Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2018

Giới khảo cổ và quần thể di tích Ngọa Vân trên dãy Yên Tử*

Ngoài các điểm như chùa, am, xung quanh Ngọa Vân còn một số điểm di tích có quy mô nhỏ nằm ở phần phía đông của núi Bảo Đài, cách Am Ngọa Vân khoảng 300m về phía Đông.


     Dấu vết kiến trúc ở Ngọa Vân 1. Ảnh: Nguyễn Văn Anh

Do chưa xác định được chức năng cũng như tên gọi của các điểm di tích này nên nó được tạm gọi là Ngọa Vân 1, Ngọa Vân 2 và Ngọa Vân 613.

- Ngoạ Vân 1: Ngọa Vân 1 nằm ở mỏm phía đông của núi Vây Rồng. Đây chính là điểm đầu của tay ngai phía Đông (đầu của tả thanh long). Tại khu vực này hiện  còn dấu vết kè xếp nền bằng đá cát kết (đá gạo) và cuội cùng một số di vật. Nền kiến trúc nằm ở mé tây của một khe suối nhỏ được kè xếp thành hai cấp: (1) Cấp nền dưới được kè xếp nương theo địa hình để tạo mặt phẳng. Cấp nền này hiện đã bị con đường dẫn vào chùa cắt ngang qua; (2) Cấp nền trên cao hơn cấp nền dưới trung bình 0,40m, nền có mặt bằng hình chữ nhật diện tích khoảng 70,5m2 (dài theo hướng Đông - Tây 18,1m; rộng Bắc  - Nam 3,9m), mặt trước nhìn về Nam ghé Tây, mặt sau tựa vào sườn núi.

Bên cạnh dấu vết kè xếp nền bằng đá, tại Ngọa Vân 1 cũng còn tìm thấy một số hiện vật có niên đại thời Trần và thời Lê Trung hưng. Các hiện vật tìm thấy ở đây chủ yếu là vật liệu kiến trúc và các loại hình đồ gốm sứ.

Dấu tích nền móng kè đá và các di vật gạch ngói còn lại tại Ngọa Vân 1 cho thấy, ngay từ thời Trần, Ngọa Vân 1 đã có những kiến trúc kiên cố, nền được kè xếp bằng đá, khung cột bằng gỗ, mái lợp ngói mũi sen. Đến thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVIII) Ngọa Vân 1 tiếp tục được xây dựng và sử dụng, điều đó cho thấy Ngọa Vân 1 là một điểm chùa/am quan trọng trong quần thể di tích Ngọa Vân.

- Ngọa Vân 2: Ngoạ Vân 2 nằm cách khu vực Ngoạ Vân 1 khoảng 20m về phía Tây Bắc. Tại đây hiện còn các dấu vết kè xếp nền móng kiến trúc và rất  nhiều di vật, trong đó chủ yếu là các loại hình vật liệu kiến trúc như tảng kê chân cột, gạch, ngói các loại.

Dấu vết kiến trúc còn lại ở đây bao gồm bó nền và nền móng của một công trình kiến trúc có mặt bằng hình chữ nhật, mặt nhìn về hướng Tây Nam, phía sau tựa vào sườn núi. Nền được kè xếp thành ba cấp: Cấp nền dưới có diện tích lớn nhất, dài Đông - Tây 26m, rộng Bắc - Nam 9,5m; Cấp nền 2 cao hơn cấp nền thứ nhất trung bình 0,80m và giật lại 2m, nền rộng 3,8m; Cấp nền thứ 3 ở trên cùng cao hơn cấp nền hai 0,40m, nền rộng và giật lại so với cấp nền hai khoảng 3,8m.

Nửa phía Đông của khu Ngọa Vân 2 đã bị sạt lở do hiện tượng xói mòn của mưa lũ và tại vị trí sạt lở đã để lộ các lớp đất cho thấy quá trình hình thành của Ngọa Vân 2. Bao phủ lên bề mặt của cấp nền hai và cấp nền thứ ba là lớp ngói dày 20-30cm, trong đó đáng lưu ý là có một lớp ngói của thời Trần.

Bên cạnh các dấu vết nền móng được kè xếp bằng đá thì tại Ngọa Vân 2 cũng còn thấy nhiều loại hình di vật gồm: các loại vật liệu kiến trúc như gạch, ngói; các đồ gia dụng như gốm sứ, đồ sành, trong đó các loại gạch ngói có số lượng lớn tạo thành một lớp dày phủ lên trên mặt nền và các chân tảng kê cột bằng đá, kích thước 45cmx45cm, đường kính u tròn 36cm.

Với cấu trúc ba cấp nền và các di vật hiện còn trên bề mặt di tích có thể xác định, cấp nền thứ nhất chính là khuôn viên chung nằm ở phía trước, cấp nền thứ hai và cấp nền thứ 3 là phần nền kiến trúc, trên đó dựng các kiến trúc gỗ, mái lợp ngói giống như ở Ngọa Vân 1; phần giật lại giữa cấp nền thứ hai với cấp nền thứ nhất có thể là khoảng sân phía trước của các kiến trúc ở cấp nền 2 và 3. So với các điểm di tích khác, Ngọa Vân 2 là điểm di tích có quy mô lớn, dấu vết còn lại cho thấy nó được xây dựng từ thời Trần, thời Lê Trung hưng tiếp tục được trùng tu tôn tạo, điều này cho thấy Ngọa Vân 2 giữ một vai trò quan trọng trong khu vực Ngọa Vân, nó là những chùa/am liền kề với khu trung tâm Ngọa Vân.

- Ngọa Vân 6: Ngọa Vân 6 nằm cách khu vực Ngọa Vân 1 khoảng 500m về phía Đông, trên đường từ khu Đá Chồng vào chùa và cao hơn đường khoảng 20m về phía Bắc. Tại đây đã phát hiện thêm một dấu tích nền móng kiến trúc và hệ thống đá xếp bậc dẫn lên từ chân núi.

Ngọa Vân 6 là một khu vực bằng phẳng hình chữ nhật chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam có diện tích khoảng hơn 42m2 (6x7m), mặt trước và hai bên được kè xếp bằng đá, mặt sau tựa vào sườn núi. Trên mặt bằng chung có hai nền kiến trúc có độ cao khác nhau, nền thứ nhất giật lại so với mặt bằng chung 1,2m ở mặt trước, chiều dài chồng khít lên chiều dài của mặt bằng chung, nền cao hơn mặt bằng chung 1m, nền thứ hai đè phủ nên nền thứ nhất ở phía Tây Bắc và cao hơn nền 1 khoảng 40cm. Trên mặt cả hai cấp nền còn lại một số tảng kê chân cột bằng đá, các tảng này là loại tảng có bệ vuông, u tròn nổi cao, kích thước 35x35cm; đường kính u tròn 30cm.

Ngoài các dấu vết kiến trúc ở đây cũng tìm thấy một số đồ gốm men, đồ sành nhưng không tìm thấy ngói, các di vật tìm thấy ở đây đều có niên đại thời Lê Trung hưng, thế kỷ XVII-XVIII.

Với các di tích, di vật hiện biết có thể suy đoán, khu vực Ngọa Vân 6 có thể được xây dựng lần đầu tiên vào thời Lê Trung hưng, tức là thời kỳ Ngọa Vân được trùng tu và mở rộng vào đầu thế kỷ XVIII.

 Đ/c Ngô Quang Thiệu Phó Chủ tịch UBND huyện Đông Triều và Nhà giáo Ưu tú Lưu Xuân Giới khảo sát và chỉ đạo việc chỉnh trang tại di tích Ngọa Vân. Ảnh: Nguyễn Văn Anh
 

Khu vực Đá Chồng

 Toàn cảnh khu Đá Chồng Ảnh: Nguyễn Văn Anh


Khu Đá Chồng là một cụm công trình trong quần thể di tích nằm trên núi Bảo Đài vì vậy nó được cho là nằm trong quần thể di tích Ngọa Vân. Khu Đá Chồng nằm phía Đông Nam của khu Ngoạ Vân, cách chùa Ngọa Vân 4 khoảng 3km đi theo con đường mòn và nằm ở sườn đông nam của khu vực Đèo Voi.

Sở dĩ khu vực này được gọi là Đá Chồng là vì, tại đây, trên một đỉnh núi có các tảng đá nằm chồng lên nhau, cảm giác rất chênh vênh. Tại Đá Chồng, năm 2007 các nhà khảo cổ học đã phát hiện hàng loạt các dấu vết nền móng kiến trúc và khu sản xuất nguyên vật liệu phục vụ việc xây dựng các công trình kiến trúc trong quần thể Ngọa Vân. Các dấu vết hiện còn phân bố thành hai khu và được gọi là Khu Đá Chồng 1 và Khu Đá Chồng 2.

- Khu Đá Chồng 1:

Khu Đá Chồng 1 được bao bọc bởi các ngọn núi thuộc khu vực Đèo Voi ở phía Đông Bắc và phía Tây Nam; phía Tây Bắc là dãy núi đá cao; ngọn Đá Chồng ở phía Đông Nam và xa xa là hồ Bến Châu.

 Trên ngọn Đá Chồng Ảnh: Trương Văn Luân

Các di tích còn lại tại đây gồm hệ thống kiến trúc phân bố dọc ở sườn Đông - Nam của ngọn núi ở phía Tây Bắc núi Đá Chồng (nay gọi là khu Chuồng Bò). Các dấu vết kiến trúc được bố cục thành một trục gồm nhiều lớp kiến trúc phân bố từ chân núi lên tới đỉnh núi (từ độ cao 474m so với mặt nước biển đến độ cao 621m). Trục kiến trúc này bao gồm: hồ nước, khu vườn tháp, khu trung tâm và tịnh thất. Hướng của kiến trúc là hướng Đông Nam.

+ Hồ nước: Nằm phía trước của trục kiến trúc có diện tích khoảng 2hécta. Hồ được bổ sung nước từ nhiều dòng suối chảy từ các triền núi cao đổ xuống trong đó dòng suối chảy qua khu vườn phía Tây Bắc là dòng chủ yếu. Cùng với dãy núi bao bọc ở ba mặt, hồ nước là nơi tụ thuỷ phía trước để hoàn thiện bức tranh phong thuỷ tuyệt đẹp tạo nên thế đắc địa của Khu Đá Chồng 1. Ngày nay hồ đang bị cạn dần do bị bồi lấp.

+ Khu vườn tháp: Nằm tiếp giáp bên bờ Tây Bắc của hồ nước, trên ngọn của một quả đồi thấp có độ cao trung bình 490m so với mặt nước biển, ngọn quả đồi được san gạt tạo mặt phẳng, bốn xung quanh được kè xếp đá tạo thành nhiều cấp theo kiểu hình tháp. Ở giữa khu vực này còn lại các cấu kiện tháp bằng đá bao gồm các cấu kiện bệ, thân, mái và chóp tháp. Các cấu kiện này cho thấy đây là khu vực có ngôi tháp đá quy mô khá lớn, và có cấu trúc hoàn toàn giống với tháp Phật Hoàng và tháp Đoan Nghiêm ở khu vực Am Ngọa Vân và tháp thờ Phật (Phụng Phật tháp) ở khu vực Thông Đàn 1.
 
Phía Đông Bắc của Tháp có một số chân tảng bằng đá cát và rất nhiều ngói mũi sen không trang trí thời Lê Trung hưng và khá nhiều đồ gốm men, đồ sành. Như vậy, khu vườn tháp có thể có một tổ hợp công trình kiến trúc gồm tháp ở giữa và các kiến trúc khác ở phía Đông Bắc.

 Cấu kiện tháp đá thời Lê Trung hưng ở khu vườn tháp thuộc khu Đá Chồng 1. Ảnh: Nguyễn Văn Anh

+ Khu trung tâm: Nằm kế sau khu vườn tháp, cách khu vườn tháp một con suối nhỏ, suối rộng khoảng 5m, bờ suối được kè xếp thành tường kè nền của khu vực vườn tháp và sân của khu trung tâm. Khu trung tâm có mặt bằng tổng thể hình chữ nhật chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với bố cục chi tiết gồm: sân trước, kiến trúc thứ nhất, sân giữa và cụm kiến trúc thứ hai.

Sân trước thấp hơn kiến trúc thứ nhất 4m, từ sân lên nền kiến trúc thứ nhất có các bậc lên xuống xếp bằng đá; Kiến trúc thứ nhất có mặt bằng hình chữ nhật, qua các tảng kê chân cột còn lại chúng ta thấy kiến trúc này có kết cấu 3 gian 4 hàng cột, mỗi hàng 4 cột; Khoảng sân giữa kiến trúc thứ nhất và cụm kiến trúc thứ hai thấp hơn nền thứ nhất 1m; Cụm kiến trúc thứ hai chưa xác định rõ gồm bao nhiêu kiến trúc, tuy nhiên bước đầu ở đây có thể nhận diện được hai mặt bằng. Mặt bằng thứ nhất hình chữ nhật hiện còn một số tảng kê chân cột. Tiến hành nghiên cứu khảo cổ học cẩn thận chúng ta có thể làm rõ được cấu trúc của kiến trúc này. Mặt bằng kiến trúc thứ hai cũng có hình chữ nhật nhưng nhỏ hơn so với mặt bằng thứ nhất và cách mặt bằng thứ nhất 4m về phía Đông Bắc, khoảng cách này có thể là phần sân nằm giữa hai kiến trúc, phía sau mặt bằng này còn lại một không gian rộng hiện chưa rõ chức năng.
 
Như vậy, về tổng thể có thể xác định được mặt bằng khu vực trung tâm bao gồm cấu trúc các lớp nền, khoảng sân. Tuy nhiên, cấu trúc chi tiết của các kiến trúc này như thế nào còn đang chờ đợi kết quả khai quật, nghiên cứu của khảo cổ học trong tương lai.

+ Khu tịnh thất: Gồm 2 mặt bằng kiến trúc hình gần vuông có diện tích 25m2, một nằm ở lưng chừng sườn núi và một ở trên đỉnh núi. So sánh với các di tích ở Hồ Thiên và khu vực trung tâm của Ngọa Vân có thể thấy rất rõ đặc trưng của một cụm chùa ở Ngọa Vân luôn có một hoặc một khu tịnh thất ở phía sau, trên vị trí cao hơn chùa chính.

+ Khu vườn chùa: Nằm ở phía Đông Bắc của khu vực trung tâm. Khu vực này nay đã bị các cây rừng mọc kín song vẫn có thể nhận thấy dấu vết đường đi xếp cuội và một số cây cối được trồng ở đây.

- Khu Đá Chồng 2

Khu vực Đá Chồng 2 là khu đất tương đối bằng phẳng nằm ở sườn Tây Nam của núi Đá Chồng. Tại đây, đã tìm thấy 2 mặt bằng kiến trúc và dấu vết lò nung ngói thời Lê Trung hưng.

+ Mặt bằng kiến trúc:

Dấu vết kiến trúc thứ nhất: Nằm cách ngọn Đá Chồng 102m theo đường thẳng về phía Tây lệch Bắc. Dấu vết kiến trúc này đã bị đào phá nên không xác định rõ được mặt bằng của kiến trúc, tuy nhiên ở đây đã tìm thấy rất nhiều ngói mũi sen không trang trí thời Lê Trung hưng và các tảng kê chân cột bằng đá laterit. Bên cạnh đó có khá nhiều loại hình đồ sành và đồ gốm men thời Lê Trung hưng cũng được tìm thấy ở đây.

Dấu vết kiến trúc thứ hai: Nằm cách dấu vết kiến trúc thứ nhất 100m theo đường thẳng về phía Đông Nam. Mặt bằng nền móng của dấu vết kiến trúc có hình chữ nhật, diện tích 46m2  (dài Tây Bắc - Đông Nam 10m, rộng Tây Nam – Đông Bắc 4,6m), xung quanh nền được kè xếp bằng đá, mặt nhìn về phía Đèo Voi (Tây Nam).

+ Dấu vết lò nung ngói: Nằm tại khu vực đất bằng ở phía Tây Nam của hồ nước, dưới chân của dấu vết kiến trúc thứ nhất. Tại đây đã tìm thấy 1 lò nung ngói, lò có mặt bằng hình chữ nhật, kích thước 3,4x2,6m. Trong lòng lò còn sót lại một số mảnh ngói mũi sen thời Lê Trung hưng giống như các loại ngói đã được tìm thấy tại khu Ngọa Vân, Đá Chồng và chùa Ba Bậc.
 Dấu vết lò nung ngói thời Lê Trung hưng, thế kỷ XVIII. Ảnh: Lê Đình Ngọc

Ngọa Vân là một quần thể kiến trúc lớn với nhiều công trình kiến trúc có quy mô khác nhau được xây dựng trên khu vực núi cao, đi lại hết sức khó khăn. Xây dựng các công trình này cần có nguồn lực rất lớn về con người cũng như vật chất. Vậy việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây được tổ chức như thế nào? Nguyên vật liệu được sản xuất tại chỗ hay được vận chuyển từ nơi khác đến? Trong điều kiện địa hình phức tạp và khó khăn như vậy, nếu vận chuyển lên thì vận chuyển bằng cách nào?, vv...

Để giải đáp những câu hỏi trên, các nhà khảo cổ học đã rất chú ý đến chất liệu của các loại vật liệu được sử dụng trong các công trình kiến trúc ở Ngọa Vân, đồng thời nghiên cứu điều kiện của từng khu vực, bằng việc nghiên cứu đó các nhà khảo cổ học đã cho rằng, Đèo Voi và Đá Chồng là khu vực có nhiều yếu tố thuận lợi cho việc sản xuất nguyên vật liệu, đặc biệt là gạch ngói. Bởi lẽ, (1) đây là khu vực duy nhất có đất và đất sét, các khu vực khác đều là núi đá; (2) đây là nơi có mặt bằng tự nhiên rộng rãi thuận lợi cho việc tổ chức sản xuất và (3) đây là nơi rất thuận tiện về nguồn nước lại khuất gió, tốt cho việc xây dựng và hoạt động của các lò nung. Ba điều kiện thuận lợi trên đây là điều kiện lý tưởng cho việc sản xuất các loại gạch ngói phục vụ cho việc xây dựng các kiến trúc của Ngọa Vân và dấu tích lò nung ngói nêu trên đã chứng minh cho điều đó.

Như vậy, khu vực Đá Chồng là một cụm các công trình chùa tháp nằm trong quần thể của khu di tích Ngọa Vân được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Trong đó, Đá Chồng 1 là khu vực trung tâm, được xây dựng trên một khu vực có địa thế đẹp về cả tự nhiên lẫn tâm linh (phong thuỷ) với dãy núi đá cao ở mặt Đông Nam, minh đường tụ thuỷ, hậu chẩm có núi cao. Đá Chồng 2 là nơi có các công trình kiến trúc nhỏ, đây cũng là nơi sản xuất các loại vật liệu kiến trúc như gạch, ngói phục vụ việc xây dựng quần thể chùa tháp Ngọa Vân nửa đầu thế kỷ XVIII.
 Đ/c Nguyễn Thị Huân, Bí thư huyện ủy và Đ/c Vũ Văn Học khảo sát tại di tích Đá Chồng. Ảnh: Lê Đình Ngọc

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đá Chồng còn là căn cứ của cách mạng, là nơi che chở cho Thành uỷ Hải Phòng trong những năm bị giặc Pháp càn quét, đó cũng là phần hậu cứ của Chiến khu Đông Triều. Vì lý do này, có thể gọi Đá Chồng là khu di tích lịch sử,
văn hoá và cách mạng.

KẾT LUẬN

rần Nhân Tông, vị vua văn võ song toàn, một nhà vua, một nhà quân sự đã lãnh đạo nhân dân hai lần đánh thắng đội quân xâm lược hung hãn nhất thời đại của mình, một nhà ngoại giao mềm mỏng nhưng cương quyết, một triết gia, một nhà thơ mà ngòi bút của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do của một nghệ sĩ. Ông là một trong những anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc.

Đang ở đỉnh cao quyền lực, ông nhường ngôi cho con lui về làm Thái Thượng hoàng. Lui về làm Thái Thượng hoàng không phải để nghỉ ngơi mà là để “tập dượt” cho vua con gánh vác giang sơn xã tắc, khi yên việc nước, việc nhà, vua con tự mình đảm đương, gánh vác việc nước, ông rời lầu son, gác tía xuất gia tu hành khổ hạnh tại đỉnh Tử Tiêu trên núi Yên Tử. Sau thời gian tự mình tu hành, đắc đạo ông xuống núi đi khắp xóm làng, dạy dân chúng phá bỏ dâm từ và thực hành thập thiện, ban thuốc chữa bệnh cho dân nghèo.

Trần Nhân Tông đi tu là để giữ nước và để lại đạo đức cho đời. Hành trình tu hành khổ hạnh, đắc đạo, thuyết pháp, độ tăng giáo hóa chúng sinh rồi an nhiên hóa Phật của Trần Nhân Tông là một chuỗi các sự kiện mô phỏng hành trình tu luyện, thành phật của Đức Phật Thích-Ca-mâu-ni, trong hành trình đó Yên Tử là nơi Phật hoàng tu hành, thuyết pháp, độ tăng và Ngọa Vân chính là điểm kết thúc trọn vẹn quá trình tu hành, thành Phật của Phật hoàng Trần Nhân Tông, Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm. Nói cách khác Ngọa Vân chính là Thánh địa của Thiền phái Trúc Lâm nói riêng, Phật giáo Việt Nam nói chung.

Với vai trò là Thánh địa của Phật giáo Việt Nam, Ngọa Vân gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử Phật giáo Việt Nam. Sau khi Phật hoàng mất, Ngọa Vân đã được xây dựng, mở rộng thành một quần thể chùa tháp với nhiều cụm chùa tháp khác nhau. Sau thời gian Phật giáo suy vong, cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII cùng với sự phục hưng của Phật giáo, Ngọa Vân đã được trùng tu, mở rộng thành một quần thể rộng lớn với nhiều công trình chùa tháp được xây mới. Các công trình hiện còn tại Ngọa Vân có nhiều công trình được xây dựng trong thời gian này.

Sau một thời gian bị quên lãng trong rừng sâu, Ngọa Vân đang được đánh thức. Với những giá trị to lớn của di tích, với cảnh quan tươi đẹp ở nơi đây. Việc trùng tu, tôn tạo lại Ngọa Vân không chỉ là việc bảo tồn các giá trị lịch sử văn hóa của di tích mà đó thực sự là nơi giáo dục cho thế hệ trẻ và đông đảo khách thập phương về tư tưởng và tầm vóc của Phật hoàng Trần Nhân Tông, vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời có thể truyền bá
tinh thần “Cư trần lạc đạo” - vui đạo giữa đời của Ngài.

PHỤ LỤC PHIÊN ÂM, DỊCH NGHĨA VĂN BIA HIỆN CÒN TẠI CHÙA NGỌA VÂN

1. Phiên âm, dịch nghĩa bia Trùng tu chùa Ngoạ Vân

1.1. Phiên âm

- Mặt trước: Trùng tu Ngọa Vân tự bi ký
 
Thường văn: Tịnh độ tịch trần khí kim do sắc tướng. Thử phạn vương… chi danh khu dã. Thị cố tào khê (- -) bảo lâm chi thắng tích, triệu sinh tích trượng phi không, chung  lĩnh  chu  u  thê  độc  chiếm… bạn đàn lâm tinh vũ đẳng, hạo sở trường tồn…Tư cư… phúc địa chi  chung  linh,…hữu  dĩ  bất  hủ kỳ truyền giả dư? Cố chiêm Hải Dương đạo, Kinh Môn phủ, Đông Triều huyện, An Sinh xã chi, Ngọa Vân tự, thực cổ tích danh lam dã… thiên tầm ta nga, vạn nhẫn ban ban, u nhã chủng chủng, thanh kỳ la nhi quần tụ… thị giám cửu thiên chi tinh thần khả trích, đệ nhất chi thế giới… kinh thiêu tạo địa chi thiết ngang…thủy phi nhân gian hữu giả động khởi.

Hoàng đế lý thắng vạn thặng chi tôn, tháp tằng ban chi hiểm di, nhi cấu tri lư, đỉnh hổ trường lưu tiên cảnh thần thượng vĩnh kết tịnh duyên.

Thời thiếu thượng chi, vĩnh hảo an bài… cố chung bát di thử dị. Bí khởi bất ký giá, tứ bách dư niên vu tư hĩ. Nhĩ chiêm viễn vọng, quốc thọ dân cầu… chung cổ thường tuyên, đăng hương cảm nhiếp.

Bảo Đài sơn Ngọa Vân thiền tự tỳ khưu tăng tự Đức Hưng hiệu Viên Minh, trùng tu các chung, tăng phòng, các cộng nhị thập ngũ gian, bảo điện nhị tòa, bi nhất điện, cập khai sáng Kim am, Hương Vân Am, Giải Thoát Am đẳng, kiên tháo giới hằng thâm nghệ uyên vi liễu… thâm sắc chi huyền ngộ, tâm phật phật tâm chi diệu… cổ chi trần duyên, tính thị giác thấu, tâm thị từ bi… giá bảo quyết đắc chi cửu, nhi tâm ích tín đạo ký cao nhi nhân tự tôn. Do thị quý tiện vô bất khâm kính, quy y, đỉnh lễ… nhất khai khẩn nhi tắc dục chi, lộ cốc vi thông cù, bách câu chi trọng, hốt nhược bất vũ bất lao nhi tự chí giả hĩ.

Thời hữu Từ Sơn phủ, Tiên Du huyện, Khắc Niệm xã Thị Nội ty quan. Giáo phường ty Dương Thị Phương hiệu Diệu Tín, Thị nội đệ nhất Cung tần Chiêu nghi Dương quý thị Vương húy Trinh, nãi tôn từ chức tước tôn thuộc dã. Lạc văn thiện đạo, khái mộ nhân phong, dĩ thần kỳ lũ hoạch hiển ứng, toại dĩ tu tạo chỉnh lý, tự nhậm cưu công, giản tài giả, lũy tế… cúng dường chi dư nhi bảo tướng hồng chung dữ kim đồng pháp khí, dĩ chiêu cửu viễn.

Ô hô! Khởi đồ nhiên tai!

Cái tư tự chi tinh binh, chước chư ứng nghiệm. Cố nhân niệm chi tôn tín, bất hạn tài lực, diệc duyên trụ trì chi thâm tinh, đạo giáo hữu dĩ khiết pháp vương chi tâm ấm sư tổ chi túc duyên, nhi năng chí thị da? Thời thị tâm dã, thông chi tam giới, thấu chi cửu tiêu, tư thế tư dân, đồng tê nhân thọ, cái hữu bất nan giả hĩ. Cộng ký vân, hoàn thả dục thọ kỳ truyền dã. Nãi chưng văn lặc chi trinh mân, yết vu vân hà chi biểu.

Thời, Hoàng Triều Vĩnh Thịnh vạn vạn niên, chi tam tuế, tại Đinh Hợi Qúy Đông cốc nhật.

- Mặt sau: Công đức chi bi ký

Đại Nguyên soái Thống quốc chánh thượng thánh phụ sư thịnh công nhân minh uy đức định vương lệnh cáo, Đông Triều huyện, tư lệ An Sinh xã, Nguyễn Diễn, Nguyễn Duy Cao, Nguyễn Gia Tương, Nguyễn Văn Khuê, Nguyễn Quang Cơ, Nguyễn Đức Cung, Nguyễn Đức Độ, Nguyễn Công Trình, Nguyễn Đức Học, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Đức Nhật, Nguyễn Công Hán, Nguyễn Minh Đội, Nguyễn Huy Đỉnh, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thực, Nguyễn Đức Tài, Nguyễn Trí, Nguyễn Đức Lượng, Nguyễn Duy Lại, Nguyễn Đức Hào, Nguyễn Dật, Nguyễn Đức Chiếm, Nguyễn Như Mi, Nguyễn Đức Thịnh toàn xã đẳng. Tư chuyên ủy Khâm sai tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh kiêm chưởng chánh quyền Thái úy Tấn Quốc công tài quốc gia sự vụ nhậm binh dân trọng ký hậu sở.

Khải vị nguyên bản xã cung phụng các chỉ thị, chuẩn cấp vi tạo lệ phụng sự An Sinh điện Trần triều ngũ vị hoàng đế cập Ngọa Vân, Tư Phúc đẳng đệ. Kỳ đệ… cập hộ phân bài biểu tế khoán, sưu sai các dịch tịnh nhiêu trừ. Ư Nhâm Tuất niên… sự do dĩ kinh tra thực đẳng nhân ứng nhưng hứa vi tạo nhiêu trừ bị… Tiên hữu dĩ tiện phụng sự Thọ Quốc Mạch… cập các nha bất đắc nhiễu tróc vi giả hữu quốc pháp tại tư lệnh.

Chính Hòa thập niên, thập nguyệt, nhị thập tứ nhật.

Công đức Trung Cần quân doanh Trung… phủ Tả đô đốc phó… Thái Bảo Đông Quận công Trịnh… tự Viên Minh, quận phu nhân Lê Trang Ân hiệu Diệu Đoan.

Công đức Hậu Quốc doanh quân Đông…

Công đức An Sinh xã Nguyễn Như… tự Phúc Tín, Nguyễn Công, Nguyễn Phúc Cung, Nguyễn Đức Lượng thê Bùi Thị Ngôn, Nguyễn Phượng thê Nguyễn Thị Uyên, Nguyễn Đức Hà thê Đoàn Thị Tụ, Nguyễn Đức Vinh, Nguyễn… tự Phúc Hợp thê hiệu Từ Huệ.

Phúc Đa xã sở lại Phạm Trung Gián thê Nguyễn Thị... hiệu Diệu Tường. Đạm Thủy xã, Đinh Văn Quận tự Phúc Trường thê Phạm Thị Do. An Sinh xã Phạm Văn Cao tự Phúc Tín thê Nguyễn Thị… hiệu Diệu Thành. Phú Ninh xã Nguyễn… Viên Hương thê Nguyễn Thị hiệu Diệu… tự Viên Thực thê Nguyễn Thị Du hiệu Diệu Huệ, Chí Linh huyện, Lạc Sơn xã Nguyễn Thị Huệ hiệu Diệu Lộc nam tử Lê Quang Đăng tự Viên Thiệu, Nguyễn Thị Xướng, hiệu Diệu Năng. Gia Lâm huyện, Cổ…xã Nguyễn Thị Phóng hiệu Diệu Thành. Triều Dương xã Đoàn Thị… hiệu Diệu Quý Nguyễn Thị Xuyến hiệu Diệu Đắc.

1.2. Dịch nghĩa

- Mặt trước: Bia ghi việc trùng tu chùa Ngọa Vân

Thường nghe: Nhà chùa từ bỏ bụi trần, nhưng đồ thờ cúng vẫn luôn tồn tại. Nhà chùa là nơi danh tiếng, là di tích thắng cảnh, là chỗ ban bố ân đức, là nơi vắng vẻ thanh tịnh, có muôn loài cây cối xanh tốt, khí thiêng chung đúc, nhà chùa há chẳng là nơi làm nhiều việc tốt để lưu truyền lâu dài hay sao? Nay thấy chùa Ngọa Vân xã An Sinh, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, đạo Hải Dương, thực là nơi cổ tích danh lam núi cao sừng sững, ngàn dặm dăng dăng, thăm thẳm điệp trùng… đúng là nơi tinh túy của bầu trời, là chỗ đẹp nhất của thế giới… do trời đất chung đúc mà thành, có lẽ khởi đầu cũng do con người tác động thêm vào đó chăng?

Chùa này cũng là nơi Hoàng đế từ xa tới thăm viếng, vượt qua nguy hiểm của núi rừng… dựng nên nhà ở, kéo dài cơ nghiệp… cảnh Phật cõi tiên, kết duyên tu luyện. Nay có người mến cảnh Phật đã dựng ngôi chùa này, như đã sắp đặt từ trước… mãi mãi không thay đổi. Trải hơn 400 năm, chẳng lẽ chẳng còn ai ghi nhớ nữa chăng? … xa nhìn thấy nước vững dân yên… thường thường nghe tiếng chuông tiếng trống vang vọng, thấy đèn hương mà cảm động.

Nay nhà sư tự Đức Hưng hiệu Viên Minh trụ trì tại chùa Ngọa Vân trên núi Bảo Đài đã trùng tu gác chuông và tăng phòng, cộng là 25 gian, làm hai tòa bảo điện, dựng một tấm bia đá, làm thêm Kim am, Hương Vân am, Giải Thoát am tất thảy đều kiên cố thâm nghiêm, tâm Phật Phật tâm huyền diệu, duyên phận trần gian, tính giác ngộ, tâm từ bi… Việc làm quý giá đó được tồn tại lâu dài, lòng người càng tin tưởng, đạo Phật càng cao quý, người người càng tôn sùng. Do vậy, người sang kẻ hèn không ai là không tôn kính, không ai là không tin theo, đem dâng lễ vật… hễ nói là toàn những lời chăm lo cho mọi người, biến hang sâu thành đường đi thông thoáng, truy tìm điều quý trọng… bỗng như thấy một chiếc lông vũ nhẹ nhàng tự nhiên bay tới.

Bấy giờ có bà Dương Thị Phương, hiệu Diệu Tín làm nghề dạy hát thuộc ty Thị Nội, người xã Đoài Niệm, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn; và bà Dương Thị Trinh là đệ nhất Cung tần Chiêu nghi ty Thị Nộ, là con cháu dòng dõi quyền quý , thích nghe điều hay, ngưỡng mộ lòng nhân hậu, thấy chùa này hiển ứng linh thiêng, đã tu sửa chùa, tự thuê thợ, mua vật liệu, qua vài năm… sắm sửa nhiều đồ thờ cúng, làm tượng đúc chuông, mua trống mua mõ, để lại lâu dài.

Hỡi ôi! Việc làm đó há lại dư thừa sao?

Có lẽ sự linh thiêng của ngôi chùa đã thể nghiệm rõ ràng. Do vậy người người tôn kính tin theo, không tiếc tiền của. Cũng vì nắm vững cái sâu kín của đạo Phật, giữ được cái tâm của Phật, lại thêm duyên may của thiền sư, nên mới làm được như vậy chăng? Tấm lòng tốt đến như vậy, đã cảm thông đến mọi người, thấu suốt đến trời cao, muôn dân trên trần thế, đều bước lên cõi thọ, có lẽ chẳng khó khăn chi? Cùng nhau viết bài ký, để lưu truyền lâu dài. Lại soạn bài văn, khắc vào bia đá, để phô bày cùng trời đất.

Thời. Ngày tốt tháng 12 năm Đinh Hợi niên hiệu Vĩnh Thịnh 3 (1707) triều Lê.

- Mặt sau: Ghi chép về việc công đức

Thượng Thánh phụ sư Thịnh Công Nhân Minh Uy Đức Đinh Vương Thống Suất Chánh Đại Nguyên soái, lệnh cho dân tư lệ xã An Sinh thuộc huyện Đông Triều gồm các ông có tên như sau: Nguyễn Diễn, Nguyễn Duy Cao, Nguyễn Gia Tương, Nguyễn Văn Khuê, Nguyễn Quang Cơ, Nguyễn Đức Cung, Nguyễn Đức Độ, Nguyễn Công Trình, Nguyễn Đức Học, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Đức Nhật, Nguyễn Công Hán, Nguyễn Minh Đội, Nguyễn Duy Đỉnh, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thực, Nguyễn Đức Tài, Nguyễn Trí, Nguyễn Đức Lượng, Nguyễn Duy Lại, Nguyễn Đức Hào, Nguyễn Dật, Nguyễn Đức Chiếm, Nguyễn Như Mi, Nguyễn Đức Thịnh cùng toàn dân xã biết rõ:

Nay ủy nhậm cho Tấn Quốc công chuyên trách trông coi các doanh thủy bộ ở các xứ, kiêm Chưởng Chánh quyền Thái úy Khâm sai Tiết chế, nắm giữ công việc quốc gia, đảm nhiệm việc binh dân quan trọng ở các đồn sở.

Thường biết: Nguyên bản xã vâng chỉ chuẩn cho sai người thờ phụng năm vị hoàng đế triều Trần tại điện An Sinh, và chùa Ngọa Vân, chùa Tư Phúc. Hàng năm… các hộ phân chia thời gian chăm lo việc thờ cúng, được miễn trừ sưu sai tạp dịch. Vào năm Nhâm Tuất… đã kiểm tra xem xét việc thờ cúng, thấy đúng thực, vì vậy vẫn cho người chăm lo việc thờ cúng được tiếp tục miễn trừ sưu sai tạp dịch… Trước đây đã thờ phụng Thọ Quốc Mạch… nay các nha không được nhũng nhiễu bắt bớ. Ai vi phạm lệnh này, sẽ bị trừng phạt theo phép nước. Nay ban lệnh.

Ngày 24 tháng 10 năm Chính Hòa thứ 10 (1689) triều Lê.

Công đức: Tả Đô Đốc... Trung Cần quân doanh, Thái Bảo Quận công, ông họ  Trịnh… tự Viên Minh, phu nhân là Lê Trang Ân hiệu Diệu Đoan.

Công đức: Hậu Quốc doanh…

Công đức: xã An Sinh gồm các ông bà Nguyễn Như tự Phúc Tín, Nguyễn Công, Nguyễn Phúc Cung, Nguyễn Đức Lượng vợ là Bùi Thị Ngôn, Nguyễn Phượng vợ là Nguyễn Thị Uyên, Nguyễn Đức Hà vợ là Đoàn Thị Tụ, Nguyễn Đức Vinh, Nguyễn… tự Phúc Hợp vợ hiệu Từ Huệ.

Công đức: xã Phúc Đa gồm các ông bà Sở lại Phạm Trung Gián vợ Nguyễn Thị… hiệu Diệu Tường. Ông Đinh Văn Quận tự Phúc Trường vợ là Phạm Thị Do người xã Đạm Thủy. Ông Phạm Văn Cao tự Phúc Tín vợ là Nguyễn Thị… hiệu Diệu Thành người xã An Vinh. Ông Nguyễn… Viên Hương vợ là Nguyễn Thị hiệu Diệu… ông họ … tự Viên Thực vợ là Nguyễn Thị Du hiệu Diệu Huệ người xã Phú Ninh. Xã Lạc Sơn, huyện Chí Linh gồm các bà Nguyễn Thị Huệ hiệu Diệu Lộc, con trai là Lê Quang Đăng tự Viên Thiệu, bà Nguyễn Thị Xướng, hiệu Diệu Năng, Xã Cổ … huyện Gia Lâm có bà Nguyễn Thị Phóng hiệu Diệu Thành. Xã Triều Dương có bà Đoàn Thị… hiệu Diệu Qúy và bà Nguyễn Thị Xuyến hiệu Diệu Đắc.

2. Bài vị đặt trong tháp Đoan Nghiêm
 Bài vị đặt trong tháp Đoan Nghiêm

2.1 Phiên âm: Nam mô Thiền Lâm thích tử ma ha tỳ khưu Đức Hưng thiền sư an tọa hạ.

2.2. Dịch nghĩa:

Na mô A di đà Phật bài vị thờ ma ha tỳ khưu đệ tử phái Thiền Trúc Lâm, Thiền sư Đức Hưng.

3. Bài vị đặt trong tháp Phật Hoàng

 Bài vị đặt trong tháp Phật Hoàng

3.1. Phiên âm:

Nam mô đệ nhất tổ Trúc Lâm đầu đà Tĩnh tuệ giác hoàng Trần triều đệ tam Nhân Tông Hoàng đế Điều ngự vương Phật.

3.2. Dịch nghĩa:

Na mô A di đà Phật, bài vị thờ Điều ngự vương Phật Đầu đà Tĩnh tuệ giác hoàng, tổ thứ nhất phái Trúc Lâm, vị vua thứ ba triều Trần, Nhân Tông Hoàng đế.

 Bia đá dựng trước tháp Phật Hoàng
4. Bia đá dựng trước tháp Phật Hoàng

4.1. Phiên âm: Minh Mệnh nhị  thập nhất  niên,  cửu  nguyệt,  sơ  lục  nhật phụng Trần triều Nhân Tông Hoàng đế lăng sắc kiến.

4.2. Dịch nghĩa: Ngày mồng 6 tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) phụng mệnh dựng (bia)  tại  lăng Hoàng đế Trần Nhân Tông triều Trần.

(Phiên âm, dịch nghĩa: Hoàng Giáp – Viện Hán Nôm, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)

Tác giả: Thạc sĩ Nguyễn Văn Anh Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Trích trong cuốn Am Ngọa Vân, tác giả Nguyễn Văn Anh, NXB Văn hóa Thông tin năm 2013
Chú thích: * Tiêu đề kỳ cuối do BBT phatgiao.org.vn đặt

-

13: Trong quá trình điều tra, nghiên cứu quần thể di tích Ngọa Vân năm 2007-2008, các nhà khảo cổ học nhận thấy các di tích ở Ngọa Vân phân bố thành 4 cụm gồm Thông Đàn, Ngọa Vân, Đá Chồng và Ba Bậc, trong mỗi cụm có nhiều điểm di tích khác nhau. Cụm Ngọa Vân có 06 điểm di tích và được gọi tên là Ngọa Vận 1, Ngọa Vân 2, Ngọa Vân 3, Ngọa Vân 4, Ngọa Vân 5 và Ngọa Vân 6. Năm 2009, kết quả khai quật khảo cổ học đã 60 cho phép xác định Ngọa Vân 3, Ngọa Vân 4 và Ngọa Vân 5 là các bộ phận cấu thành chùa Ngọa Vân, trong đó Ngọa Vân 3 là vị trí của chùa chính, Ngọa Vân 4 là vị trí của Tịnh thất và Ngọa Vân 5 là khu vườn tháp và Nhà Tổ. Các vị trí còn lại như Ngọa Vân 1, Ngọa Vân 2 và Ngọa Vân 6 hiện chưa biết rõ công năng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét