Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Giải bài toán “nông sản tới mùa rớt giá”

Ngày càng nhiều loại nông sản Việt Nam rơi vào thảm cảnh “tới mùa rớt giá”, bất kể được hay mất mùa, cùng với hiện tượng liên tục bị ùn tắc tại cửa khẩu càng làm cho người nông dân lâm vào tình thế bế tắc. Cung không tới được cầu, không chỉ xảy ra nhất thời mà gần như đã trở thành “quy luật” diễn đi diễn lại trong thời gian dài không chỉ đẩy người nông dân Việt Nam luôn phải đối mặt với rủi ro, bất trắc mà còn khiến cho một phần nguồn lực quốc gia bị lãng phí. Về sâu xa, còn cho thấy sự bất cập của một nền nông nghiệp manh mún và một hệ thống thương mại có vấn đề.

Một quan chức ở Bộ Công Thương khi được hỏi về vai trò quản lý nhà nước của bộ này ở đâu mà liên tục để điễn ra tình trạng dưa hấu bị ép giá đã cho biết: “nguyên nhân chính là do người nông dân chưa sản xuất theo tín hiệu của thị trường”. Vị quan chức này còn cảnh cáo: “Nếu không từ bỏ tư duy tự phát, manh mún và sản xuất không có kế hoạch, không chỉ vụ này mà nhiều vụ khác nữa dưa hấu cũng sẽ rớt giá”. Trên thực tế, không chỉ dưa hấu mà hàng loạt mặt hàng nông sản khác của Việt Nam như thanh long Bình Thuận, nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều Bắc Giang, cà phê Tây Nguyên, rau củ Đà Lạt, hành tím Sóc Trăng, chôm chôm miền Đông-Tây Nam bộ, lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long… cũng liên tục rơi vào tình cảnh tương tự trong hàng chục Năm qua. Nếu nông dân cả nước đều tư duy manh mún, sản xuất tự phát, cung không gặp cầu trong một thời gian dài như vậy,  thiết tưởng việc đầu tiên cần xem xét phải là trách nhiệm của các ngành nông nghiệp, thương mại cùng nhiều cơ quan chức năng khác của Nhà nước có liên quan. Người nông dân xét cho cùng cũng chỉ là nạn nhân của các chính sách bất cập cùng sự thiếu trách nhiệm của cán bộ công chức được giao trách nhiệm hoạch định chính sách, quy hoạch và điều tiết vĩ mô lĩnh vực sản xuất và cung cầu nông sản.

Có thể nói cho tới nay, hiếm có người nông dân nào tiếp cận  được các dữ liệu về quy hoạch, về nhu cầu của thị trường với từng loại nông sản để có thể tự lên kế hoạch cho mình. Việc nông dân phải sản xuất tự phát, chạy theo phong trào trong một thời gian dài tới hàng chục năm qua là kết quả tất yếu của thực trạng “mù thông tin” mà lẽ ra các cơ quan chức năng từ trung ương tới địa phương có trách nhiệm phải nắm bắt, tổng hợp, phổ cập và tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân tiếp cận. Chưa kể, các kho dữ liệu và tính cập nhật sát với thực tế có liên quan tới thị trường nông sản nội địa và xuất khẩu của các ngành chức năng trong từng thời điểm hay dài hạn không hẳn đã được thực hiện đầy đủ chức trách. Chẳng hạn như trong lĩnh vực thương mại, Bộ Công Thương có vai trò chủ yếu trong việc xúc tiến thương mại để mở rộng thị rường xuất khầu lẫn nội địa.  Để làm được  điều đó, một yêu cầu hết sức quan trọng là phải nắm bắt được thông tin chính xác về nhu cầu của thị trường và khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước để làm cơ sở cho việc tổ chức sản xuất nội địa. Bộ Công Thương cần xây dựng cơ chế để liên tục có những cuộc điều tra, nghiên cứu nắm bắt thông tin kịp thời về nhu cầu của những thị trường quan trọng liên quan tới các mặt hàng thế mạnh nội địa, có các tổng hợp dữ liệu cùng các dự báo hàng năm. Chẳng hạn như cần phải biết rõ nhu cầu thị trường xuất khẩu sang Trung Quốc hay một số thị trường điểm khác về các loại ông sản chủ yếu… Và cung cấp thông tin cho các cơ quan, địa phương có nhu cầu trong cả nước một cách nhanh chóng.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT), phối hợp bằng cách tham khảo các thông tin dự báo thị trường  từ Bộ Công Thương để xác định diện tích canh tác cho từng loại mặt hàng. Qua hệ thống ngành dọc của mình, Bộ NN-PTNT cần có những cảnh báo, khuyến cáo kịp thời cho từng vùng, từng địa phương tới tận các huyện, xã khi diện tích canh tác có xu hướng vượt ngưỡng. Đến lượt mình, chính quyền địa phương các cấp không chỉ làm quy hoạch trên giấy mà cần có trách nhiệm thật sự với cuộc sống của người nông dân trong việc thường xuyên cung cấp các thông tin khuyến cáo, chỉ dẫn kịp thời về mùa vụ và thị trường cho họ. Một thành phần khác cũng có vai trò không kém quan trọng chính là các hệ thống tổ chức từ trung ương tới địa phương của hội nông dân, hiệp hội ngành nghề, các hợp tác xã… Các tổ chức này nếu thực thi đầy đủ chức trách sẽ phải kịp thời sát sao, đồng hành cùng nông dân trong định hướng mùa vụ, cây trồng cũng như thông tin về thị trường.

Đáng tiếc là cho tới nay, sau hàng chục năm tham gia vào thị trường xuất khẩu lẫn nội địa, người nông dân Việt Nam vẫn còn đang trong tình trạng “mù thông tin”. Không thể bắt nông dân sản xuất có kế hoạch, đáp ứng nhu cầu của thị trường nếu còn cơ chế “mù thông tin”, còn những cơ quan chức năng của Nhà nước, cán bộ công chức chưa làm tròn trách nhiệm của mình trong việc quy hoạch, cung cấp kịp thời thông tin định hướng cho họ. Ngay khâu quy hoạch cấp tỉnh, huyện trong thời gian qua cũng chỉ dừng lại ở việc phát động trồng bao hiêu héc-ta, bao thầu mua bán giống ở đâu. Còn khâu thu hoạch, chế biến, xây dựng thương hiệu, tổ chức tiêu thụ ra sao thì cũng chung chung, chủ yếu phó mặc cho thị trường trôi nổi. Đó là chưa kể, từng có những phong trào chuyển đổi cơ cấu “trồng cây gì nuôi còn gì” là do chính quyền địa phương “sốt ruột” quyết nhanh trên cơ sở “thấy người ta ăn khoai mình cũng vác mai đi đào”. Chưa hề có phân tích thị trường, điều tra thổ nhưỡng, khí hậu địa phương và luận chứng khoa học nên phong trào sớm chết yểu, sản phẩm chất lượng thấp, giá rớt thê thảm, nông dân nợ nần chồng chất, kinh tế địa phương lao đao.

Không ít người thắc mắc, nước ta ngoài hệ thống các ngành chức năng, hiệp hội ngành  nghề trong lĩnh vực có liên quan tới chuỗi sản xuất nông nghiệp còn có hàng loạt viện nghiên cứu, trường đại học liên quan đến khoa học nông ngiệp và thương mại, chưa kể ở mỗi tỉnh cũng có các cơ quan chức năng tương tự, sở khoa học, công nghệ…. Hàng năm ngốn rất nhiều kinh phí từ ngân sách nhà nước. Song, người nông dân hầu như không được sự hỗ trợ đáng kể nào của những tổ chức này trong suốt quá trình sản xuất và vẫn đang phải tự bơi, tự phát.

Tuy nhiên, người nông dân trong khi chờ đợi sự chuyển động của các chính sách cũng cần phải tư duy năng động hơn để tự cứu lấy mình. Một trong những giải pháp hữu hiệu  để có thể tự cứu mình là cần làm gia tăng sức mạnh của người sản xuất lên trong chuỗi sản xuất nông nghiệp bằng cách liên kết lại để tăng cường năng lực sản xuất cũng như tiếp cận thông tin thị trường. Người nông dân cần tạo ra vị thế cân bằng trong mối quan hệ với các thành phần khác trong chuỗi sản xuất. Mô hình hợp tác xã kiểu mới (HTX) được các chuyên gia xem là một trong các giải pháp hiệu quả cho bài toán này. Theo GS-TS Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam,  HTX kiểu mới  sẽ tạo ra động lực kép mạnh mẽ để tạo đột phá phát triển của nông nghiệp Việt Nam hiện nay, trong đó có vị thế của người nông dân. Vì, nó vừa duy trì sự quan tâm, nỗ lực sáng tạo cao nhất của từng hộ nông dân với vai trò ngưới chủ đầy đủ của chuỗi sản xuất nông nghiệp; đồng thời cũng vừa thông qua HTX các hộ nông dân sẽ được hưởng nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ hiệu quả của nhà nước, phát huy mạnh mẽ hơn trong việc liên kết với các doanh nghiệp từ sản xuất tới tiêu thụ. 

Khi tham gia HTX kiểu mới, người nông dân không chỉ gia tăng được sức mạnh trong chuỗi sản xuất nông nghiệp mà còn có điều kiện thay đổi tập quán canh tác, hướng tới các tiêu chuẩn phổ quát của thị trường nên dễ dàng tiêu thụ sản phẩm hơn. Mặt khác, việc tiêu thụ sản phẩm của HTX kiểu mới không manh mún, đơn lẻ, bằng các hợp đồng không chính thức, hợp đồng miệng như với từng hộ nông dân theo tập quán nên không dễ bị thương lái ép giá. Kinh nghiệm cho thấy, “mù thông tin”, canh tác không tuân theo tiêu chuẩn thị trường và thiếu liên kết trong cân đối cung – cầu bằng các hợp đồng chính ngạch đã khiến nông dân luôn trở thành bên yếu thế và rơi vào tình trạng bế tắc triền miên do bị chèn ép.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét