho thân tâm đi ngao du, tôi thành một với cái đại khối xuyên suốt. Tôi gọi nó là an tọa và quên mọi chuyện. Đó là sự nắm bắt cuối cùng sự nhất thể mọi sự. Theo trình bày của các nhà đạo học thì ta đạt tới nó trong dạng một tâm thức, trong đó cá thể con người đã tan vào một nhất thể vô phân biệt bỏ lại đằng sau thế giới của cảm thọ và nội dung của “vật thể.” 
Trong Đạo của Vật Lý, Fritjof Capra viết: Trong khoa học, khi nghiên cứu những mô hình của vật lý hạ nguyên tử, được thấy chúng luôn luôn phát biểu bằng nhiều cách khác nhau, dẫn đến một kiến giải duy nhất: đó là các thành phần vật chất và những hiện tượng tham gia, tất cả đều nằm trong một mối liên hệ với nhau và phụ thuộc lẫn nhau; chúng không thể được xem là đơn vị độc lập, mà là thành phần bất khả phân của một cái toàn thể.  Trước hết tôi xin trở lại sự phân biệt giữa cơ cấu toán học của một lý thuyết và cách lý giải bằng ngôn từ của nó. Cơ cấu toán học của thuyết lượng tử đã được nhiều thí nghiệm khẳng định và được thừa nhận là nhất quán và chính xác để mô tả tất cả các hiện tượng nguyên tử. Thế nhưng cách lý giải bằng ‘ngôn từ ngữ’ của nó, tức là ý nghĩa triết học của thuyết lượng tử lại chưa có một cơ sở vững chắc. Thực tế là nhà vật lý suốt hơn bốn mươi năm qua chưa đưa ra được một mô hình triết lý rõ rệt về nó.  Chúng chỉ là sự lý tưởng hóa; trên thực tiển thì chúng có ích, nhưng không có ý nghĩa đích thực. 
Tất nhiên nền vật lý hiện đại làm việc trong khuôn khổ hoàn toàn khác và không thể đi xa như thế trong việc chứng thực tính nhất thể của mọi sự. Nhưng trong vật lý nguyên tử, nó đã đi một bước dài về hướng của thế giới quan phương Đông.
Trong vật lý lượng tử, Niels Bohr nói, “Các hạt vật chất độc lập chỉ có trong sự trừu tượng, tính chất của chúng chỉ có thể định nghĩa và quan sát trong tương tác với các hệ thống khác.” Những câu sau đây của David Bohm, một trong những người chống lại trường phái Copenhagen , khẳng định hùng hồn thực tế này: Ta phải tiến đến khái niệm của một cái toàn thể bất khả phân, nó phủ nhận ý niệm cổ điển chuyên nghiệp phân tích thế giới ra những thành phần độc lập và cách ly… Ta quá bảo vệ quan điểm cũ về những hạt cơ bản, cho nó là thực tại đích thực của thế giới, và mọi hệ thống chỉ là dạng hình khác nhau chứa đựng những hạt đó.  Đúng hơn, thực tại cơ bản là mối liên hệ lượng tử, không cách ly được của một cái toàn thể, và những thành phần tương đối độc lập chỉ là những dạng đặc biệt nằm trong thể chung đó. 
Trong Vũ Trụ Tự Thức: Làm Thế Nào Ý Thức Tạo Ra Thế Giới Vật Chất (The Self-Aware Universe: How Consciousness Creates the Material World,) Giáo sư vật lý tại Đại học Oregon và là thành viên của Viện Khoa Học Lý Thuyết, Tiến sĩ Amit Goswami: Thế giới quan của khoa học ngày nay cho rằng tất cả mọi thứ được tạo ra từ vật chất, và tất cả mọi thứ có thể được tối giảm thành các hạt cơ bản của vật chất, thành phần cơ bản, khối tạo dựng, của vật chất. Và nguyên nhân phát sinh từ sự tương tác của các khối tạo dựng cơ bản đó, hạt cơ bản tạo ra nguyên tử, nguyên tử tạo ra phân tử, phân tử tạo ra tế bào, và tế bào tạo ra não bộ.  Tuy nhiên, tận cùng thì nguyên nhân cơ bản luôn luôn là sự tương tác giữa các hạt cơ bản.  Đây là niềm tin cho rằng tất cả các nguyên nhân bắt nguồn từ các hạt cơ bản.  Đây là những gì chúng ta gọi là “nhân quả hướng lên.” Vì vậy, trong quan điểm này, những gì mà chúng ta nghĩ là ý chí tự do không thực sự tồn tại. Nó chỉ là một hiện tượng phụ, thứ cấp, đứng sau sức mạnh nhân quả vật chất. Và bất cứ ý định nào liên quan đến kiểm soát vật chất bằng ý thức chỉ là một ảo tưởng.  Đây là mô hình nhận thức thực tại. 
Chân không, có thể hiểu đại khái, Tạng Luận tư nghị về triết lý, nhân sinh quan và xum la vạn tượng trong vũ trụ. Chi tiếc hơn, Tạng Luận đưa ra các cách luận giải và phân tích các hiện tượng trên phương diện vũ trụ học, triết học, siêu hình học, tâm lý học, nhận thức học, v.v… nhằm giúp chúng ta có chút khái niệm về bản chất của vũ trụ và con người.  Tóm lại, chủ đích của Tạng Luận là mang lại cho chúng ta một trí tuệ hiểu biết, sâu sắc, tinh khiết, và cao siêu nhất vượt lên trên những sự nhận thức vô minh bị chi phối bởi bản năng phàm tục, giới hạn vận hành quy ước và nhị nguyên của tâm thức.  
Trong Sự Phát Triển Của Đại Thừa, Tiết IV A Lại Da Duyên Khởi Luận, “Thuyết Thật Tướng của hai ngài Mã Minh và Long Thọ, thể hiện nghĩa Chân Không của Như Lai Tạng.  Qua đến thời đại Pháp Tướng Học, hai ngài Vô Trước và Thế Thân, lại thuyết minh Như Lai Tạng bằng nghĩa [thực tại] chân như diệu hữu. 
Từ trước, hàng Tiểu Thừa chỉ thành lập có sáu thức là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý Thức. Song sáu thức là những tâm lý sanh diệt, vô thường. Như năm thức trước chỉ do sự kích thích của ngoại giới mà tả tượng vào nội tâm. Chúng không có những tác dụng tinh thần như: so sánh, suy luận hoặc truy niệm cảnh quá khứ. Có đủ những tác dụng ấy và chiếm được địa vị trọng yếu, duy có thức thứ sáu mà thôi. Nhưng dòng ý thức của mổi cá nhân cũng là một thứ tâm lý có gián đoạn một chiều (serial,) niệm trước đã qua, niệm sau mới đến chứ không phải nhiều niệm đến cùng một lúc. Cơ thể chúng ta được cấu tạo bởi ngũ uẩn với tương quan một chiều; chúng ta chỉ có khả năng thực thi một chiều chứ không có thểxử lý đa dạng và khi chúng ta chết rồi thì ý thức đó cũng tiêu tan?   
Nếu không tiêu tan, thế thì cái gì duy trì nghiệp lực làm cho nó không gián đoạn sau khi chúng ta chết?  Ta thấy nhiều người giảng thuyết về vấn đề này rồi.  Nghe để là nghe như vậy thôi chứ ‘thực tại’ có biết, có thấy voi ở đâu mà mò? 
Lý do trên là nguyên nhân thành lập ra A Lại Da Thức của phái Đại Thừa. A Lại Da có nghĩa: Hàm Tàng Thức hoặc Chủng Tử Thức, là một tâm thể chứa đựng tất cả chủng tử của vạn hữu, làm cội gốc duy trì và mở mang ra hiện tượng giới, có đủ ngàn hình muôn trạng bao la. Sáng lập ra thuyết A Lại Da Duyên Khởi là giáo phái Pháp Tướng, cũng gọi giáo phái Duy Thức. Ngoài sáu thức của Tiểu Thừa, phái nầy lập thêm hai thức nữa: Mạt Na (Màna) thứ bảy, và A Lại Da (Alaya) thứ tám. Mạt Na có nghĩa: Chấp ngã, một tâm lý lầm nhận cái ta (ngã) là thực tại có thật.
Theo nhà Duy Thức, nếu nói Chân Như làm duyên khởi cho vạn hữu, là không hợp lý. Bởi Chân Như thì bình đẳng đồng nhất, mà vạn hữu thì muôn hình sai biệt. Vậy căn nguyên phát khởi các hiện tượng muôn vàn sai biệt ấy, tất phải do muôn vàn chủng tử sai biệt. Nơi chứa đựng các chủng lượng tử nầy là thức A Lại Da, và A Lại Da làm nhân duyên phát khởi các pháp, nên gọi là A Lại Da Duyên Khởi. Chính thức A Lại Da nầy cũng do nhân duyên mà thành. Từ vô số kiếp đến giờ, do nghiệp nhân lành dữ huân tập, nó vẫn luôn luôn sanh khởi không gián đoạn, chứa đựng tất cả mọi chủng tử và có khả năng vô hạn để phát hiện ra hữu tình giới và khí thế giới. A Lại Da có hai: Chúng sanh A Lại Da Thức và Như Lai A Lại Da Thức. A Lại Da của chúng sanh có tính ‘cách biệt.’ A Lại Da của Như Lai có tính ‘cách đồng.’  A Lại Da của chúng sanh vô thủy hữu chung. A Lại Da của Như Lai vô thủy vô chung.  A Lại Da của chúng-sanh thuộc Biến Kế Chấp Tánh. A Lại Da của Như Lai thuộc Viên Thành Thật Tánh. 
Duy Thức Tông lập ra ba tánh: Biến Kế Chấp, Y Tha Khởi và Viên Thành Thật. Y Tha Khởi là các pháp do nhân duyên sanh khởi, đứng địa vị trung tâm. Trên Y Tha Khởi mà lầm nhận có không, đoạn thường, sanh diệt, quay cuồng theo hiện tượng là Biến Kế Chấp. Trên Y Tha Khởi mà tiêu diệt những quan niệm ấy, là Viên Thành Thật. Trong A Lại Da Thức của chúng ta chứa đủ chủng tử mê và ngộ. 
Tóm lại, thuyết A Lại Da Duyên Khởi đứng về mặt diệu hữu mà thuyết minh Như Lai Tạng. Thể tướng A Lại Da nầy làm nhân duyên cho nhau sanh khởi vô cùng; trong vô thường ẩn lý chân thường, trong sanh diệt ẩn lý phi sanh diệt, mê cùng ngộ chỉ bởi nơi người mà thôi. Cho nên lời văn trong bài tựa Kinh Lăng Già nói, “Tâm không rời thức, hằng niết bàn nơi sự diệt sanh; thức chẳng lìa tâm, uổng sống chất trong vòng thường trụ” là chỉ cho ý nghĩa nầy vậy. 
Theo truyền thống thì Tạng Luận bắt đầu được hình thành từ thời kỳ Đức Phật còn tại thế và Ma Ha Ca Diếp đã lập lại trước khi kết thúc Đại Hội kết tập Đạo Pháp lần thứ nhất, thế nhưng nếu căn cứ vào văn phong, và các cách lập luận thì Tạng Luận chỉ có thể được trước tác rất muộn về sau này mà thôi. Điều này thật hiển nhiên và cũng đã được chứng minh trên thực tế: các bài bình giải trong Tạng Luận là do nhiều vị đại sư trước tác, và các Tạng Luận do các học phái khác nhau đưa ra cũng không hoàn toàn thống nhất.  Đây là chuyện lịch sử, điều may mắn cho chúng sinh là nhờ tiền nhân đã cố sức duy trì, nhờ vào văn minh của khoa học hiện đại và nhất là nhờ internet với sự đóng góp tích cực của nhân loại trên thế giới mà chúng ta có được những tài liệu Phật Pháp quý giá để tham khảo, học hỏi, và tư nghị nhưng dù có học từ nhiều kiếp cũng không học hết nỗi. 
1.png
Trong Đạo của Vật Lý của Fritjof Capra, Tiến Sĩ Nguyễn Tường Bách viết trong phần Lời Người Dịch: Đặc trưng của nền vật lý hiện đại trong thế kỷ 20th là sự tìm kiếm nguồn gốc khởi thủy của vật chất, cố tìm ra những “hạt cơ bản” cuối cùng tạo nên nguyên tử. Thế nhưng, khi đến cánh cửa cuối cùng mở ra để thấy bộ mặt thật của vật chất, nhà vật lý phát hiện vật chất hình như không phải do những hạt cứng chắc tạo thành nữa, mà nó chỉ là dạng xuất hiện của một thực tại khác. Vì thế mà vật chất mang những tính chất hầu như đối nghịch nhau, nó vừa liên tục vừa phi liên tục, vừa hữu hiện vừa phi hữu hiện, dạng xuất hiện của nó tùy theo cách quan sát của con người.  Những tính chất lạ lùng đó đưa ngành vật lý vào thẳng cửa ngõ của triết học: nền vật lý hiện đại vừa thống nhất và lý giải nhiều khái niệm cơ bản của triết học, vừa đề ra những câu hỏi lớn của loài người mà các nhà đạo học từ xưa tổng kết. Và kỳ lạ thay, những phát hiện hiện nay của nền vật lý hiện đại không khác bao nhiêu so với những kết luận của các thánh nhân ngày xưa. (Cuốn sách là bản dịch Việt Ngữ của “The Tao of Physics” [Đạo của vật lý] của tác giả Fritjof Capra, bản in lần thứ ba, do Flamingo xuất bản năm 1982, dịch giả Nguyễn Tường Bách.) 
Trong Thế Giới Quan Phật Giáo, Cư Sĩ Truyền Bình diễn tả rất trung thực, “Phật giáo thật ra không có thế giới quan, bởi vì đã nói thế giới là không có thật, chỉ là do chúng sinh vọng tưởng, thì làm gì có thế giới quan. Vậy nói thế giới quan là nói theo vọng tưởng của chúng sinh, mục đích là để phá chấp thật chứ không phải để mô tả chân lý. Nói “thế giới quan Phật giáo” tức là đã nói không hoàn toàn đúng sự thật, không đúng thực tướng của vấn đề, vì “động niệm tức quai” (动念即乖 có động niệm, tức khởi lên ý tưởng thì không còn đúng với thực tế nữa.)  Cũng giống như Phật Giáo thường nói: phàm cái gì có thể dùng lời nói, ngôn ngữ để diễn tả thì đều không có nghĩa thật.” 
Tính chất và sự hiện hữu của tất cả vật thể trong vũ trụ xuất phát từ những phản ứng (reactions) và mối tương quan của nhân duyên mà ra. Tự nó không có gì cả, từ không ra có rồi từ có trở về không.  Cho nên, nếu chúng ta hiểu rõ thực tại: Nhân lẫn Pháp đều như huyễn, vô tự tánh, vô sắc tướng thì không còn bị quay cuồng mê chấp theo xum la vạn tượng.  Lúc đó, tâm thức sẽ bình yên, an tịnh; phiền não sẽ được tiêu diệt đưa đến giải thoát khỏi khổ đau; rồi từ đó lần lần sẽ sanh ra giác ngộ. Vậy thực tại từ mê đến ngộ thực ra rất đơn giản chỉ là sự thay đổi quan niệm của tâm ý thức. 
Do đó, mục đích đầu tiên trong truyền thống Phật Giáo là điều chỉnh lại đầu óc cho đúng với mục đích thực tại, bằng cách thiền quán và tĩnh lặng. Từ Sanskrit của thiền quán là Samadhi, có nghĩa sự thăng bằng tâm linh. Nó nói đến trạng thái, trong đó con người chứng thực được sự nhất thể với vũ trụ: Khi giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến,) thể nhập được tâm thanh tịnh thì Bồ Tát chứng được tâm bất nhị của Pháp Giới và chữ Không của vũ trụ, đạt ngộ tri kiến Phật viên mãn. 
Thiền Vipassanā gọi trở về thực tại là chánh niệm, và Thiền Tông gọi là Thân Tâm Nhất Như hay vô niệm.  Tâm có chánh niệm thì không lang thang hướng ngoại hay không bỏ quên thực tại thân tâm, tức không rơi vào thất niệm, tạp niệm hay vọng niệm. 
Chánh niệm là yếu tố có sẵn trong bản chất của tâm, nhưng vì cái ta ảo tưởng chạy theo vọng niệm nên mới thất niệm.  Do đó, khi buông cái ta ảo tưởng xuống thì lập tức chánh niệm trọn vẹn với thực tại hiện tiền. 
Khi tâm rỗng lặng hồn nhiên, không ý niệm, thì chánh niệm là trọn vẹn với thực tại “không là gì cả” tức tánh không (suññatā) của pháp. 
Khi tâm an nhiên tự tại, ở trong pháp mà không dính mắc pháp nào, thì chánh niệm là trọn vẹn với thực tại toàn diện (sabbatthatā) vĩ mô của pháp. 
Khi tâm đang chú ý vào một sự kiện nổi bật đang diễn ra nơi thân-tâm-cảnh thì chánh niệm là trọn vẹn với thực tại như thị (sabhāva) vi mô của hiện tượng danh sắc.
Tuy nhiên, không nên chủ quan để mong được viên diệu với thực tại tánh không (suññatā) hoặc thực tại toàn diện (sabbatthatā) vĩ mô, vì cho rằng tâm đó “thâm diệu” hơn tâm trọn vẹn với thực tại như thị (sabhāva) vi mô đang diễn ra nơi thân-thọ-tâm-pháp.  Vì đó là tùy cảm nhi ứng của tâm có khả năng tùy duyên thuận pháp, chứ không phải là tâm còn phân biệt nhị nguyên có không.  Chánh vô niệm chính là tâm trọn vẹn với pháp ngay tại ‘không hiện tại’ mà không khởi một niệm phân biệt nhị nguyên nào, bởi vì một niệm khởi lên là đã phân ra thiện ác, đúng sai, hữu vô, cao thấp, đốn tiệm… của lý trí vọng thức, đó chính là lúc hình thành cái Ngã ảo tưởng. 
Ví như nghe ‘tiếng vỗ của không bàn tay’ thì ngay lúc đó thì cứ yên lặng mà nghe với tánh nghe chứ không cần phải chấm dứt tiếng vô thanh, vì khi ta khởi tâm muốn chấm dứt tiếng ‘yên tỉnh’ thì tâm ta không còn ‘an tĩnh’ nữa! 
Trở lại sự kiện thực tế, chúng ta thử xem xét một vài tình luống điển hình: Khi ta đang quán niệm hơi thở, đó là một hoạt động hoàn toàn vô ngã của thực tại thân tâm ngay đây và bây giờ, vậy cứ để yên cho hoạt động thở diễn ra một cách tự nhiên như nó đang là (being,) đừng cố gắng kiểm soát hay làm chủ nó vì như vậy là đã xen cái tâm viên ý mã của ta vào rồi.  Hãy để bộ phận hô hấp làm công việc tự nhiên sở trường của nó.  Nếu chúng ta tập kỹ thuật thở theo bất cứ dưỡng sinh, yoga, thiền hay khí công gì đó tùy nhu cầu thiết thực của riêng ta cũng điều tốt cả, nhưng nếu chúng ta xem đó là tu tập chánh niệm thì không hẳn đã đúng, dù lúc đó tâm ta có thể ổn định cao nhưng không hẳn là tâm đang trọn vẹn với thực tại, vì tâm định vẫn còn bị các tưởng sắc và vô sắc che ám, nhất là khi ta luyện tập thiền định với ham muốn đạt được một trạng thái lý tưởng.  Khi tâm ta đã mở ra trí tuệ Phật thấy thực tánh pháp thì ta sẽ không còn xem bất kỳ trạng thái nào là lý tưởng nữa. Điều tối quan trọng, nên nhớ rằng những phương pháp trên đây chỉ là phương tiện tạm bợ chứ không phải là chân lý vĩnh hằng.  Đó chính là diệu ý tối thượng của câu “Ưng vô sở trụ!” 
Chánh niệm cũng còn có nghĩa là không phải là từ bỏ thuận dòng đời bên ngoài để chỉ an trú ngược dòng đạo bên trong. Thực tại, đời sống là một sự tương giao với nhân duyên gắn bó không phân biệt trong ngoài. Nếu ta sở trụ vào bên ngoài thì bỏ mặc bên trong, nhưng nếu sở trụ vào bên trong thì lại quên mất bên ngoài.  Như vậy là ta đánh mất tánh toàn diện của thực tại, để tự cô lập mình trong một đời sống phân ranh, đơn điệu. 
Khi biết thế nào là chánh niệm thì dù thực tại đó là hơi thở, là đi, đứng, ngồi, nằm, là tất cả thân hành; là những cảm giác hay cảm xúc khổ, lạc, hỷ, ưu, xả; là những trạng thái của tâm, là cái “không… là gì cả” hay là cái “tất cả” thì chiếu kiến được thực tại chỉ là tùy nhân duyên, không có gì quan trọng, tự thân chánh niệm mới là một trong những yếu tính cốt lõi của tâm thiền. Tâm chánh niệm lặng lẽ trên mọi đối tượng mà không dừng lại ở bất kỳ đối tượng nào.
 Cho nên, đừng quá quan tâm chú niệm vào những trạng thái thân, thọ, tâm, pháp, với tham vọng trụ tâm, với nỗ lực tìm kiếm điều gì trong đó, hoặc với mong cầu qua đó sẽ đạt được những sở đắc lý tưởng, vì như thế tâm ta lại bị dính vào một đối tượng hay một mục đích khiến ta phải phân tâm hay ngưng trệ, nghĩa là làm như vậy ta không thể có được một tâm chánh niệm trọn vẹn với thực tại hiện tiền, ‘Nhi sinh kỳ tâm!’ 
Như đã đề cập ở trên, trở về trọn vẹn với thực tại hiện tiền chủ yếu là không để tâm phan, lang thang hướng ngoại tìm cầu một cách mê muội trong tình trạng vong thân, tha hóa, chứ không phải là trở về mải mê tìm lại cái tự ngã bên trong để cô lập mình với thế giới bên ngoài. 
Trong Trở Về Thực Tại, Viên Minh diễn giải về phương pháp thiền định rất tuyệt vời: Dù ta đang làm điều gì mà cũng không quên thực tại thân tâm ngay trong công việc đó thì thật là tuyệt vời.  Được như vậy, ta có thể ung dung, tự tại, giữa đạo và đời và khi làm gì cũng không ra ngoài chánh niệm nơi thực tánh pháp tự nhiên.  Ba yếu tố tinh tấn, niệm và định thuộc về định phần trong Bát Chánh Đạo.  Yếu tố tinh tấn thuộc về động, yếu tố định thuộc về tĩnh, còn chánh niệm vừa động trong tĩnh, vừa tĩnh trong động, cho nên chánh niệm có khả năng ổn định một cách uyển chuyển tự nhiên, không cần dụng công tọa thiền hay nhập định gì cả mà tâm vẫn an nhiên tự tại. 
 Theo tôi, đây là cái thâm diệu vô cùng vô tận của Phật Giáo Thiền so với những phương pháp thiền khác.  Tuy nhiên, bất cứ phương pháp thiền nào của ngoại đạo cũng đều có kết quả tốt đẹp cho sức khoẻ tâm thân tùy theo căn cơ, nhân duyên và nhu cầu thích hợp của hành giả thiền.  Dĩ nhiên, Phật Giáo không chống đối hay phủ nhận sự ích lợi bản thân của tu thập thiền nhưng đã là Phật Tử dù tu tập bất cứ loại thiền định nào thì nên nhớ rằng:  Đức Thế Tôn lúc mới tầm đạo đã học qua những phương pháp tu thiền này, Ngài đã thành đạt tứ thiền cao nhất và trước cả các bật thầy đã dạy mình nhưng không thấy đó là thực tại rốt ráo nên tự mình đi tìm chân lý, đại giác ngộ và trở lại giảng dạy và chỉ điểm cho những bật tu sĩ đã dạy mình lúc trước.  Những phương pháp thiền khác dễ có kết quả mau chóng hơn phương pháp thiền tông Phật Giáo vì bướt đầu nhờ dựa vào tha lực.  Tuy nhiên, những phương pháp thiền này có thể giúp ta an tâm, bớt khổ đau đạt tới ngũ thông nhưng không thể đạt được lục thần thông, nên khó mà phá nổi vòng thập nhị nhân duyên, tận nhân quả, và giác ngộ thành Phật.
 Tôi không muốn đi sâu và đề cập đến vấn đề huyền diệu này nhưng gần đây có một số độc giả đã liên lạc và hỏi tôi làm sao cho thể ‘bổ xung trí tuệ và áp dụng tạng quang minh’ vào trong thiền định để khỏi bị tẩu hoả nhập ma?  Tôi không có đủ tài đức, trí tuệ và đức độ để giảng về điều này mà chỉ xin hồi hướng tới các bật chân tu và thiện tri thức từ bi chỉ dạy cho nhân sinh cái công án này. 
 Tuy nhiên, tôi đã không biết mà lại không chịu vòng tay ưa dựa cột mà nghe, lại hình như ‘nghe’ được cái vô thanh như ‘lôi dã’ và tưởng tượng ‘thấy’ được cái vô sắc tướng của tạng quang minh (bức xạ ảnh) trong chân không rồi lầm tưởng là ‘biếthết’ nên xin thưa thốt: Cái bí mật là nếu chúng ta biết được vũ trụ thở ra, hút vào, co dãn như thế nào mà bắt chước tập y chang theo như vậy thì may ra sẽ luyện được tuyệt kỷ công phu của tri kiến Phật?  
 Cũng như tôi đã viết trong cuốn sách Phật Giáo và Vũ Trụ Quan, 08/12/2015:  Quán Tự Tại Bồ Tát ‘hành thâm diệu viên giác’ Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, ‘chiếu kiến vũ trụ giai không’ mới ngoài tâm và ngoài cả Tri Kiến Phật.  Khi đó mới ‘như thị viên giác’ (thấy rốt ráo với phi tánh sáng suốt tròn đầy) được tâm tướng là tâm không; không tâm là tướng tâm!  Dĩ nhiên là câu ‘Độ nhất thiết khổ ách’ của Ngài Trần Huyền Trang thêm vào trong Bát Nhã Tâm kinh không cần thiết nữa. 
 Như thảo luận ở những phần trên, trở về trọn vẹn với thân (niệm thân) tuyệt đối dễ. Trở về trung thực với những cảm giác (niệm thọ) tương đối khó hơn.  Vì khi cảm giác khổ dấy lên ta thường muốn chấm dứt nó ngay, càng sớm càng tốt nhưng lại vô tình làm gia tăng và kéo dài cái cảm giác khổ ấy.  Khi có cảm giác an lạc ta thường muốn níu giữ nó lại càng lâu cáng tốt, vì vậy, biến nó thành nỗi khổ của cái tâm lo sợ sự mất mát, biến hoại quá vô thường. Tâm phan càng lăng xăng, lo lắng giải quyết làm sao bám trụ hay loại bỏ thực tại với những cảm giác một cách chủ quan hời hợt bên ngoài thì bên trong những cảm giác ấy lại càng gia tăng áp lực mà ta không đủ tịnh tĩnh và tỉnh ngộ tại để nhận ra.  Cho nên, ta chỉ vô tình bóp méo hoặc cố ý điều chỉnh những cảm giác theo ái dục của riêng ta hơn là trọn vẹn với bản chất thực tại của những tâm giác ấy.
Chánh niệm đối với tâm (niệm tâm) chính là trở về với thực tánh của tâm chứ không để tâm chạy theo đối tượng của ảo tưởng. Tuy nhiên, không để tâm phan duyên lang thang theo đuổi đối tượng bên ngoài không có nghĩa là ta bắt tâm dừng lại (định,) và cũng không nên quá quan tâm xem xét trạng thái tâm một cách đơn điệu như một đối tượng chọn lựa, vì như vậy ta không thấy được tâm trong tình huống tự nhiên của nó. Ta chỉ cần trở về ngay nơi hiện trạng diễn biến của tâm ngay khi nó đang sinh khởi hay hoại diệt là được, tự nó đến đi, không cần phải dụng công lo ra cho trạng thái tâm đó cả.   Lúc đó, có thể ta sẽ thấy ra tự tánh pháp (sabhāva dhamma) ngay nơi thực tại với thân tâm huyễn hóa này. (Trở Về Thực Tại, Viên Minh)
 Đó là lý do vì sao đức Phật dạy hãy trở về mà thấy sự thật (Ehipassiko) ngay nơi thực tại hiện tiền (Sandiṭṭhiko,) bởi vì ngoài bản tâm thanh tịnh không còn tìm đâu ra mảnh đất bình an trên cõi đời vô thường tạm bợ này để làm nơi nương tựa:
 “Nương tựa nơi chính mình, không nương nhờ ai khác.
Tâm thuần tịnh mới là nơi nương nhờ khó được” (PC. 160)
Chức năng của chánh niệm là đưa tâm trở về thực tại, hay nói cách khác là giải thoát tâm ra khỏi những hệ lụy do đánh mất chính mình trong điên đảo mộng tưởng(saññāvipallāsa.)  
Trong Trở Về Thực Tại, Viên Minh viết, cụ thể là chánh niệm trong thiền định giúp ta:
* Hóa giải mọi ràng buộc: Tất cả ràng buộc đều do vọng niệm xuất phát từ cái ta ảo tưởng hay còn gọi là bản ngã vô minh ái dục.
* Chánh niệm là trở về với thực tánh pháp (sabhāva) nên không còn bị trói buộc trong tưởng điên đảo (viparita saññā) hay tâm ảo hóa (vipallatta citta) cùng với những phóng ảnh không thực của nó nữa.
* Sống an nhiên tự tại: Nguyên nhân của tâm bất an, bất tại, quên mất chính mình, là do thất niệm hay tán tâm tạp niệm, nghĩa là tâm bị lôi cuốn về quá khứ, hướng vọng đến tương lai hoặc đắm chìm trong hiện tại. Khi chánh niệm trọn vẹn với thực tại ở đây và bây giờ thì mọi ý niệm thời gian đều tự động biến mất không còn dấu vết. Ngay đó tâm hoàn toàn tự do, thoát khỏi mọi áp lực của thời gian tâm lý. Vì vậy, người sống trọn vẹn với thực tại luôn được thanh thản, thoải mái, an nhiên, tự tại.
* Trí nhớ ít suy giảm: Khi bị căng thẳng hay dính mắc vào một điều gì người ta thường hay quên, hay đãng trí. Trái lại, người có chánh niệm ít bị áp lực của sự dính mắc, căng thẳng, nên tâm được khinh an thư thái nhờ đó trí nhớ sẽ tốt hơn. Tất nhiên trí nhớ còn tùy thuộc vào sự lão hóa của tế bào não, nhưng chính sự phân tâm, căng thẳng thúc đẩy tế bào não suy thoái nhanh hơn.
* Tâm định được dễ dàng: Tâm định là tâm không bị chi phối bởi ngoại cảnh, nghĩa là dù ở trong ngoại cảnh tâm vẫn bất loạn. Khi tâm đang bận rộn trong ham muốn, bực tức, tán loạn, trì trệ hay phân vân lưỡng lự thì rất khó mà an ổn để chú tâm vào một việc gì trong hiện tại. Còn khi tâm có chánh niệm thì việc chú tâm vào thiền định hay chuyên chú vào công việc là chuyện rất dễ dàng.
* Bảo toàn được nguyên khí: Chánh niệm chính là nguyên lý “Tinh thần nội thủ” trong y học cổ truyền phương Đông. Theo nguyên lý này thì khi tâm trở về trọn vẹn với chính nó thì chân khí không những không bị phân tán, mà còn được bảo toàn nguyên vẹn, tức là ý chánh niệm thì khí cũng quy nguyên.
* Làm chủ được thân tâm: Người tinh thần bị phân tán đã không thể chú tâm thì làm sao có thể làm chủ được thân khẩu ý. Giống như một người lái xe bị ngoại cảnh chi phối không thể điều khiển tốc độ hay hướng đi thích ứng được nên rất dễ gây ra tai nạn. Còn người chánh niệm không cần cố gắng vẫn có thể tự chủ một cách dễ dàng tự nhiên.
Thực tại là một rừng 84000 kinh điển và sách vỡ thảo luận của khoa học hiện đại, tóm lại họ đã nhất trí về những gì Phật Giáo đã định nghĩa từ ngàn xưa đó là: Vô thường (impermanent,) thay đổi (uncertainty,) vô sở (non-locality,) vô trụ (no-space,) tính linh (virtual intelligent,)…với những lối giải thích logic khoa học, dể hiểu và thích hợp hơn cho kiến thức và suy tư của chúng ta bây giờ.
Dễ hiểu, thích hợp hơn chứ chưa chắc là đúng với thực tại, theo tôi dùng kiến thức tích lũy dựa trên dụng cụ đo lường của ngũ uẩn để khám phá thực tại và dùng ngôn ngữ diễn tả thực tại là đã sai rồi.  Càng nói càng sai, càng sai càng viết, càng viết càng sai.  Dĩ nhiên, độc giả và những khán thính giả càng nghe, càng đọc, càng thấy, càng không biết thực tại là cái quái gì nữa vì nó cứ ‘sai trang, chạy quàng.’
Vì bản thể là một thực tại tuyệt đối, nên thực tại tuyệt đối luôn luôn là bất khả thuyết, nhưng ngay bản chất giới hạn của ngôn ngữ biểu tượng cũng là bất khả thuyết, cho nên có một sự tương ứng giữa tiến trình biểu tượng và tiến trình bản thể thực tại, chúng không những không đánh mất tinh thể của ngôn ngữ, mà còn mang lại cho ngôn ngữ một giá trị như là một con đường đi đến tuyệt đối của bản thể qua giả danh. 
Như đã được đề cập ở trên, Phật Giáo và phân tâm học cùng công nhận dòng tâm ý thức của mổi cá nhân cũng là một thứ tâm lý thường gián đoạn với khả năng một chiều.  Hình như, đa số kinh điễn Phật Giáo quan niệm rằng cơ thể của mỗi cá nhân được cấu tạo bởi ngũ uẩn với tương quan một chiều cho nên“mỗi chúng ta” chỉ có khả năng hành động một chiều.  Tâm niệm trước đã qua, ý niệm sau mới đến chứ không phải nhiều thức niệm đến cùng một lúc.  “Mỗi chúng ta” chỉ có khả năng thực thi nhiệm vụ một chiều chứ không có thể xử lý đa dạng.
Theo tôi nghĩ, những cảm nghĩ trên chỉ đúng cho mỗi cá nhân, cho mỗi cái tiểu ngã còn ích kỷ vô minh chưa biết mục đích và nhiệm vụ của “mỗi chúng ta” lẫn khả năng thực thi và trách nhiệm hành động của “mỗi chúng sinh” trong cõi Ta Bà này.  Thực tại là vũ trụ, chúng sinh lẫn nhân sinh không phải được cấu tạo một chiều mà là nhiều chiều song song, cùng một lúc với một quá trình lịch sử.  Nếu “mỗi chúng ta”không còn sở trụ và  ích kỷ vào chấp ngã thì “chúng ta” sẽ tái thần thông có khả năng xử lý đa dạng và sẽ giác ngộ được lý do hiện hữu của chúng ta trên cõi Ta Bà này.
Vì vậy, ngay cho đến bây giờ, thực tại của “mỗi chúng ta”không phải là con khỉ khô gì cả. Vì con khỉ khô gì cả đó không phải là thực tại.  Đó là thực tại!
Tóm lại, thực tại có nghĩa là nói nghĩa như vậy chứ không phải thực tại nghĩa như vậy.  Thực tại nghe như vậy chứ không phải thực tại âm thanh như vậy.  Thực tại thấy như vậy chứ không phải thực tại giống như vậy.  ‘Như như thực thực tự tại thực nhưvậy,’ cho nên thực tại được cảm nhận như vậy và dường như thực tại là ấn tượngnhư vậy!  Đó là “như thị tri kiến thực tại.”

Thứ Tư, 19 tháng 4, 2017

THIỆT THÒI NÔNG DÂN

Bài này đăng mục Thời Luận báo Đại Đoàn Kết ngày 4/10/2007 (gần 10 năm trước, sau sự cố sập cầu Cần Thơ đang thi công), nay thấy vẫn còn thời sự nên post lại để nhớ:

Thời luận 4-10-2007

THIỆT THÒI NÔNG DÂN

Phần lớn những người bị nạn trong thảm họa cầu Cần Thơ đều là nông dân. Trong số đó không ít người là những nông dân “mất đất” từ các dự án đô thị hóa. Họ chỉ vừa mới rời khỏi ruộng vườn, tay hãy còn lấm chân vẫn còn bùn đã phải vội vã, bươn chãi bước vào “đại công trường” cầu Cần Thơ. Nhiều người trong số họ khoác áo công nhân đồng thời với sự am hiểu mù mờ về các điều kiện an toàn lao động, mơ hồ về các điều khoản bảo hiểm cũng như các quyền lợi khác của người lao động trong lĩnh vực xây dựng. Những người mẹ, người vợ lo lắng cho con, cho chồng đã từng nói trong nước mắt: “Ở nhà có cháo ăn cháo, có rau ăn rau. Đi làm công trình nhiều tai nạn, nguy hiểm lắm, biết còn giữ được tính mạng hay không?”. Những điều lo lắng đó đã thành sự thật vào 8 giờ sáng ngày 26 tháng 9 ở cầu Cần Thơ.

Tốc độ đô thị hoá càng nhanh số lượng nông dân mất đất ngày càng nhiều trong khi các chính sách về đất đai hiện đang còn rất bất cập khiến cho tình cảnh của không ít bộ phận nông dân trở nên rất tồi tệ. Đã từng có những cảnh báo với Nhà nước từ những người có trách nhiệm về việc chúng ta có nguy cơ không thể giải quyết tốt “bài toán” nông dân mất đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Mà cụ thể là các chính sách đền bù, giải tỏa, tái định cư, tái đào tạo nghề, cũng như các yếu kém của bộ máy công quyền dung dưỡng cho đặc quyền đặc lợi, tiêu cực, tham nhũng để dẫn tới hệ quả phân chia đất đai không công bằng, không minh bạch…làm nảy sinh những xung đột mạnh mẽ trên con đường phát triển. Không ít người nông dân hiện nay đang đứng trước những thử thách rất lớn. Họ không hề được chuẩn bị khi bước ra khỏi mảnh đất muôn đời của mình. Họ hoặc bị hút vào vòng xoáy công nghiệp hóa một cách vô ý thức, thiếu hiểu biết hoặc bị đẩy ra ngoài và đứng bên lề của sự phát triển. Chúng ta không phủ nhận có một số ít nông dân vượt qua được số phận của mình và vươn lên nắm bắt các cơ hội làm ăn. Họ thích ứng được với sự thay đổi và trở nên giàu có. Nhưng số này hãy còn quá ít và hầu hết đều do họ tự thân vận động chứ chưa phải là kết quả từ những chính sách hỗ trợ hữu hiệu của nhà nước.

Nông dân hiện đang chiếm khoảng 73% dân số cả nước là một lực lượng to lớn và có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển chung của đất nước. Trước kia, trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nông dân đã tự nguyện hy sinh rất nhiều cho độc lập dân tộc mà không hề đòi hỏi điều kiện gì. Nhưng ngày nay, trong điều kiện hòa bình, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, nói như đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc: “không thể đòi hỏi người nông dân cứ phải hy sinh mãi được”!. Vị đại biểu này còn cho biết, ông đi thực tế nhiều nơi và nhận thấy nông dân ta mất đất …dễ quá! Nhiều khi chỉ cần một nét kẻ của một ông chủ tịch nào đó - tất nhiên là nhân danh tập thể, thế là đất đai canh tác từ nhiều đời của người nông dân bị chuyển đổi không chỉ công năng mà cả người sử dụng nữa. Với tư cách là đại biểu Quốc hội, ông Quốc cũng đã thực hiện quyền giám sát, kiểm tra, phát hiện những bức xúc của dân rồi chuyển cho các cơ quan chức năng giải quyết. Thế nhưng vị đại biểu này cũng phải than rằng: “Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, phải nói thành thực là giải quyết không mấy khi triệt để. Nguyên nhân là vì hệ thống chính sách của chúng ta rối rắm, mâu thuẫn và còn nhiều kẻ hỡ”.

90% các cụ khiếu kiện đông người vừa qua là có liên quan tới vấn đề đất đai, trong đó khiếu kiện đúng từ 70 đến 80% số vụ. Những con số biết nói đó cho ta thấy điều gì? Phải chăng là nhà nước cần phải quan tâm hơn tới các chính sách về đất đai có liên quan tới quyền lợi lâu dài và hợp pháp của người nông dân. Trước hết là phải nghiêm túc đánh giá lại các nguyên nhân của khiếu kiện để điều chỉnh hợp lý các chính sách cho hợp lòng dân và đáp ứng được các nhu cầu phát triển hơn. Cần phải coi trọng ý dân và tiếp thu đầy đủ các yêu cầu bức xúc của dân để hiểu được trách nhiệm của nhà nước là tạo ra một hành lang an toàn và ổn định cho sự phát triển, tránh những xung đột không cần thiết. Nếu cần phải dùng biện pháp mạnh thì trước hết là phải chận đứng ngay các hành vi lạm dụng chức vụ quyền hạn của các quan chức nhà nước tranh thủ đặc quyền, đặc lợi bao chiếm và tham nhũng đất đai, phá vỡ các tư tưởng  tốt đẹp của nhà nước cách mạng trong vấn đề nông dân.



Thứ Bảy, 15 tháng 4, 2017

Chúng ta đã mất Biển Đông chưa?

"Chúng ta đã bị mất Biển Đông hay chưa?". Đó là tựa đề bài viết của giám đốc tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á, ông Gregory B.Poling, trên trang web của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) ngày 11/04/2017

Theo chuyên gia Poling, Trung Quốc đang ngày càng có nhiều quyền lực trên Biển Đông, nhờ vào các căn cứ có thể sử dụng cho mục đích quân sự lẫn dân sự tại quần đảo Trường Sa, và việc nâng cấp các thiết trí quân sự ở Hoàng Sa. Bắc Kinh nhất quyết bảo vệ « quyền lịch sử » rộng rãi nhưng lại được định nghĩa một cách mơ hồ của mình, về « đường lưỡi bò » chín đoạn, vốn vi phạm luật pháp quốc tế.

Trong khi đó tân chính quyền Mỹ vẫn chưa có chiến lược rõ ràng về Biển Đông, để lại những dấu hỏi lớn về sự cam kết của Washington trong khu vực. Và ngoại trừ Hà Nội, các nước Đông Nam Á khác có yêu sách chủ quyền tại Biển Đông, trước những diễn biến gần đây đã có những phản ứng khác nhau – từ thái độ chấp nhận thua cuộc ở Manila, đến ý định nhắm mắt cho qua của Jakarta.

Mặc dù trong chín tháng vừa qua Trung Quốc không leo thang mạnh mẽ lắm, nhưng chưa bao giờ cán cân ở Biển Đông nghiêng hẳn về Bắc Kinh như lúc này, với chiến lược bậc thầy của Trung Nam Hải. Tình hình này khiến các nhà phân tích phải tự hỏi, liệu Hoa Kỳ và các quốc gia có cùng quan điểm đã thua trận trong cuộc chiến đấu hay không. Phải chăng bây giờ là lúc Mỹ ra đi, bỏ lại các nước Đông Nam Á phải tự chống chọi, trong cuộc chiến không cân sức với Trung Quốc ?

Biển Đông chưa được quan tâm đúng mức

Một lý do chính cho sự yếu kém thấy rõ của Mỹ và các nước khác trong khu vực, là đa số người Mỹ vẫn chưa hiểu được tại sao Washington phải quan tâm đến Biển Đông. Ngay cả trong chính phủ, câu trả lời cũng bất nhất giữa các cơ quan với nhau, và trong nội bộ từng cơ quan. Làm thế nào Hoa Kỳ và các đối tác có thể theo đuổi một chiến lược dẫn đến thành công, hoặc thừa nhận thất bại, nếu họ không thể đồng ý với nhau về những gì được coi là chiến thắng?

Chính quyền Obama đã duy trì một danh sách khá logic về các lợi ích của Mỹ tại Biển Đông : bảo vệ trật tự dựa trên cơ sở luật pháp, duy trì an ninh khu vực (trong đó có sự an toàn của các đồng minh Mỹ), và tự do hàng hải. Tiếc rằng cũng như nhiều chính sách châu Á khác, đội ngũ của ông Obama chứng tỏ có tầm nhìn chiến lược mạnh mẽ, nhưng trong việc giải thích và áp dụng thì lại yếu ớt. Cũng giống như khái niệm xoay trục được định nghĩa qua các sáng kiến an ninh, mặc dù đã tốn rất nhiều thời gian cho các nỗ lực kinh tế, ngoại giao và văn hóa xã hội, cuộc tranh luận về Biển Đông vẫn bị đè nặng bởi lý giải sai lầm rằng đây là sự ganh đua giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc về quân sự.

Tranh chấp Biển Đông không phải là vấn đề song phương Mỹ-Trung, và không thể giải quyết bằng cách mặc cả giữa Washington và Bắc Kinh. Biển Đông cũng không phải chủ yếu là sự đối đầu quân sự, và như vậy không thể có giải pháp quân sự.

Điều này không có nghĩa là quân đội Trung Quốc không nhìn thấy một mệnh lệnh chiến lược mạnh mẽ trong tranh chấp Biển Đông, hay năng lực bành trướng của Trung Quốc đang mở rộng từ các đảo nhân tạo, sẽ không gây khó khăn cho cuộc chiến đấu của Hoa Kỳ trong một cuộc xung đột tiềm năng. Đó là những nhân tố góp phần trong tranh chấp, cũng như việc tranh giành tài nguyên, tuyến đường hàng hải chiến lược và nhiều vấn đề khác. Nhưng đây không phải là gốc rễ của tranh chấp Biển Đông, cũng không là lợi ích cơ bản của Hoa Kỳ và các nước bạn.

Như chuyên gia Bill Hayton đã lập luận một cách đầy thuyết phục, tranh chấp Biển Đông thực chất là sự ganh đua của các chủ nghĩa dân tộc. Đặc biệt là luận điệu về các quyền của Trung Quốc, đang thách thức mọi sự kiện lịch sử, luật pháp quốc tế và lợi ích của các nước láng giềng. Bắc Kinh cho là mình có quyền và quyết tâm độc chiếm Biển Đông bằng mọi phương tiện cần thiết. Việc này đã trực tiếp đe dọa lợi ích của Hoa Kỳ, mà lợi ích này vượt xa lên trên khả năng tự do hoạt động của Hải quân Mỹ tại Biển Đông.
Đó chính là một hệ thống quốc tế rộng rãi – gọi là « trật tự dựa trên luật pháp » vẫn thường được chính quyền Obama nêu ra. Trong đó các Nhà nước đều bình đẳng với nhau theo các quy định và tiêu chuẩn đã cùng thỏa thuận ; đàm phán cũng như thủ tục trọng tài thay thế cho cưỡng bức và vũ lực – được coi là phương cách giải quyết tranh chấp.

Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và các luật lệ theo tập quán quốc tế làm chỗ dựa cho công ước, là những thành phần chủ yếu của hệ thống này. Tất cả đã bị thiệt hại nghiêm trọng bởi những hành vi nhằm xác quyết chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông. Các quốc gia khác sẽ nhanh chóng nhận ra rằng họ bị bất lợi khi nghiêm túc tôn trọng UNCLOS, trong khi Trung Quốc bất chấp.

Hậu quả : Biển Đông sắp mất
Tiếc thay, trật tự dựa trên cơ sở luật pháp thì trừu tượng, không giúp bán được báo. Sự yểm trợ quân sự của Hoa Kỳ và các cường quốc bậc trung khác như Úc, Nhật Bản, Ấn Độ hết sức quan trọng để giúp các nước Đông Nam Á không bị Trung Quốc đè bẹp.

Hoa Kỳ phải đóng vai trò chủ đạo để răn đe thái độ hiếu chiến và các hành động leo thang quan trọng khác của Trung Quốc – như đã từng lên tiếng cảnh cáo ý định xây dựng trên bãi cạn Scarborough mùa xuân vừa rồi. Các quốc gia đối tác cần tìm cách tăng cường năng lực cho Hải quân và tuần duyên các nước Đông Nam Á, để họ có thể bảo vệ vùng biển tranh chấp, vốn đang phải đối mặt với áp lực chưa bao giờ tăng cao đến thế của Trung Quốc. Nhưng những nỗ lực an ninh này nhằm cải thiện tình hình tại chỗ, chứ chưa phải là hồi kết.
« Chiến thắng » tối hậu trên Biển Đông cho Hoa Kỳ và các đối tác là thuyết phục được Trung Quốc điều chỉnh những yêu sách của mình cho phù hợp với luật pháp quốc tế, và bình đẳng với các nước láng giềng. Đó là một thử thách khổng lồ, đòi hỏi phải có một chiến dịch ngoại giao và luật pháp tập trung vào việc vạch trần tính bất hợp pháp của các yêu sách Trung Quốc, khiến Bắc Kinh phải mang tai tiếng.

Quan trọng nhất là phải có những cam kết dài hạn. Việc vạch mặt chỉ tên và tố cáo để Trung Quốc tỏ ra khiêm tốn hơn, có thể phải mất cả một thập niên. Trung Quốc không phải là miễn nhiễm trước áp lực quốc tế hay trước cái giá phải trả cho việc trở thành một kẻ ở ngoài vòng pháp luật, nhưng sức kháng cự của họ rất lớn.

Hoa Kỳ và Philippines muốn tập hợp một liên minh quốc tế cho nỗ lực này. Trước hôm Manila chiến thắng ở Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye tháng 7/2016, một số đáng kể các quốc gia trên thế giới đã kêu gọi Trung Quốc tuân thủ phán quyết của tòa. Nhưng liên minh này đã tan rã sau khi tổng thống Rodrigo Duterte quyết định từ bỏ việc sử dụng áp lực quốc tế, với hy vọng Bắc Kinh sẽ đáp ứng một cách hòa hoãn hơn.

Quyết định của ông Duterte chủ yếu do quan điểm tư tưởng của ông, nhưng được biện minh là do Hoa Kỳ sẽ không bảo vệ Philippines chống lại Trung Quốc. Đây là một vết thương tự gây ra, có thể tránh được nếu chính quyền Obama nói rõ là hiệp ước quân sự hỗ tương giữa hai nước có thể áp dụng, để hỗ trợ cho quân đội và tàu chiến của Philippines trong vùng biển tranh chấp.
Trong khi được Duterte chìa ra cành ô liu và chính quyền Trump lo tập trung vào những hồ sơ khác, Trung Quốc tiếp tục củng cố các lợi ích của mình. Nhờ có các hải cảng và cơ sở hạ tầng đi kèm, số lượng tàu Trung Quốc tăng lên đáng kể tại khu vực nửa phía nam của đường 9 đoạn. Trong khi đội quân tiên phong này liên tục lấn chiếm vùng biển của các nước láng giềng, Trung Quốc tăng cường hơn bao giờ hết khả năng can thiệp, để ngăn trở các nước Đông Nam Á sử dụng vùng biển và đáy đại dương mà luật pháp quốc tế bảo đảm cho họ.

Nếu không có gì thay đổi, Trung Quốc trên thực tế sẽ kiểm soát toàn bộ vùng biển, vùng trời và tài nguyên của Biển Đông. Hải quân Hoa Kỳ có thể tiếp tục tiến hành các hoạt động ở vùng biển tranh chấp, làm ngơ trước những hành vi quấy nhiễu của đối tác Trung Quốc, nhưng sẽ không dễ chịu chút nào cho các nước Đông Nam Á cũng đòi hỏi chủ quyền Biển Đông. Việt Nam có thể tiếp tục phản đối thực tế mới này, nhưng những nước khác có cơ phải thích ứng với thực trạng tại chỗ. Hậu quả là hệ thống quốc tế và trật tự khu vực châu Á sẽ thường xuyên bị thay đổi theo hướng gây thiệt hại nặng nề cho lợi ích của Mỹ.

Thế nên, phải chăng Hoa Kỳ và các nước bạn đã bị mất Biển Đông ? Câu trả lời là chưa. Nhưng họ đang đánh mất, và mất một cách nhanh chóng.

Để thay đổi tình hình, trước tiên Washington cần phải nhìn nhận tầm quan trọng của hồ sơ này. Chính quyền Trump cần có chính sách rõ ràng và mạnh mẽ để bảo vệ lợi ích của Mỹ, đặc biệt là trật tự dựa trên luật pháp tại Biển Đông. Thứ đến, chính phủ Hoa Kỳ cần nắm lấy cơ hội, khi chính quyền Duterte nhận ra rằng Bắc Kinh không nhượng bộ như họ vẫn hy vọng – có lẽ qua lệnh cấm đánh cá trong khu vực, kể cả ở bãi cạn Scarborough kể từ ngày 1/5 của Trung Quốc.

Để đặt nền móng cho việc này, chính quyền ông Trump phải làm một việc từ lâu được chờ đợi : nói rõ rằng theo hiệp ước hỗ tương giữa hai nước, Mỹ sẽ yểm trợ lực lượng Philippines tại Biển Đông, vì vùng biển này thuộc Thái Bình Dương, theo điều V của hiệp ước. Như vậy công việc khó khăn là tái lập lực lượng quốc tế đối phó với yêu sách của Trung Quốc mới có thể khởi đầu.

Theo Thụy My - RFI

Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2017

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ hiểu về cách mạng công nghiệp 4.0 như thế nào?: "Hội chứng 4.0"



Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ hiểu về cách mạng công nghiệp 4.0 như thế nào? - "Hội chứng 4.0" :

“Các trường đừng quá nhấn mạnh hội chứng 4.0. Làm gì có trường Đại học nào 4.0. Thầy cô cần xem cuộc cách mạng này như là một cơ hội, nắm bắt không gấp gáp mà phải chắc chắn, trên thế giới cũng đã tiếp cận xu hướng này”.

– Bộ trưởng GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ nói tại Trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật TPHCM chiều 13/4/2017.
Có lẽ ông quên trước đó 10 ngày, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 vào chiều 3/4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu phải tuyên truyền mạnh mẽ để nâng cao nhận thức cho người dân về vai trò quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (Industry 4.0)
Cũng tại đây, người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh: Industry 4.0, cơ hội đem đến cho chúng ta rất lớn, tuy nhiên thách thức cũng không hề nhỏ. Bộ Chính trị và Chính phủ rất quan tâm đến việc này bởi hiện nay tất cả thế giới đang quan tâm đến Industry 4.0.
Vậy mà Bộ trưởng GD&ĐT, một trong những cơ quan chủ lực cho việc thực hiện Industry 4.0 ở VN lại xỏ xiên "đừng quá nhấn mạnh hội chứng 4.0" tại một trong những trường đại học sự phạm kỹ thuật hàng đầu. Nơi lẽ ra phải chuyển mình sớm nhất, để chuẩn bị cho đội ngũ giảng dạy vốn phải luôn là những người đi đầu trong các cuộc cách mạng về tri thức và kỹ thuật của thế giới.
Hầu hết các nước phát triển đều đang ráo riết chuẩn bị nguồn nhân lực cho các ngành nghề mới liên quan tới Industry 4.0.
Ở Mỹ, Ủy ban giáo dục các hệ thống thực - ảo thế kỉ 21 đã và đang hoạch định chiến lược chuẩn bị một môn học mới ở cấp mầm non phổ thông và một chuyên ngành đào tạo mới ở cấp đại học gọi là “Giáo dục các hệ thống thực - ảo thế kỉ 21” (21st Century Cyber - Physical Systems Education: CPS). Đây là môn học mới mang tính liên ngành nên Ủy ban CPS khuyến cáo cần có các chuẩn bị cẩn thận về người dạy, chương trình học, phương tiện thí nghiệm thực hành, môi trường học tập.
Chương trình công nghiệp 4.0 của Đức tập trung chuẩn bị nguồn nhân lực lãnh đạo của lĩnh vực CPS , đào tạo nguồn nhân lực dịch vụ, công nghiệp thiết kế hay các hệ thống trí tuệ nhân tạo. Liên minh Châu Âu bằng nguồn kinh phí công và tư chi 7 tỉ đô la để nghiên cứu về hệ thống trí tuệ nhân tạo, tạo nền tảng công nghệ Châu Âu dựa trên các hệ thống tích hợp thông minh (EPoSS). Hàn Quốc cũng là nước tiên phong trong lĩnh vực này và CPS là trọng tâm thảo luận của họ về chính sách phát triển công nghệ thông tin và truyền thông.

*Bài trên Giáo dục Việt Nam:

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ hiểu về cách mạng công nghiệp 4.0 như thế nào?

(GDVN) - “Các trường đừng quá nhấn mạnh hội chứng 4.0. Làm gì có trường Đại học nào 4.0. Thầy cô cần xem cuộc cách mạng này như là một cơ hội, nắm bắt không gấp gáp..."

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ đã nhấn mạnh như trên, tại buổi gặp gở và làm việc với Trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh vào chiều ngày 13/4/2017.
Phát biểu tại buổi làm việc này, sau khi nghe một giảng viên của nhà trường đặt ra câu hỏi về cuộc cách mạng 4.0, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã giải thích, đây là cuộc cách mạng dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, một xu hướng phát triển chung của thế giới.
Trách nhiệm của Bộ trong cuộc cách mạng này, là cần phải tham mưu, tìm hiểu trong phạm vi của mình để xây dựng nên một đề án khởi nghiệp cho sinh viên, theo đúng hướng mà cuộc cách mạng 4.0 đã đặt ra.
Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn khuyến khích các trường, các ngành đào tạo đi theo hướng công nghệ thông tin, nhất là đối với những trường chuyên về điện tử, viễn thông, chế tạo máy, về các ngành khoa học kỹ thuật.
Lúc này đây, theo Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo – ông Phùng Xuân Nhạ, các trường cần phải tiến hành quy hoạch lại ngành nghề, xây dựng các chương trình đạt chuẩn, nghiên cứu phát triển của các ngành nghề mới.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ phát biểu tại Trường Đại học Sư Phạm Kỹ thuật chiều 13/4  (ảnh: TTXVN)
“Các trường đừng quá nhấn mạnh hội chứng 4.0. Làm gì có trường Đại học nào 4.0. Thầy cô cần xem cuộc cách mạng này như là một cơ hội, nắm bắt không gấp gáp mà phải chắc chắn, trên thế giới cũng đã tiếp cận xu hướng này” – Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh.
Cũng theo người đứng đầu ngành giáo dục cả nước, các trường cần tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng tốt nguồn nhân lực có chất lượng cao cho toàn xã hội, xây dựng thương hiệu riêng của nhà trường để thu hút người học.
Đối với Trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đề nghị, nhà trường cần lựa chọn một số ngành nghề có tính chất cốt lõi, tập trung đầu tư vào những ngành này để nâng cao chất lượng đào tạo, khẳng định thương hiệu của nhà trường.
Trường cần xây dựng đề án phát triển tổng thể với các dự án để tập trung đầu tư, cùng phối hợp đào tạo các chuyên ngành này với các trường sư phạm kỹ thuật trong cả nước, mạnh dạn tiến tới cơ chế tự chủ hoàn toàn.
Trong buổi làm việc tại Trường Đại học Văn Hiến trước đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo – ông Phùng Xuân Nhạ đã nói rằng, chính sách phát triển ngành hoàn toàn không có sự phân biệt giữa trường công lập và tư thục.
Các trường Đại học cạnh tranh, khẳng định thương hiệu bằng chất lượng đào tạo của mình. Nếu trường công lập mà không có chất lượng, thì người học cũng không chịu vào học. Còn nếu trường tư thục được đầu tư cơ sở vật chất, chất lượng đào tạo tốt thì vẫn sẽ rất thu hút người học.
“Hiện một số trường công lập đã thực hiện việc đào tạo theo hướng ứng dụng, thì các trường ngoài công lập cần lựa ngành nào mà xã hội đang cần để tập trung đào tạo” – Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đề nghị.

Thứ Tư, 5 tháng 4, 2017

Định lý Bất toàn của Gödel: Khám phá Toán học số 1 trong thế kỷ 20

Perry Marshall“Định lý Bất toàn của Gödel: Khám phá Toán học số 1 trong thế kỷ 20” là một bài giảng của Perry Marshall. 


Dưới đây là bản lược dịch của Phạm Việt Hưng.


Abstract: Gottfried Leibniz once said: “Without mathematics we cannot penetrate deeply into philosophy. Without philosophy we cannot penetrate deeply into mathematics. Without both we cannot penetrate deeply into anything.”. Quoting Leibniz, Perry Marshall leads us to the world of Maths and Philosophy, where we can see more clearly the truth. That is the aim of his lecture: “Gödel’s Incompleteness Theorem: The #1 Mathematical Discovery of the 20th Century”.

Lời dẫn của người dịch:


Gottfried Leibniz có lần nói: “Không có toán học chúng ta không thể đi sâu vào triết học. Không có triết học chúng ta không thể đi sâu vào toán học. Không có cả hai chúng ta không thể đi sâu vào bất cứ thứ gì”. Dẫn lời Leibniz, Perry Marshall đưa chúng ta vào thế giới của Toán học và Triết học, ở đó chúng ta có thể thấy rõ hơn chân lý, biết đâu là sự thật. Đó là mục đích bài giảng của ông: “Định lý Bất toàn của Gödel: Khám phá Toán học số 1 của thế kỷ 20”….


ĐỊNH LÝ BẤT TOÀN CỦA GÖDEL: KHÁM PHÁ TOÁN HỌC SỐ I CỦA THẾ KỶ XX
Bài giảng của Perry Marshall
Gottfried Leibniz:

“Không có toán học chúng ta không thể đi sâu vào triết học. Không có triết học chúng ta không thể đi sâu vào toán học. Không có cả hai chúng ta không thể đi sâu vào bất cứ thứ gì”.

Galileo Galilei:
“Toán học là ngôn ngữ Chúa viết trong vũ trụ”


Năm 1931, Kurt Gödel giáng cho các nhà toán học trong thời của ông một đòn nặng nề.

Năm 1931, nhà toán học trẻ Kurt Gödel có một khám phá mang tính bước ngoặt, gây ra những chấn động lớn như những gì Albert Einstein đã làm.

Khám phá của Gödel không chỉ áp dụng cho toán học, mà thực ra áp dụng cho tất cả các ngành của khoa học, logic và hiểu biết của con người nói chung. Nó thực sự làm rung chuyển trái đất.

Nhưng trớ trêu thay, không mấy ai biết về nó. Vậy hãy cho phép tôi nói với các bạn câu chuyện về định lý này.

Các nhà toán học vốn thích chứng minh mọi thứ. Vì thế họ nóng lòng và băn khoăn trong suốt nhiều thế kỷ vì có một số định đề toán học họ nghĩ là đúng nhưng không thể CHỨNG MINH.
Chẳng hạn nếu bạn đã từng học Hình học ở trường trung học, hẳn là bạn đã làm những bài tập chứng minh các tính chất của tam giác dựa trên một số định lý cơ bản.


Môn hình học đó được xây dựng trên 5 tiên đề của Euclid. Mọi người đều thấy những tiên đề đó là đúng, nhưng sau 2500 năm vẫn không có ai tìm ra cách chứng minh chúng.

Vâng, dường như hoàn toàn hợp lý khi cho rằng một đường thẳng có thể kéo dài vô tận về hai phía, nhưng không ai có thể CHỨNG TỎ điều đó. Chúng ta chỉ có thể bầy tỏ rằng đó là một tập hợp 5 tiên đề hợp lý, và thực tế là cần thiết.


Những thiên tài toán học cao chót vót đã thất vọng trong hơn 2000 năm bởi vì họ không thể chứng minh tất cả các định lý của họ. Có rất nhiều điều “rõ ràng” là đúng nhưng không ai có thể tìm ra cách chứng minh.

Tuy nhiên, vào những năm đầu của thập niên 1900, một niềm lạc quan to lớn bắt đầu phát triển trong giới toán học. Các nhà toán học xuất sắc nhất thế giới lúc đó (như Bertrand Russell, David Hilbert và Ludwig Wittgenstein) tin rằng họ đang nhanh chóng tiến gần tới một phương pháp tổng hợp cuối cùng.


(Họ tin rằng) một sự thống nhất “Lý thuyết về mọi thứ” rốt cuộc sẽ thít chặt các đầu mối lỏng lẻo. Toán học sẽ kiện toàn, đạn bắn không thủng, không có kẽ hở cho không khí lọt vào, và toán học sẽ đắc thắng.


(Nhưng) năm 1931, nhà toán học trẻ người Áo, Kurt Gödel, đã công bố một công trình CHỨNG MINH một lần và mãi mãi rằng một Lý thuyết Duy nhất về Mọi thứ thực ra là không thể có (impossible, bất khả).


Khám phá của Gödel được gọi là “Định lý Bất toàn”.

Nếu bạn dành cho tôi vài phút, thì tôi sẽ giải thích với bạn định lý đó nói gì, Gödel đã khám phá ra định lý đó như thế nào, và định lý đó có ý nghĩa gì – tôi nói bằng một ngôn ngữ mộc mạc, đơn giản đến nỗi ai cũng hiểu.


Định lý Bất toàn của Gödel nói rằng:


“Bất cứ điều gì mà bạn có thể vẽ một vòng tròn bao quanh nó sẽ không thể tự giải thích về bản thân nó mà không tham chiếu đến một cái gì đó ở bên ngoài vòng tròn – một cái gì đó mà bạn phải thừa nhận là đúng nhưng không thể chứng minh.”


GODE1MXin nhắc lại điều nói trên bằng ngôn ngữ chính thức của khoa học:


Định lý Gödel nói rằng: “Bất kỳ lý thuyết nào được tạo ra một cách hiệu quả đủ khả năng biểu diễn số học sơ cấp đều không thể vừa nhất quán vừa đầy đủ. Đặc biệt, đối với bất kỳ lý thuyết hình thức nào nhất quán, được tạo ra một cách hiệu quả cho phép chứng minh một số chân lý số học căn bản, sẽ có một mệnh đề số học đúng nhưng không thể chứng minh trong lý thuyết ấy.”

Luận đề Church-Turing nói rằng một hệ vật lý có thể biểu diễn số học sơ cấp y như con người, và rằng số học của Máy Turing (computer) không thể chứng minh được bên trong hệ thống đó và do đó computer cũng bất toàn.

Bất kỳ hệ vật lý nào có thể đo lường đều có khả năng biểu diễn số học sơ cấp (Nói cách khác, trẻ em có thể làm toán bằng cách đếm ngón tay, nước chảy vào thùng sẽ tạo nên một lượng nước đếm được, và các hệ vật lý luôn luôn đưa ra câu trả lời rõ ràng).

Do đó vũ trụ (thế giới vật lý) có khả năng biểu diễn được bằng số học sơ cấp và giống như bản thân toán học và computer, vũ trụ ấy là bất toàn.

Lý luận trên có thể tóm tắt bằng tam đoạn luận sau đây:
1. Mọi hệ thống đủ phức tạp có thể tính toán được đều bất toàn.
2. Vũ trụ là một hệ đủ phức tạp có thể tính toán được.
3. Do đó vũ trụ là bất toàn.

Bạn có thể vẽ một vòng tròn xung quanh tất cả các khái niệm trong cuốn sách hình học trung học của bạn. Nhưng tất cả chúng được xây dựng trên 5 tiên đề của Euclid, những tiên đề này rõ ràng là đúng nhưng không thể chứng minh. 5 tiên đề đó nằm ngoài cuốn sách, tức là bên ngoài vòng tròn bạn vừa vẽ.

Bạn cũng có thể vẽ một vòng tròn xung quanh một chiếc xe đạp nhưng sự tồn tại của chiếc xe đạp đó dựa vào một nhà máy ở bên ngoài vòng tròn đó. Chiếc xe đạp không thể tự giải thích sự tồn tại của bản thân nó.

Gödel chứng minh rằng LUÔN LUÔN có nhiều cái đúng hơn là cái bạn có thể chứng minh. Trong bất kỳ hệ thống logic hay hệ thống số nào mà các nhà toán học đã từng xây dựng được đều luôn luôn tồn tại ít nhất một vài giả định không thể chứng minh.

Định lý bất toàn của Gödel không chỉ áp dụng cho toán học, mà cho mọi đối tượng tuân thủ các định luật của logic. Bất toàn đúng trong toán học; nó cũng đúng trong khoa học hay ngôn ngữ hoặc triết học.

Và: Nếu vũ trụ mang tính chất toán học và logic thì tính bất toàn cũng áp dụng cho vũ trụ.


Gödel sáng tạo ra chứng minh của mình bằng cách khởi đầu với “Nghịch lý Kẻ nói dối” (The Liar’s Paradox) – đó là mệnh đề:


“Tôi đang nói dối.” (I am lying)

Mệnh đề “Tôi đang nói dối” là một mệnh đề tự mâu thuẫn, bởi nếu mệnh đề ấy phản ánh đúng sự thật, rằng tôi là một kẻ nói dối, thì suy ra mệnh đề vừa nói không đáng tin cậy, tức là mệnh đề ấy mâu thuẫn với chính nó; nếu mệnh đề ấy sai, lập luận tương tự cũng đi đến mâu thuẫn .

Tương tự như vậy, bằng một trong những biến đổi khéo léo nhất trong lịch sử toán học, Gödel đã chuyển Nghịch lý Kẻ Nói Dối thành một công thức toán học. Ông đã chứng minh rằng bất kỳ một mệnh đề nào cũng đòi hỏi một quan sát viên bên ngoài.

Không có mệnh đề nào (một sự trình bày nào) có thể một mình nó tự chứng minh nó đúng.

Định lý bất toàn của Gödel là một đòn nặng nề giáng vào “chủ nghĩa thực chứng” trong thời đại đó. Gödel chứng minh định lý của ông một cách rõ ràng trắng đen đến nỗi không ai có thể tranh cãi với logic của ông.

Tuy nhiên một số đồng nghiệp toán học của ông đến lúc ra đi về bên kia thế giới vẫn phủ nhận ông, tin rằng bằng cách này hay cách khác, trước sau Gödel chắc chắn phải sai.

Nhưng ông không sai. Định lý của ông thực sự đúng. Có nhiều cái đúng hơn là cái bạn có thể chứng minh.

Một “lý thuyết về mọi thứ” – dù trong toán học hay vật lý, triết học – sẽ không bao giờ tìm thấy. Đơn giản vì nó không thể tồn tại (impossible, bất khả).

OK, vậy điều này thực ra có ý nghĩa gì? Tại sao vấn đề này lại là vô cùng quan trọng, thay vì chỉ là một chuyện phiếm để mua vui?


Đây là ý nghĩa của định lý:


● Đức tin và Lý lẽ không phải là kẻ thù của nhau. Thực ra điều ngược lại mới đúng! Cái này nhất thiết cần cái kia để tồn tại. Mọi lý lẽ rốt cuộc đều quay trở lại niềm tin vào một cái gì đó mà bạn không thể chứng minh.
● Mọi hệ thống đóng kín đều phụ thuộc vào một cái gì đó ở bên ngoài hệ thống.
● Bạn luôn luôn có thể vẽ một vòng tròn lớn hơn nhưng sẽ luôn luôn tồn tại một cái gì đó bên ngoài vòng tròn.
● Lý lẽ hướng từ một vòng tròn lớn hơn vào một vòng tròn nhỏ hơn là “lý lẽ suy diễn” (deductive reasoning). Thí dụ:
1. Mọi người đều sẽ chết.
2. Socrates là một con người.
3. Vậy Socrates sẽ chết.
● Lý lẽ hướng từ một vòng tròn nhỏ hơn ra một vòng tròn lớn hơn là “lý lẽ quy nạp”. Thí dụ:
1. Khi tôi thả đồ vật ra, chúng sẽ rơi.
2. Do đó tồn tại một định luật về hấp dẫn chi phối mọi vật thể rơi.

Chú ý rằng khi bạn chuyển từ vòng tròn nhỏ hơn ra vòng tròn lớn hơn, bạn phải thừa nhận rằng bạn không thể chứng minh 100%.

Chẳng hạn bạn không thể CHỨNG MINH lực hấp dẫn luôn luôn tồn tại vào mọi lúc. Bạn chỉ có thể nhận thấy lực hấp dẫn tồn tại vào mỗi lúcc bạn quan sát. Bạn không thể CHỨNG MINH vũ trụ là hợp lý (rational, tuân thủ những quy luật nhất định). Bạn chỉ có thể nhận thấy các công thức toán học, như E = mc2 chẳng hạn, dường như mô tả một cách hoàn hảo cái mà vũ trụ tiến hành.

Gần như mọi định luật khoa học đều dựa trên lý lẽ quy nạp. Những định luật này đều dựa trên một giả định cho rằng vũ trụ là logic và dựa trên những định luật cố định có thể khám phá ra.

Bạn không thể CHỨNG MINH giả định đó ( Bạn không thể chứng minh mặt trời sẽ mọc vào buổi sớm mai). Thực ra bạn phải chấp nhận điều đó bằng niềm tin. Khoa học được xây dựng trên những giả định triết học mà bạn không thể chứng minh bằng khoa học. Thật vậy, phương pháp khoa học không thể chứng minh, nó chỉ có thể gợi ý, phỏng đoán (Khoa học xuất phát từ tư tưởng nguyên thủy rằng Chúa tạo ra một vũ trụ có trật tự tuân thủ các định luật cố định có thể khám phá được).


Bây giờ hãy xem xét điều gì sẽ xẩy ra khi chúng ta vẽ vòng tròn lớn nhất có thể có – vòng tròn bao quanh toàn thể vũ trụ (nếu có đa vũ trụ thì vẽ môt vòng tròn chứa tất cả những vũ trụ đó):


● Phải có một cái gì đó bên ngoài vòng tròn đó. Một cái gì đó mà chúng ta phải thừa nhận là không thể chứng minh được.
● Vũ trụ mà chúng ta biết là hữu hạn – hữu hạn vật chất, hữu hạn năng lượng, không gian hữu hạn và thời gian là 13.7 tỷ năm tuổi.
● Vũ trụ ấy mang tính chất toán học. Bất kỳ hệ vật lý nào có thể đo đạc đều có thể biểu diễn bởi số học (Bạn không cần biết toán học để làm phép cộng – bạn có thể sử dụng bàn tính gẩy tay để tìm câu trả lời vào mọi lúc).
● Vũ trụ (tất cả mọi vật chất, năng lượng, không gian, thời gian) không thể tự giải thích cho nó.
● Bất kể cái gì ở bên ngoài vòng tròn lớn nhất đều là vô hạn. Theo định nghĩa, không thể vẽ một vòng tròn bao quanh nó .
● Nếu chúng ta vẽ một vòng tròn bao quanh mọi vật chất, năng lượng, không gian và thời gian và áp dụng định lý Gödel, chúng ta sẽ thấy cái gì ở ngoài vòng tròn đó sẽ không phải là vật chất, không phải năng lượng, không phải không gian và cũng không phải thời gian. Đó là thế giới phi vật chất.
● Bất kể cái gì ở bên ngoài vòng tròn lớn nhất đều không phải là một hệ thống – nghĩa là không phải một tập hợp bao gồm các thành phần. Nói cách khác, nếu chúng ta có thể vẽ một vòng tròn bao quanh vật chất, năng lượng, không-thời-gian thì cái nằm ngoài vòng tròn ấy là không thể phân chia được.
● Bất kể cái gì ở bên ngoài vòng tròn lớn nhất đều là nguyên nhân không có nguyên nhân, bởi vì bạn luôn luôn có thể vẽ một vòng tròn bao quanh một kết quả.


Chúng ta có thể áp dụng lý lẽ quy nạp tương tự cho nguồn gốc của thông tin: 


● Trong lịch sử vũ trụ, chúng ta cũng đã biết sự xuất hiện của thông tin, vào khoảng 3.5 tỷ năm trước. Nó xuất phát từ mã của Hệ Di truyền (Genetic code), một thứ phi vật chất mang tính biểu tượng .
● Thông tin phải xuất phát từ bên ngoài, bởi vì thông tin được biết không phải là một đặc trưng vốn thuộc về vật chất, năng lượng và không gian hoặc thời gian.
● Mọi mã mà chúng ta biết nguồn gốc đều được thiết kế bởi những thực thể có ý thức.
● Do đó bất kể cái gì ở bên ngoài vòng tròn lớn nhất cũng phải là một thực thể có ý thức.

Nói cách khác, khi chúng ta bổ sung thông tin vào trong phương trình, chúng ta có thể kết luận rằng cái ở bên ngoài vòng tròn lớn nhất không chỉ vô hạn và phi vật chất, mà còn có ý thức.

Chẳng phải thú vị hay sao khi những vấn đề này nghe có vẻ đáng ngờ vực như những gì mà các nhà thần học đã mô tả Chúa trong hàng ngàn năm nay?

Vì thế sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi thấy 80-90% dân chúng trên thế giới tin vào Thượng đế theo một cách nào đó. Thật vậy, đó là trực giác đối với phần lớn các dân tộc. Nhưng định lý Gödel chỉ ra rằng đó cũng là logic tối cao. Thực ra đó là lập trường duy nhất mà người ta có thể nắm lấy và đứng trên đó trong vương quốc của lý lẽ và logic.

Người nào tự phụ tuyên bố “Bạn là người của đức tin, còn tôi là người của khoa học” thì người ấy không hiểu gốc rễ của khoa học hoặc bản chất của tri thức!

Một khía cạnh thú vị khác…

Nếu bạn có dịp thăm một trang mạng vô thần lớn nhất thế giới có tên là Infidels, bạn sẽ thấy trên trang chủ lời tuyên bố sau đây:

“Chủ nghĩa duy tự nhiên (naturalism) là giả thuyết cho rằng thế giới tự nhiên là một hệ đóng, ngụ ý rằng không có cái gì không phải là thành phần của thế giới tự nhiên mà lại ảnh hưởng lên nó”.

kurt godel Nếu bạn biết định lý Gödel, bạn sẽ thấy rằng mọi hệ logic phải phụ thuộc vào một cái gì đó ở bên ngoài hệ thống. Vậy theo định lý bất toàn của Gödel, tuyên bố của trang mạng Infidels không thể chính xác. Nếu vũ trụ là logic, nó phải có một nguyên nhân bên ngoài.

Do đó chủ nghĩa vô thần vi phạm các định luật của lý lẽ và logic.

Định lý Bất toàn của Gödel chứng minh một cách dứt khoát rằng khoa học không bao giờ có thể lấp kín những lỗ hổng của chính nó. Chúng ta không có lựa chọn nào khác là nhìn ra bên ngoài khoa học để tìm câu trả lời.

Tính Bất toàn của vũ trụ không phải là chứng minh cho việc Chúa tồn tại. Nhưng… đó LÀ chứng minh cho nhận định rằng để kiến tạo nên một mô hình vũ trụ hợp lý thì niềm tin vào Chúa không chỉ logic 100%… mà đó là điều cần thiết.

5 tiên đề của Euclid không thể chứng minh một cách hình thức và Chúa cũng không thể chứng minh một cách hình thức . Nhưng… giống như bạn không thể xây dựng một hệ thống hình học chặt chẽ mà không có 5 tiên đề của Euclid, bạn cũng không thể xây dựng một lý thuyết mô tả vũ trụ chặt chẽ mà không có Nguyên nhân Ban đầu và một Cội Nguồn của trật tự.

Do đó đức tin và khoa học không phải là kẻ thù của nhau, mà liên minh với nhau. Điều đó đã đúng trong hàng trăm năm, nhưng đến năm 1931 thì nhà toán học trẻ gầy ốm Kurt Gödel đã chứng minh điều đó.

Không có thời kỳ nào trong lịch sử nhân loại đức tin vào Chúa lại trở nên có lý hơn, logic hơn, hoặc hoàn hảo hơn bằng khi nó được hỗ trợ bởi khoa học và toán học.


Perry Marshall

Bình luận của Phạm Lưu Vũ: Điều này đạo Phật nói đến từ lâu. Cầu "pháp" là "bất khả đắc". Không vật gì tồn tại mà không dựa vào những cái không phải nó. Đây là "sở duyên duyên", 1 trong 4 duyên bắt buộc phải có thì mới "duyên khởi" ra bất cứ thứ gì. Toàn bộ chứng minh trên chỉ là 1 cách trình bày lại "Trung quán luận" (phẩm "Quán nhân duyên") của Long Thọ Bồ Tát dưới ngôn ngữ toán học.