Thứ Năm, 25 tháng 2, 2016

Trung Quốc CÓ THỂ làm gì ở Biển Đông?

Nguyễn Quang Dy

“Chính trị là nghệ thuật của điều có thể” (Politics is the art of the possible). (Bismarck)


Biển Đông xa quá!
Sau khi đọc bài của Alexander Vuving (Vũ Hông Lâm), “Trung Quốc sẽ làm gì ở Biển Đông?”, Dự án Đại sử ký Biển Đông, 21/2/2016), tiếp theo mấy bài trước cùng nội dung, đã làm tôi mất ngủ. Không phải vì có nội dung gì mới gây sốc, mà vì tác giả khẳng định một kết luận cũ làm độc giả nhức đầu. Nó làm người ta liên tưởng đến một tai họa sắp xẩy ra, như một trận đại hồng thủy (tsunami) “ai kiểm soát Biển Đông sẽ thống trị châu Á, và bất cứ ai thống trị châu Á sẽ thống trị thế giới”. (Còn ai vào đây nữa!)
Kết luận này là một suy diễn, nên độc giả sẽ suy diễn tiếp (hầu như chắc chắn) là Trung Quốc sẽ kiểm soát Biển Đông, sẽ thống trị Châu Á, và thống trị thế giới. Nói cách khác, trong vòng 15 năm nữa (nếu không có cách gì ngăn chặn), thì Trung Quốc sẽ biến Biển Đông thành cái ao nhà của họ (theo báo cáo của CSIS “Asia Pacific Rebalance 2025”). Nếu điều này xảy ra thật thì (lạy Chúa! lậy Phật!) chắc nhiều người không muốn sống lâu, hoặc phải di cư. Nhưng đi đâu? Chẳng lẽ lên mặt trăng hay sao hỏa! Vì Mỹ, Canada, Australia… sẽ đầy người Trung Quốc (Hán Hóa) trong khi Châu Âu sẽ đầy người Arab (Hồi giáo hóa).    
Có cách gì thoát không? Rất khó! Không biết sau khi đọc báo cáo của CSIS, tổng thống Obama (hay ông Donald Trump và bà Hillary Clinton) có nghĩ ra cách gì không, hay là họ quá bận rộn tranh cử nên không có thời gian cho những chuyện viển vông. Lyle Goldstein khen phát biểu của Donald Trump (về việc Trung Quốc xây sân bay trên các đảo mới bồi đắp ở Biển Đông) là “hợp tình hợp lý nhất” (most sensible comments), “nó ở xa quá, và chúng ta có rất nhiều vấn đề. Mà nó đã được xây xong rồi.” (It is very far, and we have a lot of problems, OK? And they are already built). Nói cách khác, hãy mặc kệ nó, không phải chuyện của Mỹ. Nếu Donald Trump mà làm tổng thống Mỹ thì nguy quá. (Lyle Goldstein, “The South China Sea Showdown: 5 Dangerous Myths, National Interest, September 29, 2015; “The Main Problem with America’s Abundant South China sea Hawks”, National Interest, October 28, 2015).
Hay là đến hỏi Henry Kissinger xem ông ấy có cao kiến gì không, vì chính ông ấy (và sếp của ông ấy là tổng thống Nixon) đã có công tạo ra con quái vật Frankenstein của Châu Á. Nếu ông ấy không nghĩ ra được cách gì để ngăn chặn Frankenstein thì hãy cách chức ông ta. (Nhưng ông ấy đã về hưu lâu rồi, làm sao cách chức được nữa). Vậy thì hãy kiện ông ấy ra toàn án quốc tế, vì đã góp phẩn tạo ra hiểm họa này cho thế giới (và nước Mỹ). Chắc nhiều người trên thế giới muốn kiện ông Kissinger (nhất là người Bangladesh). 
Binh pháp nào?
Cái chốt trong lập luận của Alexander Vuving về bàn cờ Biển Đông là người Trung Quốc đang ứng dụng binh pháp Tôn Tử (và cờ vây), trong vùng xám (gray zones), để giành chiến thắng mà không cần phải đánh. Trong khi đó, các chiến lược gia Mỹ lại nhìn nhận bàn cờ Biển Đông theo binh pháp Clausewitz (và cờ vua), trong vùng sáng tối rõ ràng (black & white). Có lẽ tư duy chiến lược của họ được điều khiển bởi hai hệ điều hành (hay văn hóa) khác nhau, nên hiểu thực chất vấn đề khác nhau và đề xuất giải pháp khác nhau. Có người khuyên Mỹ không nên ngăn chặn Trung Quốc. Tranh luận giữa Vuving và Goldstein về Biển Đông phản ánh thực trạng đó. (Alexander Vuving, “Think again: Myths and Myopia about the South China sea”, National Interest, October 16, 2015Lyle Goldstein, “The Main Problem with America’s Abundant South China Sea Hawks”, the National Interest, October 28, 2015).
Trong nhiều trường hợp, việc tranh luận về học thuyết rất khó nhất trí, không ai chịu ai. Nhận ra sai lầm và thừa nhận mình nhầm là một điều rất khó. (nhất là giới academic!)  Đó là cảm tưởng của tôi khi theo dõi các học giả lập luận và tranh luận. Đã có thời, các học giả Mỹ đổ xô kết luận Trung Quốc giống Liên Xô, và Việt Nam giống Trung Quốc (vì họ đều là cộng sản). Muốn ngăn chặn Trung Cộng, phải đánh Việt Cộng (thuyết Domino). Gần đây, muốn ngăn chặn khủng bố, phải đánh Iraq. Can thiệp, hay không can thiệp, đều có thể sai lầm, không phải sai về hành động, mà là sai về lý do hành động. Lịch sử có thể lặp lại.  
Điều đáng mừng là trong báo cáo của CSIS gần đây, “Asia Pacific Rebalance 2025”, các tác giả khuyến nghị rằng học thuyết ngăn chặn (containment) áp dụng từ thời Chiến tranh lạnh không còn phù hợp nữa. Muốn đối phó hiệu quả với sự trỗi dậy “không hòa bình” của Trung quốc hiện nay (đặc biệt là tại Biển Đông), Mỹ phải kết hợp cả ba yếu tố là “tham dự” (engagement), “răn đe” (deterrence) và “trấn an” (reassurance). Dù đây có phải là sự thỏa hiệp giữa các trường phái hay không, thì cách đề cập của CSIS là hợp lý, vì nó phản ánh được bản chất phức tạp của bàn cờ Biển Đông và tư duy lắt léo của người Trung Quốc.  
Khi ứng dụng “Binh pháp Tôn tử” (hay cờ vây), chắc người Trung Quốc cũng ứng dụng một cách linh hoạt như “Tam chủng Chiến pháp” (three warfares doctrine). Linh hoạt (hay “quyền biến”) theo logic “hư hư thực thực” (vừa thật vừa giả), thiên biến vạn hóa như ma trận, luôn là phương châm chỉ đạo hành động của người Trung Quốc. Có thể hình dung bàn cờ Biển Đông sẽ diễn biến giống như một ma trận (hay “trận đồ bát quái”). Nhìn cách Trung Quốc triển khai bố trí các cơ sở hạ tầng quân sự tại Biển Đông (Trường Sa và Hoàng Sa), cũng như trên đất liền, ta thấy hình dạng một chiến lược tổng thể, như một ma trận.    
Cách đánh giá của một số chuyên gia quân sự về giá trị của các hạ tầng quân sự (sân bay, bến cảng, trận địa tên lửa, ra đa, kho tàng…) mà Trung Quốc triển khai trên các đảo mới san lấp tại Trường Sa và Hoàng Sa, có thể sai lạc (misleading). Thoạt nghe thì có vẻ đúng về lý thuyết quân sự nhưng lại không đúng về thực tế, vì không lý giải được bản chất sự việc. Đúng là nếu xung đột quân sự (với Mỹ) xảy ra, thì các hạ tầng quân sự đó (military assets) dễ dàng bị phá hủy trong một trận oanh kích (từ máy bay hay tàu chiến Mỹ). Nhưng tại sao Trung Quốc vẫn đầu tư xây dựng các “lâu đài trên cát”? Không phải họ ngu, mà theo Vuving, họ đang chơi cờ vây, theo binh pháp Tôn Tử (để không đánh mà thắng).
Trung Quốc triển khai trận địa tên lửa HD-9 và ra đa tại đảo Phú Lâm (Hoàng Sa) không phải chỉ để uy hiếp máy bay B-52, mà còn để nhắn nhủ Obama và lãnh đạo 10 nước ASEAN đang họp tại Sunnylands ai là người quyết định cuộc chơi. Một ví dụ khác, trước chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình, Trung Quốc đã cho mấy tàu chiến đến ngoài khơi Alaska, không phải để đe dọa Anchorage, mà để nhắn nhủ Obama (lúc đó đang thăm Alaska) rằng Trung Quốc là một cưòng quốc hải quân không thua kém Mỹ, cần được đối xử bình đẳng theo luật chơi giữa các “nước lớn” (great power relations). Một kiểu gunboat diplomacy.   
Một số người lập luận rằng còn lâu Trung Quốc mới mạnh bằng Mỹ (về tiềm lực hải quân và không quân), nên hiện nay Mỹ chưa phải lo. Nhưng họ quên rằng sự trỗi dậy một cách hung hăng của Trung quốc hiện nay là hệ quả của những gì Mỹ đã làm (hay không làm) cách đây vài thập kỷ. Nếu Mỹ xoay trục như “tiếng kèn ngập ngừng” (uncertain trumpet), đối phó với Trung Quốc một cách nửa vời (half-hearted) như hiện nay thì không răn đe được Trung Quốc, mà còn khuyến khích họ hành động quyết đoán hơn. Thái độ do dự của Mỹ trong vụ tranh chấp đảo Scarborough giữa Trung Quốc và Philippines là một ví dụ. Cho tàu tuần tra FONOP tại Biển Đông theo kiểu “vô hại” (innocent passage) là một ví dụ khác. Đúng là Trung Quốc hiện nay còn yếu hơn Mỹ về tổng thể, nhưng nếu Mỹ không hành động quyết đoán thì Trung Quốc sẽ mạnh hơn Mỹ tại Biển Đông. “Điều duy nhất quan trọng là phải mạnh hơn tại địa điểm quyết định, vào lúc quyết định, để đạt mục đích” (Clausewitz)
Tại sao Trung Quốc không muốn xung đột với Mỹ, nhưng lại gây căng thẳng (brinkmanship)? Thứ nhất, Mỹ là mối lo lớn nhất của Trung Quốc: họ gây căng thẳng để hù dọa Mỹ không can thiệp vào khu vực. Nếu xung đột nhỏ với Việt Nam hay Philippines xảy ra thì họ dễ dàng đè bẹp đối phương, và coi đó là việc nội bộ (song phương), không liên quan đến Mỹ. Trung Quốc sẽ rất mừng nếu có người đề xuất với lãnh đạo Mỹ đừng can thiệp vào Biển Đông. Những người có quan điểm như Goldstein rất dễ rơi vào bẫy của họ (playing into their hands). Thứ hai, Trung Quốc không muốn Nhật, Úc, Ấn Độ can thiệp vào Biển Đông (cùng với Mỹ) vì một liên minh như vậy là mối lo thứ hai của Trung Quốc. Nếu vô hiệu hóa được hai mối lo trên, thì Trung Quốc dễ dàng cô lập, phân hóa ASEAN, có thể dùng cái gậy (vũ lực) để răn đe và củ cà rốt (viện trợ) để mua chuộc các nước này. Vì vậy, cuộc gặp cấp cao Mỹ-ASEAN tại Sunnylands, và đoàn kết ASEAN là mối lo thứ ba của Trung Quốc.
Lý thuyết cái bẫy chiến tranh “Thucydices trap” có giá trị răn đe vì xung đột tất yếu giữa một cường quốc đang trỗi dậy với một cường quốc đang suy yếu. Nhưng cái bẫy này có thể bị trung hòa và triệt tiêu bằng hai yếu tố khác: Thứ nhât, Mỹ và Trung Quốc bị trói buộc bởi lợi ích kinh tế (economic codependency trap); Thứ hai, Mỹ và Trung Quốc cùng lo bị hủy diệt (Mutual assured destruction). Vì vậy, giá trị thực tiễn của lý thuyết “Thucydices trap” tại Biển Đông không cao. Khả năng xảy ra xung đột Trung-Mỹ rất thấp.
Trên thực tế, răn đe sử dụng vũ lực (threat perception) có giá trị thực tiễn và hiệu quả hơn nhiều so với sử dụng vũ lực (tốn kém và rủi ro cao). Chiến tranh tâm lý thường diễn ra trước khi có xung đột thực sự. Tình trạng “nửa chiến tranh, nửa hòa bình” (no war no peace) là lý tưởng để Trung Quốc gây khủng hoảng (bên ngoài) nhằm tháo ngòi khủng hoảng (bên trong) bằng cách bành trướng theo chiến thuật cắt lát (salami), và biến thành chuyện đã rồi (fait accompi), đồng thời nắn gân đối phương bằng nước cờ “gambit”. 
Nhưng Trung Quốc chỉ có thể làm được điều đó nếu đối phương (Mỹ và đồng minh) tự hạn chế và tự kiểm duyệt mình, để chơi theo cờ vây của Trung Quốc. Nếu người Mỹ lo ngại xung đột có thể leo thang (thành chiến tranh hạt nhân) nên không dám can thiệp vào Biển Đông, là mắc mưu Trung Quốc (dù là vô tình). Mỹ cần chuyển đổi tư duy chiến tranh thông thường sang tư duy phản ứng linh hoạt để đối phó với tình trạng “nửa chiến tranh, nửa hòa bình” (no war no peace). Nhưng quan trọng hơn cả là người Mỹ phải vượt qua “hội chứng Trung Quốc”, cho rằng Mỹ không nên đối đầu và không thể ngăn chặn được Trung Quốc. Nếu nghĩ rằng không nên đối đầu với Trung Quốc chỉ vì mấy cái đảo nhỏ, hay mấy bãi đá trên biển, là nhầm to (misleading). Trung Quốc đang lặng lẽ thay đổi thưc địa, và chỉ vài năm nữa là những bãi đá hoang trở thành các căn cứ quân sự, cơ sở hậu cần, và cứ điểm mạnh, để kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Vì vậy, không thể chơi cờ vây với Trung Quốc bằng tư duy Clausewitz.
Có thể làm gì?
Về căn bản, tôi tán thành cách nhìn nhận vấn đề và lập luận của Vuving (về Biển Đông). Đây là một trong số ít các nhà nghiên cứu có quan điểm thực tế (realist), hiểu biết sâu sắc về tư duy chiến lược lắt léo của người Trung Quốc, và thực trạng Biển Đông (mà nhiều người khác chưa chắc đã hiểu rõ). Vuving đã giải thích “Trung Quốc SẼ làm gì”, và trong một số trường hợp, thực tế đã diễn ra như vậy. Tôi chỉ muốn bổ sung một chút xem “Trung Quốc CÓ THỂ làm gì”, vì điều này phụ thuộc vào những yếu tố mà có lẽ Trung Quốc không kiểm soát được (như một hệ quả không định trước). Hay nói khác đi, Mỹ và đồng minh CÓ THỂ làm gì để kiềm chế Trung Quốc tại Biển Đông, trong bối cảnh hiện nay.   
Thứ nhất, Mỹ và đồng minh/đối tác tiềm năng cần liên kết thành một liên minh thực tế (de facto alliance) dựa trên cơ sở hợp tác (TPP) và cơ chế an ninh tập thể (liên khu vực), để ngăn chặn Trung Quốc. Một liên minh như vậy có thể gồm mấy nước nòng cốt như Mỹ, Nhật, Việt Nam, Philippines, Ấn Độ, Úc, để cùng tuần tra Biển Đông, bổ sung cho vai trò an ninh tập thể của ASEAN đang yếu kém vì chia rẽ, đồng thời hỗ trợ tam giác Mỹ-Trung-Việt chuyển động theo hướng “thoát Trung”. Điều này là khả thi vì sau sự kiện tranh chấp đảo Điếu Ngư và sự kiện dàn khoan HD 981 là 2 bước ngoặt lớn (tipping point) làm quan hệ Trung-Nhật và Trung-Viêt thay đổi về bản chất, không còn như trước nữa (beyond the point of no return). Điều này là tối cần thiết, vì mối liên kết để lập một liên minh thực tế như vậy còn khá rời rạc, ngay cả sau thỏa thuận TPP và cuộc gặp cấp cao Mỹ-ASEAN tại Sunnylands. Bầu cử tổng thống Mỹ và chuyển giao quyền lực ở một số nước khu vực (như Myanmar, Đài Loan, Việt Nam) có thể ảnh hưởng phần nào tới tiến trình hợp tác với Mỹ (theo lộ trình đó). Thứ hai, những gì đang diễn ra tại Đài Loan, Hong Kong, Myanmar, Việt Nam, Lào…đang theo xu hướng “thoát Trung”. Trung Quốc càng đối phó cực đoan, họ càng bị cô lập và khủng hoảng.
Thứ ba, Trung Quốc có thể mạnh lên về quân sự (tại Biển Đông), nhưng tình hình kinh tế, xã hội, chính trị nội bộ đang xấu đi nghiêm trọng (tới mưc khủng hoảng), có thể đẩy nhanh quá trình sụp đổ của chế độ. Đây chính là tử huyệt của Trung Quốc. Nó vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán, dựa trên tinh thần dân tộc cực đoan, để thay đổi nguyên trạng (bên ngoài), và tăng cường các biện pháp trấn áp để duy trì nguyên trạng (bên trong). Đó là hai trụ cột chính của Tập Cận Bình để thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”. Nhưng chính điều này có thể phản lại ông ta, dẫn đến “hệ quả không định trước”. Đó là sự sụp đổ của mô hình phát triển độc đáo (authoritarian resilience) mà nhiều người đã từng đánh giá cao như là động lực làm Trung Quốc phát triển thần kỳ. 
Nhưng ngày càng nhiều người nhất trí về nguy cơ sụp đổ không tránh khỏi của chế độ Cộng sản Trung Quốc. (Minxin Pei, “The twilight of Communist Party rule in China”, American Interest, Nov 12, 2015). Danh sách ngày càng dài, gồm những tên tuổi như Paul Krugman, David Shambaugh, Minxin Pei… Chẳng ai muốn Trung Quốc sụp đổ, vì điều đó là một thảm họa toàn cầu, do phản ứng dây chuyền. Nhưng một nước Trung Quốc ốm yếu và suy sụp (implosion) có thể làm giảm động lực và năng lực bành trướng bá quyền tại Biển Đông. Nói cách khác, những gì đang diễn ra tại Biển Đông không thể tách rời những gì đang diễn ra tại Bắc Kinh và Thượng Hải. Biển Đông là một canh bạc lớn, và một con dao hai lưỡi đối với Trung Quốc, mà mối lo chung (mutual fear) là ẩn số trong mọi trò chơi quyền lực (game of thrones).     
Tham khảo
Alexander  Vuving, “Trung Quốc sẽ làm gì ở Biển Đông?”, Dự án Đại sử ký Biển Đông, 21/2/2016; “Think Again: Myths and Myopia about the south China sea”, National Interst, October 16, 2015; “A Tipping Point in the US-China-Vietnam Triangle”, the Diplomat, July 6, 2015;  “China’s Sun Tzu Strategy: Preparing for Winning without Fighting”, Interview by Patrick Renz & Frauke Heidemann, March 27, 2015;  
Lyle Goldstein, “The South China Sea Showdown: 5 Dangerous Myths”, Nationa Interest, September 29, 2015; “Main Problem with America’s Abundant South China sea Hawks”, National Interest, October 28, 2015.
Minxin Pei, “The Twilight of Communist Party Rule in China”, American Interest, November 12, 2015
Robert Kapland, “Eurasia’s Coming Anarchy”, Foreign Affairs, March/April, 2016
NQD. 25/2/2016

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016

Trung Quốc sẽ làm gì ở Biển Đông?

Alexander L. Vuving


Kể từ năm 2014, quần đảo Trường Sa đã trở thành một công trường xây dựng lớn độc nhất vô nhị. Hàng chục tàu của Trung Quốc đã làm việc suốt ngày đêm, cắt san hô và nạo vét cát đáy biển để biến những rạn đá chìm thành đảo nổi nhân tạo. Trong vòng chưa đầy một năm, Trung Quốc đã tạo ra hơn 10 km vuông đất mới trên bảy địa điểm khác nhau trên cả quần đảo mà tổng diện tích đất ban đầu chỉ có khoảng 4 km vuông. Bãi Chữ Thập, chìm ở thuỷ triều cao khi bị TQ chiếm đóng vào năm 1988, giờ đã là một hòn đảo rộng 2,74 km vuông đủ lớn để chứa một đường băng dài 3.100 mét và một bến cảng rộng 63 ha. Và mặc dù đảo nhân tạo ở Bãi Chữ Thập đã gấp gần 6 lần diện tích hòn đảo tự nhiên lớn nhất ở Trường Sa là đảo Ba Bình, nó vẫn nhỏ hơn hai hòn đảo nhân tạo khác. Vào tháng Sáu năm 2015, Trung Quốc đã tạo được 4 km vuông đất tại Xu bi và và 5,6 km vuông đất tại Vành Khăn, và những con số này vẫn đang tiếp tục tăng trưởng. [1]
Vậy kết cục của cuộc chơi xây dựng đảo này sẽ là gì? Vai trò của các hòn đảo nhân tạo này trong thời kỳ chiến tranh và ở phương diện luật biển rất đáng hoài nghi. Những hòn đảo này quá nhỏ và quá cô lập để có thể chống đỡ các cuộc tấn công lớn, chúng có thể dễ dàng trở thành gánh nặng trong thời gian chiến tranh. Chỉ là đảo nhân tạo, những thực thể địa lý này sẽ không thể được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Vậy tại sao Trung Quốc lại đầu tư những nguồn lực khổng lồ để tạo ra những hòn đảo này? Trung Quốc cần những đảo này làm gì?
Cách tiếp cận truyền thống tập trung vào ý nghĩa quân sự và pháp lý của những hoạt động này không phù hợp để trả lời những câu hỏi trên. Trung Quốc đang theo đuổi một chiến lược dựa trên những nguyên tắc rất khác với lối nghĩ thông thường. [2] Triết lý đằng sau chiến lược này có thể được tìm thấy trong “Binh pháp" của Tôn Tử. Ý tưởng then chốt là làm sao để không đánh mà vẫn thắng. Mục tiêu tổng thể là giành quyền kiểm soát Biển Đông, nhưng không phải thông qua các trận đánh lớn. Thay vào đó, Trung Quốc muốn đạt được mục tiêu của mình thông qua các hoạt động từng bước thay đổi thực địa, tạo dựng một sân chơi có lợi cho mình, làm thay đổi về mặt tâm lý những tính toán chiến lược của các quốc gia khác. Logic cơ bản của chiến lược này là khéo léo tác động lên các cấu hình chiến lược của khu vực để làm thay đổi thực tế theo xu hướng có lợi cho sự thống trị của Trung Quốc.
Có ba yếu tố bắt buộc cần có để theo đuổi chiến lược bành trướng lắt léo này, và sáu thập kỷ can dự vào Biển Đông của Bắc Kinh đã tuân theo những yếu tố này một cách chặt chẽ (Giả thuyết này đã được trình bày lần đầu tiên vào năm 2014 ngoái và đã dự đoán được một cách chính xác các chương trình xây dựng của Trung Quốc ở bãi Xubi và Vành Khăn) [3]
Yếu tố bắt buộc đầu tiên là tránh tối đa những trận đánh lớn; có thể tạo ra những đụng độ, nhưng chỉ là để khai thác một tình huống có lợi đang có sẵn. Yếu tố này đã từng là trụ cột trong kế hoạch Trung Quốc chiếm Hoàng Sa từ tay Nam Việt Nam vào năm 1974 và đụng độ với Việt Nam ở quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Yếu tố bắt buộc thứ nhì là kiểm soát các vị trí chiến lược trong khu vực: nếu những vị trí này còn chưa có ai chiếm hữu, chúng cần phải được chiếm một cách âm thầm lén lút nếu có thể, và bằng một cuộc xung đột có giới hạn, nếu cần thiết. Có thể dễ thấy yếu tố này nhất khi Trung Quốc chiếm 7 thực thể ở Trường Sa, và bãi cạn Scarborough vào năm 2012.
Yếu tố bắt buộc thứ ba là phát triển những vị trí này thành các trạm kiểm soát mạnh, các trung tâm hậu cần vững chắc và các căn cứ triển khai sức mạnh quân sự một cách hiệu quả. Đây chính xác là những gì Trung Quốc hiện đang tiến hành ở Biển Đông.
Những hoạt động này nhằm phục vụ mục tiêu kép là thiết lập uy thế và chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhờ ở những vị trí chiến lược và có tác dụng hỗ trợ hậu cần, các đảo trong tay Trung Quốc sẽ là những căn cứ vững chắc để từ đó vô số các tàu thuyền đánh cá, tàu thực thi pháp luật, tàu chiến và máy bay có người lái hoặc không người lái, toả ra thống trị bầu trời và vùng biển của Biển Đông.
Các vị trí kiểm soát then chốt bao gồm đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, Bãi Chữ Thập, Xu Bi và Vành Khăn ở quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough ở phía đông bắc của Biển Đông. Đảo Phú Lâm, Bãi Chữ Thập, Vành Khăn và bãi cạn Scarborough sẽ tạo thành một cụm bốn điểm mà từ đó, với bán kính 250 hải lý, có thể theo dõi chặt chẽ toàn bộ khu vực chính của Biển Đông. Tại quần đảo Trường Sa, các đá Xu bi, Vành Khăn và Chữ Thập tạo ra một tam giác hoàn hảo để bao phủ toàn bộ quần đảo (Xem bản đồ).
 

Trên đảo Phú Lâm, Trung Quốc gần đây đã nâng cấp một đường băng dài 3.000 mét và một cảng nước sâu dài 1.000 mét. Đường băng này có khả năng đón nhận ít nhất tám máy bay thế hệ thứ tư như máy bay chiến đấu SU-30MKK và máy bay ném bom JH-7, trong khi các bến cảng có thể tiếp nhận những tàu có trọng tải từ 5.000 tấn trở lên. Một đường băng và một cảng có kích cỡ tương tự đã được xây dựng tại Bãi Chữ Thập. Hình dạng các đảo nhân tạo đang được hình thành ở Xu Bi và Vành Khăn gợi ý rằng ở đây rồi cũng sẽ có những đường băng và một hải cảng với kích thước tương tự. Mặc dù Bắc Kinh hiện chưa tiến hành xây dựng quy mô lớn ở bãi cạn Scarborough, sẽ không ngạc nhiên nếu như trong tương lai cũng sẽ có một đường băng và một cảng nước sâu tại đây.  
Các khu vực đã được mở rộng thông qua lấn biển sẽ cho phép Trung Quốc thiết lập tại các tiền đồn các trang thiết bị quan trọng của quân đội cũng như các thiết bị lưỡng dụng cho cả quân sự và dân sự. Bốn tiền đồn nhỏ hơn của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa hiện giờ đã ít nhiều có kích thước tương tự với tiền đồn lớn nhất của Việt Nam ở đây. Đảo Trường Sa, hòn đảo lớn nhất mà Việt Nam đóng quân trong quần đảo, rộng 15 ha. Bốn tiền đồn Trung Quốc, Châu Viên, Gạc Ma, Gaven, và Tư Nghĩa giờ đã có kích thước lần lượt là 23,1 ha, 10,9 ha, 13,6 ha và 7,6 ha. 
Trung Quốc sẽ đặt các trạm radar, các trạm phát điện và nước, cũng như các kho tàng, bến bãi và những cơ sở hạ tầng dịch vụ trên những đảo họ đang chiếm. Các trang thiết bị ở Hoàng Sa và Trường Sa sẽ có đủ năng lực để hỗ trợ hàng ngàn tàu cá và hàng trăm tàu tuần tra, tàu chiến và máy bay hoạt động ở những vùng biển và vùng trời cách xa bờ biển Trung Quốc hàng trăm dặm. Trung Quốc cũng sẽ đưa hàng ngàn dân, nhân viên quân sự và dân sự tới cư ngụ ở đây. Cùng với vài hòn đảo đã được mở rộng ở Hoàng Sa và bảy đảo nhân tạo ở Trường Sa đóng vai trò như là những điểm dừng chân và tiếp tế nhiên liệu, Trung Quốc có thể triển khai hang ngàn tàu cá và tàu thực thi pháp luật để đẩy người Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Indonesia ra khỏi vùng biển mà Bắc Kinh coi là của riêng mình. 
Trung Quốc có thể không tấn công những thực thể địa lý mà các quốc gia khác đang chiếm đóng nhưng họ sẽ tăng cường nỗ lực bí mật kiểm soát những thực thể địa lý chưa có người mà ở những vị trí chiến lược. Bãi Én Đất và Đá Ba Đầu ở các cụm đảo trung tâm cũng như một vài thực thể địa lý ở phần phía đông quần đảo Trường Sa gần Philippines sẽ tiếp tục là mục tiêu của những nỗ lực này. 
Trung Quốc có thể sẽ không chính thức tuyên bố một khu vực nhận dạng phòng không ở Biển Đông vì một hành động như vậy có thể sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng lớn và khiến nhiều quốc gia Đông Nam Á chống lại Trung Quốc. Nhưng Bắc Kinh sẽ áp đặt một số khu vực phòng không nhỏ ở những vùng trời xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc cũng sẽ khẳng định một cách âm thầm rằng vùng trời bên trong đường lưỡi bò là thuộc về họ. 
Với cơ sở vật chất đáng kể hơn trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc sẽ thỉnh thoảng tuyên bố một số vùng an ninh, vùng đánh cá và vùng bảo vệ môi trường ở Biển Đông. Mặc dù những vùng này có thể không phù hợp với luật pháp quốc tế, Trung Quốc sẽ không chịu đưa tranh cãi ra toà, và vì là quốc gia mạnh nhất trong khu vực, Bắc Kinh có thể thi hành bất cứ điều gì mà họ tự cho là hợp pháp. 
Liệu Trung Quốc có thể đạt được ưu thế không quân và hải quân ở Biển Đông không? Như đã đề cập ở trên, các sân bay và bến cảng ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là quá cách biệt và lộ liễu để có thể chống đỡ những cuộc tấn công lớn trong thời chiến. Tàu Liêu Ninh, chiếc tàu sân bay duy nhất hiện nay của Trung Quốc, không phải là đối thủ của bất kỳ tàu sân bay nào trong Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Mặc dù tàu Liêu Ninh sẽ được trang bị 30 máy bay chiến đấu đa chức năng SU-33 và nhiều máy bay trực thăng tác chiến chống tàu ngầm, một chiếc tàu sân bay lớp Nimitz của Mỹ thôi cũng đã có năng lực gấp hai lần. 
Nhưng mục tiêu của Bắc Kinh dường như là muốn chiếm ưu thế trên không và trên biển vào những lúc mà không có sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ. Khả năng Việt Nam tấn công vào các tiền đồn của Trung Quốc ở Biển Đông bị hạn chế rất lớn bởi khả năng Trung Quốc trả đũa dọc theo 1,450 km đường biên giới trên bộ. Bốn sân bay ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ cho phép Trung Quốc tăng thêm 30-40 máy bay vào số máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư mà Trung Quốc có thể triển khai cùng lúc ở Biển Đông. Điều này sẽ cho phép Trung Quốc qua mặt Việt Nam và Malaysia, những lực lượng không quân lớn nhất trong số các đối thủ Đông Nam Á. Tuy Việt Nam được hưởng một bờ biển dài dọc theo Biển Đông nhưng hiện nay cả nước chỉ có khoảng 36 (cuối năm nay có thể có 48) máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư. Malaysia nằm xa về phía nam và hiện giờ có không nhiều hơn 50 máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư trên toàn bộ lãnh thổ. 
Ngoài máy bay và tàu chiến, Trung Quốc cũng có thể triển khai tên lửa tới Hoàng Sa và Trường Sa. Việc triển khai tên lửa có thể sẽ kích hoạt những phản đối kịch liệt từ Việt Nam, Philippines, Hoa Kỳ và một số chính phủ khác, nhưng Trung Quốc sẽ tìm một thời điểm thuận tiện để biện minh cho việc triển khai đó như là một hành động tự vệ. Những trang thiết bị quân sự của Trung Quốc tại đó sẽ rất dễ bị tổn thương trong thời chiến, nhưng chức năng chính của chúng dường như là để dành cho những cuộc tuần tra thời bình và có tính đe doạ tâm lý.  
Cách tiếp cận của Trung Quốc pha trộn các yếu tố cưỡng chế với các yếu tố hợp tác, sử dụng sự hợp tác để thu hút và bẫy đối phương vào sự cưỡng chế. Trung Quốc có thể cung cấp các cơ sở của mình trên đảo nhân tạo cho các lợi ích chung trong khu vực. Tháng 5 năm 2015, Đô đốc Ngô Thắng Lợi, Tư lệnh Hải quân Trung Quốc, nói với Đô đốc Jonathan Greenert, Tư lệnh Hải quân của Mỹ là các cơ sở trên đảo nhân tạo của Trung Quốc có thể được sử dụng cho những hoạt động cứu nạn và cứu trợ thiên tai. Mặc dù Hoa Kỳ đã từ chối lời rao này của Trung Quốc, Trung Quốc chắc chắn sẽ sử dụng những thực thể địa lý còn đang trong tranh chấp này như bàn đạp cho các hoạt động nhân đạo hay hợp tác nhằm gây sự chú ý cao và lôi kéo các quốc gia khác trong khu vực. Đối với những quốc gia không có tranh chấp đảo hay biển với Bắc Kinh ở Biển Đông, điều này sẽ tạo thêm một động lực để ngầm chấp nhận sự thống trị của Trung Quốc. 
Trung Quốc có thể sẽ không cản trở các tuyến thương mại trên không và trên biển ở Biển Đông, nhưng sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu như Trung Quốc sẽ thỉnh thoảng chặn một số tàu thuyền và máy bay, cả dân sự lẫn quân sự, của những quốc gia phản đối những nỗ lực bá quyền khu vực của họ. Những hành vi đó được thiết kế để tạo ra những hiệu ứng về tâm lý hơn là hiệu ứng vật lý.  
Các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông phù hợp với một chiến lược lớn hơn và lâu dài mà nguyên lý trung tâm là giành quyền kiểm soát khu vực có vị trí chiến lược then chốt này theo những cách mà có thể ngăn chặn các nước khác đáp trả tương tự. Chiến lược này lại là một phần của một nỗ lực lớn hơn để đạt được Giấc mơ Trung Quốc, để khôi phục lại vị trí mà Trung Quốc tự cho là chỗ đứng xứng đáng của nó, đó là ở trên đầu các quốc gia khác. Số phận của những quốc gia trỗi dậy hiếu chiến trong quá khứ và sự dễ bị tổn thương của các tuyến đường thương mại của Trung Quốc cho thấy rằng chiến tranh không phải là cách để Trung Quốc đạt được tham vọng này. Được trang bị với một truyền thống chiến lược ưa chuộng cách tiếp cận gián tiếp, Trung Quốc đã lựa chọn một chiến lược bành trướng lắt léo để tìm cách định hình sân chơi hơn là trực tiếp tấn công đối thủ. Đe dọa là một yếu tố chính của chiến lược này nhưng nó là kết quả của sự áp đảo hoặc trừng phạt nặng có chọn lọc chứ không phải là tấn công bừa bãi. 
Nếu các đối thủ của Trung Quốc không có đối sách bẻ gãy chiến lược này, Trung Quốc sẽ nổi lên như là chúa tể của Biển Đông, ít nhất là trong nhận thức của hầu hết các nước trong khu vực. Từ đây, sẽ chỉ còn vài bước để vươn tới vị trí bá quyền khu vực và toàn cầu. Với thực tế là huyết mạch của nền kinh tế châu Á chạy qua Biển Đông, và châu Á đã trở thành chấn tâm kinh tế thế giới, ai kiểm soát Biển Đông sẽ thống trị châu Á, và bất cứ ai thống trị châu Á sẽ thống trị thế giới.

Chú thích:

[1] http://amti.csis.org/island-tracker/
[2] Alexander L. Vuving, “China’s ‘Sun-Tzu Strategy’: Preparing for Winning Without Fighting,” South China Sea Research, June 29, 2015, https://seasresearch.wordpress.com/2015/06/29/chinass-sun-tzus-strategy-preparing-for-winning-without-fighting/
[3] Alexander L. Vuving, “China’s Grand Strategy Challenge: Creating Its Own Islands in the South China Sea,” The National Interest, December 8, 2014, http://nationalinterest.org/feature/chinas-grand-strategy-challenge-creating-its-own-islands-the-11807

Biên dịch: Huệ Việt (Dự án Đại Sự Ký Biển Đông)
Hiệu đính: Alexander L. Vuving

Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương, Honolulu, Mỹ và là một chuyên gia trong lãnh vực An ninh châu Á, Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc. Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết phân tích các vấn đề chính sách, chiến lược Biển Đông và quan hệ quốc tế trên các chuyên san như Asian Survey, The Diplomat, The National Interest và website của nhiều trường Đại học, cơ sở nghiên cứu lớn trên thế giới, cũng như là đồng tác giả của nhiều cuốn sách trong cùng lãnh vực. Ông đồng thời là thành viên ban biên tập tờ Chính sách và chính trị châu Á (Asian Politics and Policy) của Tổ chức nghiên cứu chính sách. Thông tin thêm về ông:  http://apcss.org/college/faculty/vuving/

Nguồn Vietstudies

Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2016

Quá độ hữu hạn & Ngộ nhận vô hạn

Nguyễn Quang Dy

 “Đừng tin những gì bạn nghe và chỉ tin một nửa những gì bạn thấy” (Benjamin Franklin)

“Quá độ” hoặc “chuyển đổi” (transition) là khái niệm thay đổi tuần tự, từ một hệ thống này sang một hệ thống khác. Hầu hết các quốc gia (hay doanh nghiệp) chuyển đổi đều phải trải qua quá trình này. Đó là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển, nhưng cũng đầy ngộ nhận, có thể dẫn đến sai lầm và tổn thất, nếu cực đoan và duy ý chí, không chịu nghiên cứu để làm theo quy luật. 

“Ngộ nhận” (misconception/misperception) là trạng thái hồ đồ, nhầm lẫn trong tư duy, dẫn đến hành động sai. Tại sao phải bàn về ngộ nhận?  Bởi vì người Việt ngộ nhận quá nhiều và quá dễ. Câu chuyện về hơn 300 sinh viên Việt Nam tại Australia bị một cô gái trẻ trên facebook lừa gần 400.000 AUD vì mua vé máy bay giá rẻ trong dịp Tết vừa qua, đáng để suy nghĩ. Phải chăng người Việt hay ngộ nhận nên dễ bị lừa. Ngộ nhận như cái bẫy mà nhiều người hay mắc phải, dù phải trả giá nhưng vẫn tiếp tục ngộ nhận, như một căn bệnh tâm thần mãn tính khó chữa. Tại sao khó chữa? Bởi vì ngộ nhận như cái bẫy ảo nằm trong tâm thức của ta (state of mind). Có lẽ không ai gài bẫy cả, mà chính ta tự gài bẫy mình.
Làm thế nào để tránh? Nó không giống như lái xe tránh cái ổ gà hay cái hố tử thần trên đường. Ngộ nhận ẩn tàng trong tâm thức như một bản năng khó thay đổi, như những góc mù che khuất tầm nhìn, làm ta vô minh, lú lẫn (dù có tài giỏi đến mấy). Vì vậy, muốn tránh ngộ nhận, phải giác ngộ. Nói theo nhà Phật là phải vô chấp, vô ngã, để không vô minh. Hãy điểm qua vài ví dụ điển hình. 
     
Ngộ nhận & chuyển đổi     
Sau chiến tranh (1975), Việt Nam phải chuyển đổi từ thời chiến sang thời bình, từ hai miền khác nhau về chế độ chính trị thành một đất nước thống nhất. Nó đòi hỏi năng lực quản trị chuyển đổi đầy khó khăn trong giai đoạn hậu chiến. Người Đức đã làm rất tốt, nhưng người Việt đã làm rất tồi. “Bên thắng cuộc” đã say sưa với chiến thắng nên ngộ nhận rằng đã thắng được Mỹ thì có thể làm bất cứ chuyện gì, rằng xây dựng kinh tế không khó bằng chiến tranh, nên ai làm cũng được. Họ không hiểu rằng đó là hai chuyện khác nhau, phải đổi mới tư duy và hành động, với tầm nhìn mới.
Đáng nhẽ cả hai bên (thắng cuộc và thua cuộc) đều phải “học tập cải tạo” một cách nghiêm túc để hòa giải và bắt tay với nhau để tái thiết đất nước. Nhưng đáng tiếc là cực đoan và hận thù đã xô đẩy cả hai phía Việt Nam tiếp tục cuộc chiến không đáng có, trong khi kẻ thù truyền kiếp lợi dụng thời cơ chiếm mất Hoàng Sa và dùng Khmer Đỏ gây ra xung đột mới. Đơn giản vì Trung Quốc không muốn một nước Việt Nam thống nhất và hùng mạnh, tuột khỏi vòng tay bá quyền của họ.    
Thất bại về bình thường hóa với Mỹ năm 1978 (trong gang tấc) là một thất bại về tầm nhìn và tư duy chiến lược thời hậu chiến, dẫn đến hệ quả khôn lường. Việt Nam lại rơi vào vòng xoáy chiến tranh, mắc kẹt vào quá trình phân cực và xung đột của tam giác Mỹ-Trung-Xô, do ngộ nhận về bạn thù và ưu tiên chiến lược. Đó là một trường hợp xử lý “sai một ly đi một dậm”. Thống nhất đất nước là tất yếu, nhưng quản trị việc hội nhập hai miền thế nào mới là hệ trọng. Cực đoan và duy ý chí, với cái đầu nóng, nhưng thiếu năng lực quản trị, có thể phung phí cơ hội hội hiếm có và nguồn lực khổng lồ của đất nước. Kết cục hôm nay là hệ quả hôm qua. Lịch sử có thể lặp lại với những sai lầm mới, nếu vẫn ngộ nhận.
Trong bối cảnh hiện nay (sau Đại hội Đảng và trước khi Mỹ có Tổng thống mới) không nên ngộ nhận trông chờ quá nhiều vào Sunnylands Summit (15-16/2/2016) hay chuyến thăm của Tổng thống Obama (5/2016). Nhưng cũng đừng coi nhẹ sự kiện Trung Quốc đưa tên lửa HQ-9 ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa). Các  sự kiện này đều liên quan đến nhau, và cùng một bàn cờ đang chuyển động, trong đó Trung-Mỹ là hai đối thủ chính, còn Việt Nam và ASEAN là các bên liên quan đến tranh chấp, nhưng lại bất lực. Không phải chỉ vì Mỹ vẫn “ngập ngừng”, mà còn vì Việt Nam và ASEAN không đủ mạnh và đoàn kết. Trong khi cơ chế an ninh ARF trở nên lạc hậu, thì AEC (Cộng đồng Kinh tế ASEAN) vẫn còn quá mới.       
Từ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội…  
Chúng ta đã nghe câu chuyện “quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội” từ rất lâu rồi, từ ngày còn cắp sách đi học. Lúc đó mọi người hiểu một cách mơ hồ về câu chuyện quá độ như một huyền thoại và nhắm mắt tin theo (vì chẳng ai phản biện). Rồi câu chuyện ngày càng khó hiểu hơn với những khái niệm tù mù như “bước đi ban đầu của thời kỳ ban đầu của giai đoan quá độ…”. Lúc đó chắc bộ trưởng Bùi Quang Vinh còn quàng khăn đỏ, nên chưa thể nói được rằng “làm gì có cái thứ đó mà đi tìm…” 
Nói như vậy để thấy quá trình giác ngộ để “vượt qua ngộ nhận” về một khái niệm đơn giản nó phức tạp đến thế nào. Tôi nhớ cách đây hơn một thập kỷ, giáo sư Nhật Kenichi Ono (Viện Grips) đã có một nhận xét thú vị, “Lần đầu tiên đến Việt Nam, tôi rất ấn tượng thấy các bạn Việt Nam say sưa tranh luận về những vấn đề hệ trọng của đất nước. Năm năm sau trở lại Việt Nam, tôi vẫn thấy các bạn say sưa tranh luận về những vấn đề hệ trọng đó…” Có lẽ đến bây giờ chúng ta vẫn còn say sưa tranh luận về những vấn đề đó. Chỉ có khác là các chuyên gia kinh tế nay gọi điều đó là “chém gió”… Một chuyên gia nước ngoài khác (tôi không nhớ tên) có một nhận xét dí dỏm (mà chị Phạm Chi Lan hay trích dẫn) là Việt Nam thuộc loại nước “không chịu phát triển”. Quá độ thì hữu hạn, nhưng ngộ nhận thật vô hạn.
  
…Đến định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Sau những cố gắng đổi mới tư duy kinh tế, câu chuyện “quá độ” đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội (bị thất bại) đã được thay thế bằng câu chuyện “chuyển đổi” sang kinh tế thị trường (tức Chủ nghĩa Tư bản). Đó là một bước tiến dài để chuyển đổi tư duy kinh tế, tuy mất đứt mấy thập kỷ, nhưng ta vẫn kiên trì “Định hướng Xã hội Chủ nghĩa”. Kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa là một “sáng tạo độc đáo” không giống ai. Các nhà kinh tế (kể cả được giải Nobel) cũng chẳng hiểu nổi mô hình này là cái gì. Tại Đại hội Đảng XII, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh (sắp nghỉ hưu) đã kêu gọi “thay đổi thể chế đồng bộ”, và cách đây mấy ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (cũng sắp nghỉ hưu) có một bài dài kêu gọi “thay đổi thể chế”. Nhưng nghị quyết Đại hội Đảng XII vẫn kiên trì “định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Trong vòng xoáy khủng hoảng, hàng trăm ngàn doanh nghiệp đã bị phá sản và chết lâm sàng, do ngộ nhận về kinh tế thị trường và mắc kẹt vào định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nay tham gia sân chơi WTO và TPP, nhưng doanh nghiệp Việt nam vẫn mơ hồ về hội nhập, ngộ nhận một cách “vô hạn” về một khái niệm chuyển đổi “hữu hạn”, biến câu chuyện đơn giản thành nan giải, với cái giá phải trả “vô hạn”. Sự ngộ nhận đó đã dẫn đến hệ quả tai hại, làm Việt Nam tụt hậu vài thập kỷ so với các nước láng giềng, trong khi nước láng giềng khổng lồ phương Bắc đang muốn chúng ta trở lại thời “Bắc thuộc”.
Nhưng điều trớ trêu là chính ông bạn khổng Trung Quốc cũng đang mắc kẹt vào cái bẫy chuyển đổi do ngộ nhận, và đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ của thể chế chính trị độc đảng đã lỗi thời, mà chính lãnh đạo cao nhất của họ (Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn) đã phải công khai thừa nhận. Tại sao chúng ta vẫn kiên trì ngộ nhận theo đuổi mô hình đó và đi theo đường mòn đó, trong khi chính họ cũng đang tìm cách “thoát Trung”. Lựa chọn chính sách này dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn nào?
Theo báo Đại Kỷ Nguyên (16/2/2016) và Tạp chí Tranh Minh (Hong Kong), tại Hội nghị TƯ 2 của Đảng CSTQ (29/10/2015) , Tập Cận Bình đã cảnh báo về “6 nguy cơ lớn của Đảng” và nhấn mạnh, “cần dũng cảm đối diện sự thực, thừa nhận việc Đảng thoái hóa biến chất và đang đứng trước nguy cơ mất Đảng”. Vương Kỳ Sơn (bí thư Ủy ban Kỷ luật TW) cũng công khai thừa nhận (tại cuộc họp thứ 52 của UBKLTW) “đang xuất hiện vấn đề lớn” trong thể chế không thể chữa được, khiến Đảng đi vào đường cùng của sự sụp đổ, “Đấy là sự thực, không phải việc ai đó có chịu thừa nhận hay không”. Theo Ban Tổ chức Trung Ương TQ (tính đến 25/7/2015) đã có 209.920.000 người tuyên bố bỏ Đảng và các tổ chức chính trị của Đảng (như Đoàn Thanh niên Cộng sản).  

Chuyển đổi bị mắc kẹt   
Giáo sư người Mỹ gốc Hoa Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân) đã nghiên cứu mô hình phát triển của Trung Quốc và đưa ra lý thuyết cho rằng “Trung Quốc đã bị mắc kẹt trong quá trình chuyển đổi do những cải cách kinh tế và chính trị nửa vời”. Minxin Pei kết luận rằng vì Đảng Cộng sản phải kiểm soát nền kinh tế để tồn tại về chính trị, nên chủ thuyết quá độ tiệm tiến (gradualism) cuối cùng sẽ thất bại” (Minxin Pei, “China’s Trapped Transition: The Limits of Development Autocracy”, Harvard University Press, 2006). 
Theo Minxin Pei, để duy trì chế độ chính trị, Tập Cận Bình đang áp dụng chính sách cai trị bằng sợ hãi (rule of fear), nhằm thâu tóm quyền lực dưới chiêu bài chống tham nhũng, làm xã hội Trung Quốc chìm trong không khí khủng bố như thời Cách mạng Văn hóa. (Minxin Pei, “China’s Rule of Fear”, Project Syndicate, February 8, 2016). Một hệ quả cụ thể của chiến dịch đả hổ là Lệnh Hoàn Thành (em trai Lệnh Kế Hoạch) đã chạy sang Mỹ tị nạn, đem theo nhiều bí mật quốc gia, như một “quả bom nổ chậm” có sức công phá không kém gì vụ Vương Lập Quân chạy vào Tổng Lãnh sự quán Mỹ tại Thành Đô (2/2012). Theo các nhà kinh tế, không phải chỉ có quả bom nổ chậm về chính trị, mà bong bóng kinh tế (đặc biệt là bong bóng bất động sản) là một quả bom nổ chậm hàng ngàn vạn tấn đang chờ kích hoạt. Vạn lý Trường thành cũng không thể ngăn được dòng người (và vốn) tháo chạy ồ ạt (như bỏ phiếu bằng chân).

Quyền lực cũng bị mắc kẹt
Khi Nguyễn Bá Thanh chuyển từ Đà Nẵng ra Hà Nội để làm Trưởng Ban Nội chính (đầy quyền lực) có thể ông ấy quá tự tin và ngộ nhận về trò chơi quyền lực mới, vì chống tham nhũng nguy hiểm như săn hổ dữ. Nguyễn Bá Thanh có thể làm mưa làm gió tại Đà Nẵng (như lãnh chúa), nhưng ra Hà Nội ông ấy có thể bị vô hiệu hóa và mắc kẹt vào một cơ chế quyền lực khác mà ông ấy không làm chủ. Thuyên chuyển quyền lực (power transition) là một việc không đơn giản. Nguyễn Bá Thanh đã hấp tấp tuyên bố “hốt liền” trong khi chưa chuẩn bị các điều kiện cần và đủ (về luật chơi và người chơi). Tập Cận Bình đã đưa Vương Kỳ Sơn vào ghế thường trực BCT trước khi bổ nhiệm ông này làm bí thư Ủy ban Kỷ luật Trung ương. So với Nguyễn Bá Thanh, Vương Kỳ Sơn chuyên nghiệp hơn nhiều, cả về con người lẫn bộ máy quyền lực.
Không biết Đinh La Thăng có học được bài học quá đắt của Nguyễn Bá Thanh để tránh cái bẫy ngộ nhận hay không, mặc dù cái ghế Bí Thư thành phố HCM không nguy hiểm bằng cái ghế Trưởng ban Nội chính. Nhưng dù sao, đặc điểm cơ chế quyền lực (nổi và chìm) tại Sài Gòn cũng khác Hà Nội. So với Hoàng Trung Hải, nhiệm vụ của Đinh La Thăng khó khăn phức tạp hơn nhiều, như một con dao hai lưỡi, rất dễ mắc kẹt vào cái bẫy chuyển đổi quyền lực (trapped transition).   
   
Sở hữu toàn dân 
Một ngộ nhận lớn khác là quyền “sở hữu toàn dân” (đặc biệt là về tài nguyên ruộng đất). Khái niệm tù mù về quyền sở hữu toàn dân nghe có vẻ hợp đạo lý Xã Hội Chủ Nghĩa, nhưng thực ra đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm lợi ích thân hữu thao túng và chiếm đoạt của công biến thành của tư, làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Những cải cách nửa vời về sở hữu ruộng đất đã làm cho xã hội bị mắc kẹt trong một cái bẫy nguy hiểm, như một quả bom nổ chậm chưa được tháo ngòi.
Sở hữu toàn dân là nguồn gốc làm cản trở sự phát triển của đất nước qua nhiều thập kỷ, dưới mức tiềm năng, làm cho Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước láng giềng. Nếu không đổi mới về thể chế kinh tế và chính trị, nếu không cải cách triệt để về quyền sở hữu ruộng đất, thì không thể hóa giải được mâu thuẫn xã hội, và Việt Nam không thể phát triển bền vững. Càng yếu kém và lệ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, thì Việt Nam càng khó giữ độc lập và chủ quyền.     

Chính sách mị dân 
Nhân dân là một danh từ được các nhà chính trị (của mọi thời đại) nhắc đến nhiều nhất để mị dân (dù họ có phải dân túy hay không), với những khẩu hiệu nghe sướng tai như “Chính phủ Của dân, Do dân, Vì dân” (Abraham Lincoln), mà người Việt hay nhắc đến (như của chính mình). Trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (Thomas Jefferson) mà cụ Hồ đã trích dẫn trong Tuyên Ngôn Độc lập của ta, cũng nhấn mạnh dân quyền, “Mọi người sinh ra đều bình đẳng” (All men are created equal…).
Tại Việt nam, danh từ nhân dân được sử dụng một cách “lạm phát”, với nhiều vận dụng độc đáo như “quân đội nhân dân”, “công an nhân dân”, “ủy ban nhân dân”, “hội dồng nhân dân”, tòa án nhân dân”, … Cái gì cũng “nhân dân” (chỉ có một ngoại lệ là “ngân hàng nhà nước”). Những người cầm quyền ở Việt Nam luôn chú ý đến “dân vận”, thường xuyên vận dụng các cụm từ mị dân như, “lấy dân làm gốc”, “trung với nước hiếu với dân”, “uống nước nhớ nguồn”… nhất là khi phải huy động sức dân cho chiến tranh, hay đóng góp tài chính… Nhưng khi dân phản đối về một vấn đề gì đó (như Trung Quốc) họ thường bị trấn áp như “thế lực thù địch” hay “phản động”. Như vậy thì làm sao “thoát Trung”?

Khủng hoảng lòng tin
Ngay từ thời “cải cách ruộng đất”, nhiều người có công với cách mạng đã bị đấu tố và xử tử oan sai, do ngộ nhận và cuồng tín. Bây giờ mấy từ “dân oan” hay “khiếu kiện” đã trở thành những từ khóa được nhắc đến nhiều nhất. Chính quyền ngày càng xa dân, đối xử bất minh với dân, lời nói không đi đôi với việc làm, nên những khẩu hiệu mị dân trở nên vô nghĩa và phản cảm (như loa phường). Chính quyền ngày càng mất lòng dân, nên phải đối phó và nói dối. Lòng tin một khi đã mất rất khó lấy lại. Không phải chỉ có bên Trung Quốc mà ngay tại Việt Nam, nhiều đảng viên trung kiên đang bỏ đảng.
Ngộ nhận là một tai họa, có thể kéo dài quá trình chuyển đổi, thậm chí tụt hậu. Chuyển đổi là vấn đề sống còn đối với vận mênh đất nước, nhưng thay đổi quá ít và quá muộn (too little too late) có thể trở thành vô nghĩa, vì để mất cơ hội mới, hoặc đánh mất nốt lòng tin còn sót lại. 

NQD. 18/2/2016

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 18-2-16

Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2016

Dạy cho con tiếng nói thật thà …

Nguyễn Văn Tuấn


Sáng nay, tôi đọc được một bài viết hay của tác giả Nguyễn Văn Nghệ (*) về tình trạng dạy sử ở nước ta, mà trong đó tác giả có trích câu ca nổi tiếng của Trịnh Công Sơn: Dạy cho con tiếng nói thật thà. Ngày nay, chắc ít ai trong giới trẻ còn nhớ đến ca khúc “Gia tài của mẹ” này, vì có thời gian nó bị cấm [một cách vô lí]. Nhưng lời ca mà tác giả trích rất ư là thích hợp như một lời khuyên về dạy sử.
Tôi nhiều lần nhận xét là chương trình dạy sử (và văn học) hiện nay lẫn lộn giữa tuyên truyền và giáo dục. Chỉ cần lật vài trang sách giáo khoa sử bậc trung học, bất cứ của lớp nào, có thể thấy dễ dàng 3 đặc điểm chính là nội dung lệch lạc, dối trá, và một chiều.
Đặc điểm thứ nhất là nội dung quá lệch. Dành nhiều nội dung cho sử “cách mạng”: Tôi không có con số cụ thể về tất cả sách, nhưng chỉ đếm các câu hỏi trong đề thi tốt nghiệp tú tài, những nội dung liên quan đến cách mạng chiếm gần 65% tổng nội dung. Nhà văn Nguyên Ngọc nhận định rằng: “Nói trắng ra, hiện nay người ta chán ghét học văn ,học sử là vì dạy văn thì có thật sự dạy văn đâu, mà là dùng văn để dạy chính trị, chủ yếu để dạy chính trị… Sử cũng hoàn toàn như vậy, không hề khác” (1). Nhà văn Nguyên Ngọc cũng có nhận xét tương tự, ông nói rằng từ “tất cả các đề thi sử tốt nghiệp và thi vào đại học gần 40 năm nay đều chỉ hỏi về lịch sử Việt Nam từ sau năm 1930” (2). Tác giả Nguyễn Văn Nghệ nói thẳng sử hiện nay được dạy là “sử quốc doanh”.
Đặc điểm thứ hai là dối trá. Những sự kiện không có thật được đưa vào sách sử và bắt học sinh phải học. Vụ Lê Văn Tám là một ví dụ tiêu biểu; dù sử gia đã lên tiếng, nhưng vẫn không chịu chỉnh sửa. Những sự kiện lịch sử được viết lại chệch hướng so với sự thật, và đó cũng là dối trá. Tiến sĩ Phạm Quốc Sử đã nói: “Từ rất sớm, sử học và dạy học lịch sử nước ta đã được tiêm những liều ‘vắc xin’ để ngừa những tư tưởng trái chiều. Nhưng liều tiêm khá nặng, khiến cho đối tượng bị tê cứng, hết sinh khí.”
Đặc điểm thứ ba là thiếu khách quan. Ai cũng biết sử học là một môn khoa học xã hội, mà khoa học thì đòi hỏi tính khách quan. Nhưng sách sử hiện nay thì không khách quan, mà được soạn theo mô thức “ta thắng địch thua”. Ngoài ra, nội dung thì được soạn một cách tích cực về “phe thắng cuộc”, và bôi nhọ “phía bên kia” (dù phía bên kia cũng là đồng bào, anh em trong một nước). Một người trong cuộc, từng dạy sử ở đại học, là ông Hà Văn Thịnh nói: “Tôi nói thật với chị, lịch sử Việt Nam hiện đại chỉ có 30% sự thật, 70% giả dối. Đó là điều rất đau lòng. Ví dụ đánh nhau 30 năm với Pháp, Mỹ mà Việt Nam không thua trận nào là không thể chấp nhận được” (3).
Ông Hà Văn Tấn, một sử gia, nhận định rằng “Lịch sử là khách quan, sự kiện lịch sử là những sự thật được tồn tại độc lập ngoài í thức của chúng ta. […] Các nhà sử học chúng ta thường tự coi là mác xít nhưng bệnh thiên lệch lại hay dễ mắc. Mà thiên lệch cường điệu một cách phiến diện một mặt nào đó, lại là đặc trưng của chủ nghĩa duy tâm. Cũng chính vì vậy nhiều sự thật lịch sử đã bị bỏ qua” (4).
Do đó, có thể nói không ngoa rằng môn sử hiện nay không phải là sử học đúng nghĩa, mà nó là một sự tích hợp từ chính trị, tuyên truyền, và “tín sử” chỉ chiếm một phần nhỏ. Tôi muốn thêm rằng, các đặc điểm đề cập trên, chẳng những dạy sự dối trá cho cả mấy thế hệ người Việt, mà còn gây chia rẽ dân tộc một cách sâu sắc. Do đó, dù chiến tranh đã chấm dứt 40 năm, nhưng sự chia rẽ, thậm chí thù hận, vẫn tồn tại trong lòng dân tộc, và điều đó làm cho đất nước khó mà lớn và mạnh được. Ngày xưa, khi sáng tác ca khúc “Gia tài của mẹ”, có lẽ Trịnh Công Sơn không biết rằng những lời ca mang đậm tính nhân văn lại cũng là những lời khuyên về giáo dục rất hợp hiện nay:
Dạy cho con tiếng nói thật thà, 
mẹ mong con chớ quên màu da, 
con chớ quên màu da, nước Việt xưa. 
Mẹ mong trông con mau bước về nhà, 
mẹ mong con lũ con đường xa, 
ôi lũ con cùng cha, quên hận thù.
====
Ca khúc “Gia tài của mẹ” do chính Trịng Công Sơn trình bày:
https://www.youtube.com/watch?v=8sFOmBDl8lY
(1) http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2011/08/110808_history_students_comments.shtml
(2) http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/33607/khong-the-lan-lon-lich-su-voi-chinh-tri.html
(3) http://www.danchimviet.info/archives/8990/nha-s%E1%BB%AD-h%E1%BB%8Dc-ha-van-th%E1%BB%8Bnh-noi-v%E1%BB%81-hcm/2010/05
(4) GS. Hà Văn Tấn, Lịch sử, sự thật và sử học, đăng trên Tạp chí Tổ quốc tháng giêng năm 1988, In lại trong: Một số vấn đề lí luận sử học, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2007.
(*) http://www.viet-studies.info/NguyenVanNghe_MonHocLichSu.htm

Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2016

Luận về Tào Tháo

Tao Thao.jpg
Trích sách Nói Chuyện Tam Quốc
Tác giả: Vũ Tài Lục
“Car la force est juste quand elle est nécessaire”- Machiavel
“Dĩ dật đạo sử dân, tuy lao bất oán
Dĩ sinh đạo sát dân, tuy tử bất oán sát giả” – Mạnh Tử
Qua sách sử Trung Hoa, đời Bắc Tống đã có người ghi lại một đoạn bút ký nói rằng: “Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại thì khoái chí reo mừng”.
Đọan bút ký ấy cũng cho ta biết ngay cả trước khi tập Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, dân chúng đã có một nhận xét riêng của họ: Yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo.
Tâm lý yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo gây ra bởi hai nguyên nhân:
a) Quan niệm chính trị của người Đông Phương căn bản là sùng bái nhân nghĩa đạo đức, triệt để bài bác quyền thuật cơ mưu.
b) Chịu ảnh hưởng của bọn học phiệt có tư tưởng chính thống và đạo thống.
Như vậy thì bộ Tam quốc chí diễn nghĩa tuy phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng sự thực bộ tiểu thuyết này đã có một quá trình sáng tác của nhiều người. Ở Tam quốc chí diễn nghĩa ta còn thấy nhà văn La Quán Trung sử dụng đến mức tuyệt diệu nghệ thuật văn học để làm nổi bật hai bộ mặt thiện, ác tương phản của Tào và Lưu, cùng khơi sâu tâm lý yêu Bị ghét Tháo vẫn sẵn có từ trước.
Điểm này La Quán Trung có đáng trách hay không? Trả lời, bộ biên tập của nhà xuất bản Trung Quốc viết:
– “Tam quốc chí diễn nghĩa, khác hẳn với những sách viết về khoa học xã hội. Nhiệm vụ của nó không phải là trình bày bình luận hoặc phân tích một cách khách quan trên một số vấn đề lý trí, mà là dùng nghệ thuật sáng tạo để làm cảm động người đọc, trực tiếp đánh vào tình cảm người đọc”.
Đối với La Quán Trung thì tiểu thuyết viết Tào Tháo không phải là tạo ra nhân vật lịch sử Tào Tháo nguyên hình như cũ, mà là mượn nhân vật lịch sử để sáng tạo ra hình tượng nhân vật và tính cách điển hình rất phong phú phức tạp. Nói một cách khác, trong truyện viết Tào Tháo không phải chỉ là viết Tào Tháo thực trong lịch sử mà là viết ra rất nhiều Tào Tháo trong lịch sử. Chủ yếu của tiểu thuyết là sáng tạo ra một nhân vật điển hình để vạch rõ thói hung tàn nham hiểm của bọn thống trị phong kiến, để cho nhân dân quần chúng nhận thức được một cách cụ thể. Tức là đem tất cả những hình tượng tàn ác, bản chất xấu xa bỉ ổi của thống trị phong kiến tập trung lại, khái quát lên, sáng tạo ra cái nhân vật phản diện Tào Tháo. Phản ảnh như vậy so với cách trực tiếp bộc lộ càng sâu sắc hơn, so sánh với trực tiếp tố cáo, tư tưởng tính càng mạnh mẽ hơn, đó là một sự thống nhất hoàn chỉnh giữa tư tưởng và nghệ thuật tính rất cao vậy.
Về phần chúng ta bình luận về Tào Tháo, thì chúng ta bàn luận trên cơ sở nào?
Chúng ta sẽ trình bày, phân tích Tào Tháo trên một số vấn đề lý trí.
Do đó, việc cần thiết hàng đầu là một thái độ tuyệt đối khách quan, nghĩa là hãy tước bỏ đúng mức tâm lý yêu ghét bị tuyên nhiễm bởi Tam quốc chí diễn nghĩa.
Chính thống và đạo thống
Chính thống và đạo thống là bản chất chính trị và tư tưởng học thuật đạo đức của thời đại phong kiến.
– Chính thống là uy quyền do một tập đoàn chính trị muốn kéo thành xâu, thành chuỗi quyền thống trị của mình tạo ra. Quyền ấy kế tiếp theo nguyên tắc cha truyền con nối.
– Đạo thống là một thứ tư tưởng độc tôn, học thuật độc tôn. Khi một hệ thống tư tưởng nào đã bám được thế lực chính trị, nắm quyền thống trị, hoặc từ hệ thống tư tưởng thông qua đấu tranh mà nắm được chính quyền thì tư tưởng độc tôn, học thuật độc tôn sẽ chỉ chuyên dạy, chuyên khuyến dụ mọi người ủng hộ chính quyền chính thống.
Thời đại phong kiến, kẻ thống trị muốn củng cố địa vị của mình, chủ yếu thường dùng đến chính sách ngu dân vô cùng thâm độc. Chính sách ngu dân tuy biểu hiện ra bằng nhiều phương thức khác nhau, nhưng tóm lại chỉ là sự sử dụng, khai thác triệt để khả năng của đạo thống, khiến cho quần chúng rộng lớn không có dịp tiếp thu bất cứ một hiểu biết nào khác ngoài những điều mà bọn thống trị cho phép.
Tâm lý sùng thượng đạo đức, bài bác quyền thuật cơ mưu trong chính trị là tốt, vì nó mang tính chất tươi đẹp của tinh thần nhân văn. Nhưng nếu tinh thần nhân văn ấy bị lý luận đạo thống lợi dụng thì hóa dở.
Cho nên, muốn tước bỏ được mức tâm lý yêu ghét Lưu Tào, chúng ta không thể không chống cái nền móng của tâm lý ấy là những tư tưởng chính thống, đạo thống của bọn học phiệt tay sai chính quyền phong kiến.
Tào Tháo là con người thế nào?
Các nhà văn học Trung Quốc thường phân tích về thân phận Tôn Quyền là con nhà quý tộc, Lưu Bị là người kẻ chợ và Tào Tháo là dòng dõi môn phiệt. Sở dĩ Tào Tháo ở trong hàng ngũ môn phiệt bởi vì cha Tào Tháo là Tào Tung làm quan đến chức Thái Úy và Tháo nhờ thế lực của cha nên hai mươi tuổi đã được cử làm Hiếu Liêm.
Hiếu Liêm là một chức quan nắm quyền cai trị ở cấp bực trung bình của chính quyền địa phương. Chức Hiếu Liêm là sản phẩm của nền hành chính Hán Triều. Đời Hán Vũ Đế đặt ra lệ bắt các trưởng quan địa phương mỗi năm phải chọn và đề cử một người thanh liêm, hay một người con hiếu ra chấp chính.
Đặt ra chức này, Hán Vũ Đế muốn lấy Đức Hạnh dùng làm nền tảng cai trị. Ban đầu do sự thi hành đúng nên Hiếu Liêm cũng gây thành phong khí tốt, dư luận hay. Nhưng lần lần, Hiếu Liêm trở thành một thứ hàng độc quyền của các đại gia, mặt khác nó làm cản bước tiến của trí thức, trở thành đầu mối của tranh chấp Bình dân và Môn phiệt. Hiếu Liêm đã biến chất không còn như ý nguyện của Hán Vũ Đế muốn dùng nó làm chiếc cầu cảm thông giữa quần chúng với chính quyền nữa.
Tào Tháo nhận chức Hiếu Liêm, tất nhiên cũng sẽ bị trí thức bình dân và quần chúng nhìn bằng con mắt hằn học và cũng bị liệt vào hàng phe phái Môn phiệt.
Biết vậy, nên lúc tại chức Tào Tháo đã ra sức chống lại bọn cường hào, đả kích chính sách hoạn quan. Do đó lúc sang nhận chức ở Tế Nam, bị bọn cường hào cùng bè lũ tay sai hoạn quan oán hận, Tháo sợ gây nên tai họa lớn, bèn từ chức.
Lúc từ chức, Tào Tháo 30 tuổi, ông nói:
– “Cùng chức Hiếu Liêm với tôi có người 50 tuổi mà trông vẫn còn trẻ măng, tôi còn những 20 năm nữa mới bằng họ, vậy tội gì mà không tìm cách ẩn cư đợi thời”.
Tào Tháo lui về quê hương là Tiêu huyện, dựng một căn nhà thoáng đãng để đọc sách, giồng hoa, săn bắn. Thời gian này Tào Tháo đem hết tâm trí vào việc rèn luyện khả năng chính trị, quân sự.
Xem thế đủ biết, tuy xuất thân môn phiệt nhưng nhờ nhãn tuyến chính trị sắc bén, Tháo đã gột bỏ tâm chất môn phiệt để nhất định đứng vào hàng ngũ trí thức và quần chúng tiến bộ.
Về quan hệ Nam Nữ, Tam quốc chí diễn nghĩa cho rằng Tháo là một người dâm dục, bậy loạn bất cố đạo nghĩa. Tính chất đó được chứng minh bằng sự kiện Tháo ngủ với người thím Trương Tú khiến Tú nổi giận làm phản, nhờ Điển Vi hy sinh cứu Tháo và chết thay cho Tháo. Chuyện này chỉ là một câu chuyện gán ghép gượng gạo không lấy chi làm thật nhằm mục đích làm tăng giá trị điển hình cho một nhân vật tàn ác, gian hùng mà thôi.
Trong dân gian thì lưu truyền một sự tích tình ái của Tào Tháo trái hẳn với việc Trương Tú. Đó là chuyện nàng Lai Oanh Nhi. Đầu đuôi như sau:
– “Đời Hậu Hán, những ca sĩ đất Lạc Dương nổi tiếng là đẹp là hay. Trong số ấy, có nàng Lai Oanh Nhi vượt hẳn lên cả về tài lẫn sắc.
Tài sắc đã trội hơn người, tính nết nàng còn đặc biệt hơn nữa. Oanh Nhi rất kiêu ngạo. Biết bao Vương Tôn Công Tử hoài công theo đuổi mà Lai Oanh Nhi chưa từng để mắt đến người nào.
Tào Tháo rất tinh thông âm luật, lại là một nhà thơ tài tình, gặp giọng hát cùng nhan sắc Oanh Nhi rất lấy làm xứng ý. Bấy giờ Lạc Dương đại loạn nên Lai Oanh Nhi chịu nương nhờ bàn tay che chở của Tào Tháo, theo Tháo đi đánh Đông dẹp Bắc độ nhật nơi doanh trại. Oanh Nhi thường ca hát những bài thi, bài từ của Tào Tháo và các danh sĩ để Tào Tháo uống rượu hân thưởng. Đối với sinh hoạt lưu động, nàng vốn không ưa nên Oanh Nhi lúc nào cũng buồn. Tháo tuy chịu tài năng ưa nhan sắc nàng nhưng phần vì việc quân cơ bận bịu, phần vì quý sự nghiệp chính trị hơn nên Tháo ít khi gần gũi. Lai Oanh Nhi lại càng cảm thấy cô quạnh. Chẳng bao lâu, Oanh Nhi đem lòng yêu một chàng thị vệ, đêm đêm vẫn cùng nhau hò hẹn. Quan niệm tình ái của Tào Tháo rất rộng rãi, vả lại ca kỹ trong doanh trại nhiều nên mối tình giữa Lai Oanh Nhi với chàng thị vệ kia cũng gặp rất ít trở ngại. Nhưng một chuyện bất ngờ xảy đến, chàng thị vệ được lệnh sai đi thám thính đồn lương bên địch, chàng liền đến báo cho người yêu biết. Oanh Nhi thấy sứ mệnh có vẻ nguy hiểm nên nhất định không chịu rời tay.
Tào Tháo trị quân rất nghiêm, dĩ nhiên theo quân pháp thì bỏ trốn nhiệm vụ trong lúc tình thế nghiêm trọng, chàng thị vệ si tình bị phán quyết tử hình. Lai Oanh Nhi hay tin gào khóc và bất chấp cả mọi nguy hiểm chạy đến bên Tháo xin tha tội cho người yêu. Gặp Tào Tháo nàng cứ thực sự tâu bày mọi chuyện, khiến cho Tào Tháo hết sức ngạc nhiên. Trầm ngâm hồi lâu, Tháo nghĩ ra một biện pháp, đề nghị tha tội cho chàng thị vệ với điều kiện là Oanh Nhi phải chịu chết thay.
Không chút do dự, Oanh Nhi xin chịu, nàng còn yêu cầu một điều là hoãn ngày chết cho nàng hai tháng để nàng có đủ thì giờ huấn luyện các ca kỹ khác tất cả tài nghệ của mình để trả ơn Tháo.
Lời thỉnh cầu của Oanh Nhi cũng được chấp thuận. Nàng liền chọn bốn người xuất sắc nhất, ngày đêm tập dượt và sau cùng trong số bốn người, Oanh Nhi đã tạo hẳn ra một người khả dĩ thay thế cho mình hầu hạ Tào Tháo.
Làm xong nhiệm vụ, Oanh Nhi thản nhiên đến thụ tội.
Tào Tháo cảm thấy bâng khuâng vì không ngờ việc tình ái lại thâm sâu đến thế. Tháo bèn cho gọi chàng thị vệ, nói lại mối tình nồng nhiệt của Oanh Nhi đối với y. Tháo càng ngạc nhiên, khi thấy chính miệng tên thị vệ nói ra là y coi mối tình ấy chẳng khác nào chuyện qua đường. Nghe xong, Tào Tháo căm giận muốn chém phăng tên thị vệ cho rồi, nhưng nghĩ lại lời đã trót hứa với Oanh Nhi nên thôi. Đồng thời Tào Tháo cùng tỏ ý không muốn bắt Oanh Nhi phải chết thay nữa. Sợ Oanh Nhi biết mình bị xử tệ bạc còn đau khổ gấp bội, Tháo bèn sai đuổi tên thị vệ về quê quán. Oanh Nhi biết, nàng quyết sống thác với tình, khẩn khoản xin Tháo cho đi theo tình nhân. Cực chẳng đã Tháo đành phải chịu. Lúc tiễn đưa Oanh Nhi, Tào Tháo sụt sùi khóc.
Ít ngày sau, Tháo nhận được tin Lai Oanh Nhi tự thắt cổ chết. Sự tích Lai Oanh Nhi trong cuộc đời Tào Tháo cho chúng ta biết:
– a) Mặt sinh lý Tào Tháo rất tùy tiện và đã sửa soạn chu đáo để không đến nỗi phải bậy bạ với người đàn bà nạ dòng trong họ nhà Trương Tú.
– b) Mặt tình ái, tình cảm của Tào Tháo đòi hỏi đến một mức phong nhã khá cao.
Vậy mụ gái xề nhà Trương Tú không thể nào quyến rũ nổi Tháo phải hy sinh uy tín của Tháo đã tạo ra bằng bao nhiêu công phu, như thế đắt quá.
Gian thần thoán đoạt?
Hậu thế gán cho Tào Tháo hai chữ “gian tặc”. Lý do là Tào Tháo đã thoán đoạt ngôi nhà Hán. Dùng danh từ gian tặc để chỉ Tào Tháo hoàn toàn là lý luận của bọn chính thống đương thời và đời sau. Chống lại sự vu oan đó, chúng ta chưa cần viện dẫn nhiều mặt khác mà có thể đứng ngay trên lập trường chính thống cũng đủ biện bạch cho Tào Tháo.
Trước hết, suốt đời Tào Tháo nắm quyền thao túng quốc sự không hề có chuyện phế lập. Thế lực họ Tào không ai chối cãi là đã lấn át cả vua nhưng không phải là thoán đoạt, bởi vì:
a) Sau Hán Vũ Đế, Hoắc Quang làm đại thần phụ chính thì nội bộ chính quyền nhà Hán đã phân hóa giữa chính phủ và Hoàng thất, đưa dẫn tới xung đột rồi.
b) Đời Tháo thì Hoàng thất nhà Hán đã mất khả năng và uy tín thống trị. Đương nhiên, Tháo phải tận lực xử dụng quyền lực để ổn định quốc gia.
Với Tào Tháo, vấn đề thoán đoạt vô nghĩa và ông không coi việc ấy là tham vọng hay mục đích của đời ông.
Dẹp xong ba mươi vạn quân Khăn vàng, đánh tan Viên Thiệu, bình Viên Thuật, đả bại Lưu Biểu, Tháo nói:
– “Giả thử quốc gia mà không có tôi, thì còn biết bao kẻ xưng vương xưng đế.”
Suy ngẫm về lực lượng của mình, Tháo thường nói:
– “Mọi người thấy binh lực tôi mạnh, lại cho rằng tôi là người không tin thiên mệnh nên ngờ tôi có ý lật nhà Hán. Nhưng tôi nghĩ trái hẳn, tôi há không biết rằng Tấn văn Công xưa mạnh nhường ấy mà vẫn một lòng một dạ với nhà Chu, Chu Vương chiếm hai phần ba thiên hạ mà vẫn phụng sự nhà Ân hay sao?”
Sách sử ghi chép rằng:
– Bình nhật, Tào Tháo thường hay kể chuyện tình cố quốc của Nhạc Nghị với nước Yên, với vẻ mặt hết sức cung kính say sưa.
Tam quốc chí dựa vào quan điểm chính thống, diễn tả hành động thoán đoạt của Tào Tháo trên mấy sự việc quan trọng như:
1) Vụ săn bắn ở Hứa Điền.
2) Ngôn ngữ trong bài hịch kể tội của Trần Lâm.
3) Vụ bức tử Đổng Phi.
Dưới đây chúng ta hãy bàn cãi từng sự việc một.
Như chúng ta đã được biết, kể từ sau đời Hán Vũ Đế, chính quyền đã có sự phân tách giữa chính phủ và hoàng thất nhà Hán đã kém vế rồi, triều thần thuộc tập đoàn thống trị phe chính phủ vẫn thường lấn áp quyền Hoàng đế, ngược lại Hoàng thất luôn luôn tìm cách khôi phục quyền mình. Thậm chí để gây cánh, tin dùng cả bọn hoạn quan để mong tạo thế lực. Đến loạn kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ, mới đầu hoàng thất bị xâm phạm, sau cả chính phủ cũng bị khinh miệt. Do đó, đứng trước tai ách chung, triều thần và hoàng thất tạm gác bỏ xung đột, liên kết với nhau, vì sức không đủ nên phải cầu viện bên ngoài. Triều thần và vua chúa thỏa thuận mời Tháo. Tháo được Triều thần chọn bởi hai lẽ:
1) Lực lượng Tào gần Kinh đô nhất.
2) Tào Tháo cũng dòng dõi môn phiệt, chung quyền lợi với bách quan trong triều. Cả hoàng thất lẫn triều thần mơ hồ tưởng rằng lực lượng của Tháo là một lực lượng của chức viên thuộc hạ. Họ lầm vô cùng, lầm vì trí lực của họ không đạt tới mức Tháo. Tháo mạnh là vì ông biết gắn liền với lực lượng chính trị đang lên, chứ Tháo đâu có mạnh là vì dòng dõi môn phiệt, cho nên, việc về dẹp giặc của Tào Tháo đối tượng không chỉ riêng kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ; đối tượng còn khả năng đứng mũi chịu sào trong cơn đại biến động nữa. Lúc Lý Thôi Quách Dĩ thua chạy rồi triều thần mới ngã ngửa ra. Các quan muốn bảo vệ quyền lợi của mình liền thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế, để làm lập trường đấu tranh với Tào Tháo. Thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế rồi, triều thần liền phát động tâm lý căm phẫn, thương xót vua bị Tào Tháo ức chế như Tháo đã cả gan tế ngựa ra đứng trước mặt vua để nhận lời chúc mừng của Bách quan, khiến Quan Vân Trường giận, mày tầm dựng ngược mắt phượng giương to, cầm đao thúc ngựa định ra chém Tào Tháo.
Cuộc xung đột giữa triều thần với tập đoàn Tào Tháo lan rộng từ trung ương ra các địa phương. Trịnh Thượng Thư gửi thư cho Viên Thiệu khuyên Thiệu cất quân đánh Tào. Thiệu nghe và sai Trần Lâm thảo hịch đánh Tào. Lời hịch mang những lời chủ yếu như sau:
– Thường nghe rằng Minh chúa nhân nguy để chế biến, Trung thần lo nạn để lập công.
– Trước kia nhà Tần vua yếu, Triệu Cao lộng quyền hống hách trong triều, một tay tác oai, tác phúc.
– Tháo, nòi giống sót của Hoạn quan, gian xảo độc ác, thích gây ra sự biến loạn, vui mừng thấy sự tai vạ.
– Tháo vốn thân dê mà đội lốt hổ, nhưng lại thừa cơ mà bạo ác càn rỡ, tàn dân hại người lương thiện. Vì thế quan thái thú Cửu Giang là Biên Nhượng tài cán giỏi giang, thiên hạ biết tiếng, nói thẳng lòng ngay, không a xiểm ai, cũng bị nó hãm hại, đầu phải bêu, vợ con phải tàn sát. Từ đó sĩ phu ai cũng tức tối.
– Tháo dám rông rỡ làm càn, hiếp vua thiên đô, khinh nhờn nhà vua, nát phép loạn kỷ, ngồi giữ cả việc ba đài, chuyên chế triều chính, muốn thưởng ai thì thưởng, muốn giết ai thì giết, yêu ai thì người ấy sung sướng đến cả năm ngành, ghét ai thì người ấy phải chết cả ba họ. Ai bàn tán phải trái thì trị tội công khai, ai thầm vụng chê bai thì bị giết ngấm ngầm. vì thế trăm quan buộc miệng, đường xá đưa mắt nhìn nhau.
– Cho nên quan thái úy là Dương Bưu, từng giữ hai chức là Tư Không và Tư Đồ, nhất phẩm trong nước, Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn.
– Quan Nghi Lang là Triệu Ngạn, lời ngay nói thẳng có thể nghe theo, vì thế Vua nghe nói động lòng, thay đổi nét mặt, tỏ ý khen thưởng. Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét, vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn lấp đường nói năng của mọi người, tự tiện bắt Triệu Ngạn giết đi, mà không nói cho Vua biết.
Rõ ràng tinh thần bài hịch hoàn toàn đại biểu cho quyền lợi nhóm triều thần, còn quyền lợi vua, quyền lợi dân thì chỉ là phụ, phần trang trí cho bản hiệu triệu thêm chính nghĩa thôi.
Bên ngoài Viên Thiệu hiệu triệu đánh Tào, bên trong các triều thần tụ họp âm mưu lật Tào Tháo. Vì tổ chức Tháo chặt chẽ quá, nên hoạt động của đám triều thần chỉ thu hẹp vào việc giết Tháo. Sứ mệnh giết Tháo được giao phó cho danh y Cát Bình giả đến chữa bệnh, rồi tìm cách đầu độc, chuyện tính không xong, Cát Bình bị giết, bọn Vương tử Phục bị bắt cùng với cả nhà Đổng Thừa. Tháo sai đem ra chợ chém tất.
Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi đem gươm vào cung để giết Đổng quý Phi. Quý Phi là em gái của Đổng Thừa đã có mang 5 tháng. Hiến Đế xin cho Đổng Phi, nói: Đổng Phi đã có mang 5 tháng xin thừa tướng thương cho. Tháo không nghe. Đổng Phi khóc nói: Xin cho toàn vẹn thân thể mà chết, đừng để bộc lộ. Tháo sai đem tấm lụa trắng đến trước mặt Đổng Phi. Đổng Phi cứ van khóc mãi, Tháo liền quát võ sĩ lôi Đổng Phi ra thắt cổ ở cửa Cung.
Tam Quốc chí diễn nghĩa viết:
Đời sau có thơ than Đổng Phi rằng:
Ân ái đền xuân cũng uổng thôi
Trứng rồng tan vỡ đáng thương ôi
Đường đường Đế chủ sao không cứu
Tầm tã nhìn suông nước mắt trôi
Bọn chính thống dùng mọi cách bi thiết hóa để gợi tình cảm chống Tào trên vụ án chính trị Đổng Phi. Thảm cảnh ngụy tạo ấy chỉ tốt cho văn nghệ chứ không thể dùng làm căn cứ để phán xét công việc của một người có trách nhiệm với lịch sử. Bọn chính thống vì tôn phụng quyền lợi một tộc họ nên lấy cá nhân mà đại biểu cho đại cục. Đổng Phi dù có bị giết tàn nhẫn hơn thế nữa, lịch sử cũng không vì vậy mà bớt những vụ tương tự.
Chính trị không phải là một công việc êm ái, nhẹ nhàng như ta nhàn nhã hái bông hoa, vì chính trị vốn là mối mâu thuẫn xung đột ác liệt của xã hội. Làm chính trị là đối phó với những gì cường bạo, tham lam xảo quyệt. Nhà chính trị cỡ lớn phải biết ràng buộc vào sự an, nguy của thời thế, của đại cục. Giết Đổng Phi, Tào Tháo nói: “Nếu ta thất bại thì Quốc gia sẽ bước vào cục diện cực nguy hiểm”.
Một nhà chính trị nếu có đủ thế lực, đủ uy tín để nói câu đó mà không thấy tự ngượng, mà không bị người khác chối bỏ thì thiết tưởng thân phận cá nhân kiểu Đổng Phi chẳng là nghĩa lý gì hết. Không bắt giết bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa và Đổng Phi để bọn này liên lạc được với Viên Thiệu làm loạn thì xã hội sẽ ra sao? Bản thân Tháo sẽ ra sao?
Khi người ta, chẳng hiểu may hay là không may, phải sống vào lúc nhiễu nhương, xã hội hỗn loạn mà trách nhiệm xây dựng, bình định lại rơi vào chính tay mình thì đương nhiên không thể tránh khỏi tình trạng hành động tự do của kẻ này sẽ đe dọa đời sống của kẻ khác và tàn bạo phải nẩy sinh ra.
Thời đại và xã hội mà Tào Tháo sinh trưởng
Trải qua một thời gian khá dài, toàn bộ văn hóa Trung Quốc lấy dân tộc làm trung tâm, dựa thế lực của kinh tế và quân sự, đã phá tan những chướng ngại phong kiến, để đi sang thời đại thống nhất Trung Quốc. Ban đầu là nhà Tần, sau đến Lưu Bang giữ vai chính trên vũ đài hòa theo với các cuộc vận động của phần tử trí thức.
Thời kỳ trước Tam quốc và chính Tam quốc, công cuộc thống nhất chưa hoàn thành cho nên nhiệm vụ thống nhất càng nặng thì toàn bộ xã hội Trung Quốc đã rơi vào tình trạng cực rối loạn. Tuy nhiên, bánh xe lịch sử cũng không vì thế mà ngừng hướng về thống nhất. Chỉ có khác một điểm là: Lẽ ra chính quyền Trung ương lãnh đạo công cuộc thống nhất, nhưng vì Trung ương quá yếu nên việc thống nhất chuyển sang tay các thế lực lớn ở địa phương thôn tính những thế lực nhỏ để thống nhất từng mảnh trước, chờ đợi cuộc tranh chấp cuối cùng tiến tới thống nhất toàn bộ.
Xã hội rối loạn của Tam Quốc có thể khái quát bằng mấy điểm sau đây:
a) Thối nát, băng hoại đến nỗi mất hết khả năng giải quyết mọi vấn đề khẩn cấp của Quốc gia và bảo đảm những điều kiện sinh hoạt thường nhật của dân chúng.
b) Tâm lý oán ghét chế độ mỗi ngày mỗi tăng cao, quần chúng rộng lớn hầu như tuyệt vọng, họ sẵn sàng hy sinh để thay đổi số phận.
c) Mâu thuẫn, xung đột kịch liệt ngay trong nội bộ hàng ngũ thống trị, phe thống trị mất tin tưởng cả chính mình.
d) Xã hội khao khát một thế lực mới để dẹp loạn.
Tào Tháo sinh ra, lớn lên trong thời đại và xã hội kể trên. Tháo lại gánh trách nhiệm Quốc gia, để làm tròn trách nhiệm, tất nhiên Tào Tháo phải là hiện thân của một chính trị gia đại tài.
Từ ngàn xưa, nhân danh tư tưởng nhân văn, nhân danh văn minh loài người, nhân danh hạnh phúc hết thẩy đều đòi hỏi chính trị tuyệt đối phải là một hành động đạo đức. Danh từ đạo đức ở đây khuyên tròn trong hàm nghĩa tuyệt đối, không bạo động, không giết người, không đổ máu, không tù đày, không tranh chấp, không đàn áp. Thường thường nó biến ra tín điều mà những kể thống trị muốn nó tồn tại mãi có lợi cho họ. Đôi lúc, nó là cơ sở cho một lý thuyết không tưởng. Nhưng cũng không ai chối cãi được rằng: “Ở toàn bộ lịch sử, tranh chấp chính trị bao giờ cũng chỉ là những cuộc chiến tranh”. Phương pháp làm cho chính trị thành công với phương pháp dẫn chiến tranh đến thắng thắng lợi không khác gì nhau cả, nghĩa là phải có thế lực, có bản lĩnh để vận dụng vũ lực tiêu diệt kẻ thù, kẻ chống lại mình. Máu đổ nhiều hay ít, thanh toán nhau, tiêu diệt nhau tàn khốc hay không tàn khốc còn tùy ở những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử. Miễn là máu đổ người chết để thực hiện một con đường sống cho đa số, cho dân tộc, cho tiến bộ, cho thái bình. Đạo đức biến đổi theo sự đòi hỏi của chính trị. Tại sao nói thế? Trả lời, chúng ta hãy đặt thêm một câu hỏi nữa. Đạo đức là gì? Người đời xưa giảng rằng: “Đạo đức thị ứng thời chi vật dã” (Đạo đức là một vật để ứng phó với thời thế), ví như mùa nóng mặc áo vải, mùa rét mặc áo lông cừu. Nếu nóng bức mà mặc áo lông cừu, rét mướt mà mặc áo vải là trái ngược với thời. Đạo đức là nguồn gốc nguyên tắc của hành động vậy.
Đời loạn có đạo đức của đời loạn, nghĩa là nhất nhất mọi hành động phải có nguyên tắc mang hiệu lực ứng phó với tình thế loạn. Cho nên Đạo đức của con người chính trị không là gì khác ngoài những hành động chính xác.
Biết vận dụng nhân nghĩa để kiến tạo lực lượng.
Thâu thập được quyền uy rộng lớn để huy động quần chúng, tiêu diệt những ác thế lực.
Đủ mưu thuật để lãnh đạo đấu tranh đến thắng lợi.
Tóm lại Đạo đức tức là phẩm chất chính trị vậy.
Sự nghiệp Tào Tháo là sự nghiệp chính trị, vậy khi phê phán Tháo chúng ta không thể không đứng ra khỏi con người chính trị được.
Trước hết Tào Tháo có nhân nghĩa để vận dụng không?
Tào Tháo hàng ngàn năm nay vẫn bị hình dung như một kẻ bất nhân bất nghĩa. Lý do của nó chúng ta đã nói ở trên, thiết tưởng chẳng cần nhắc lại dài dòng.
Lưu Bị thường nói: “Nay khác ta như nước với lửa là Tào Tháo. Tháo cấp ta khoan, Tháo bạo ta nhân, Tháo dối ta thật”. Như vậy để nêu rõ tính cách hung dữ, tàn nhẫn trá ngụy của Tào Tháo. Ở Tam Quốc chí diễn nghĩa dưới ngòi bút của nhà văn La Quán Trung, nghệ thuật vẽ nên con người tàn ác còn được biểu hiện huy hoàng hơn. Trong tiểu thuyết dù là việc lớn, hoặc những chi tiết nhỏ, chỗ nào Tào Tháo cũng tỏ cái tính cách “Thà ta phụ người chớ để người phụ ta”. Lưu Bị thì chỗ nào cũng tỏ cái tác phong “Thà chết không làm điều phụ nghĩa”, tạo thành sự đối chiếu thật rõ rệt mạnh mẽ, đến nỗi cái tên Tào Tháo được dùng để xưng danh những kẻ gian hùng xấu xa. Tình cảnh Tào Tháo giống in tình cảnh Machiavel, nhà văn chính trị Ý đại Lợi của thế kỉ thứ 16, bị người đương thời phỉ báng là: “tục tĩu khốn nạn”. Tên Machiavel biến thành hình dung từ Machiavelique để chỉ những gì hung ác, tồi tệ, giảo quyệt.
Ta đừng lẫn tiểu thuyết với lịch sử, ta cũng không nên lẫn lịch sử gian tạo với lịch sử chân thực. Đó là điều căn bản trước khi bắt tay vào việc đi tìm tòi cái nhân nghĩa của Tào Tháo. Mạnh Tử nói: “Nghĩa là làm việc đúng mực” (nghĩa giả sự chi nghị dã).
Vậy muốn tìm hiểu việc nào có nghĩa hay không, đương nhiên phải xét việc ấy cho thật thấu đáo đã. Không thể phê phán với thái độ tự cho đã nhìn thấy sự vật trước khi có ánh sáng.
Xét cho thấu đáo ta sẽ thấy rằng: Ở địa vị và hoàn cảnh Tào Tháo, nhân nghĩa không thể là đem gạo phát chẩn như kiểu mấy đại gia quy Phật, không thể như Sái Ung quỳ khóc thây Đổng Trác, không thể như Nễ Hành đánh trống chửi bậy, không thể như bọn người bất tài ôm Hiến Đế mà than thở v.v…
Phạm vi và cơ sở nhân nghĩa của Tào Tháo rộng lớn hơn rất nhiều. Đó là sinh mệnh của hàng trăm vạn người, sự an ninh cho quốc gia, sự yên bình cho Xã hội sau bao tai biến tầy trời: Hoàng Cân, Đổng Trác, Lã Bố, Quách Dĩ, Lý Thôi. Đời sau vì bọn chính thống làm lạc hướng, đã quên mất cái nhân nghĩa to tát kia mà chỉ nghĩ đến mấy cá nhân tầm thường: Triệu Ngạn, Dương Bưu, Đổng Thừa, Đổng Phi, Hiến Đế, dùng làm căn cứ kết tội Tào Tháo bất nhân, bất nghĩa.
Nhưng đáng kể nhất vẫn là con người chính trị của Tào Tháo
Jean Jacques Rousseau viết:
– Chớ lầm tưởng rằng những nhà hiền triết đã biết rõ con người, trái lại họ còn rất mù mờ là khác, vì họ thường xét đoán con người qua những thành kiến của họ, nguy hơn nữa là không có một hạng người nào lại lắm thành kiến bằng những nhà hiền triết.
Vào thực tiễn, các hiền triết bao giờ cũng thất bại bởi vì thế giới của họ thuần những tư tưởng trừu tượng, những nguyên tắc thuần lý, những chân thiện mỹ tuyệt đối. Còn thế giới loài người, sinh hoạt xã hội thì khác hẳn.
Nước Cộng Hòa lý tưởng của Platon, Thành phố Thiên đường của Saint-Augustin và thiên quốc của Thomas Campenella đều chỉ là những giấc mộng, tương tự giấc mộng của vị lương y muốn tương lai y khoa sẽ vượt ngưỡng cửa Tử thần đến cõi bất diệt.
Thực tiễn là bản chất của chính trị.
Thực tiễn là kim chỉ nam của tất cả mọi hoạt động chính trị.
Ở chính trị chỉ có vấn đề lợi hại, thành công, thất bại, tồn tại và tiêu diệt. Muốn thành công, muốn tồn tại cần phải thủ đoạn mưu lược, biết tiến, biết thoái, phải có sức làm việc cần khổ, một nghị lực dồi dào.
Con người chính trị ví như vị kỹ sư sử dụng hết thẩy những gì cần thiết hữu ích để đạt tới kết quả.
Thời đại Tam Quốc, một mình Tào Tháo là xứng đáng đủ điều kiện cần thiết của một con người chính trị. Bên cạnh Tào Thào là Gia Cát Lượng. Nhưng ở Khổng Minh người ta vẫn thấy vơi vơi, phảng phất tựa hồ mộng tưởng thống nhất cho nước Ý của Dante mà chưa có lý luận của Machiavel bổ túc, chủ nghĩa Xã hội không tưởng của Saint-Simon, Kropotkine mà chưa có tư tưởng khoa học và tư tưởng thực tế đấu tranh. Tóm lại con người chính trị của Khổng Minh phải đứng bên cạnh con người chính trị Tào Tháo thì tính chất của chính trị thời đại Tam Quốc mới hiển hiện, mới thấy rõ chỗ kỳ diệu mà Thánh Thán đã phê phán.
Xem Tam Quốc chí diễn nghĩa, nghiên cứu Tam Quốc dù tùy theo tâm chất ta yêu hay ghét Tào Tháo, nhưng sâu kín trong lòng, chúng ta ai ai cũng thán phục Tào Tháo và công nhận Tào Tháo đã dạy được chúng ta nhiều điều hơn tất cả những nhân vật khác thuộc thời đại đó.
Tâm lý chính trị của Tào Tháo: hành động trước hết
Tam Quốc chí diễn nghĩa kể:
– Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến cả. Khi uống rượu được vài tuần, Doãn tự nhiên che mặt khóc hu hu.
Các quan giật mình hỏi rằng:
– Nay là ngày sinh nhật của quan Tư Đồ, sao Ngài lại khóc như vậy?
Doãn thưa rằng:
– Nay có phải là ngày sinh nhật của tôi đâu. Vì có một việc muốn nói với các vị nhưng sợ Đổng Trác sinh nghi, cho nên mượn cớ thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Đức Cao Hoàng ngày xưa đánh Tần diệt Sở, bao nhiêu công phu mới nên cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Đổng Trác. Tôi khóc là vì thế.
Các quan nghe nói cũng đều khóc cả.
Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng:
– Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, có khóc chết được thằng Đổng Trác không?
Doãn ngoảnh lại xem ai, người ấy là Kiêu Kỵ Hiệu Úy Tào Tháo. Doãn giận nói rằng:
– Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, nay người không biết nghĩ báo quốc lại nhăn răng ra mà cười à?
Tháo nói:
– Tôi cười, có phải cười gì đâu? Cười là cười các Quan, không biết nghĩ kế gì mà trừ thằng Đổng Trác. Tháo này tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt đầu thằng Trác, treo ở cửa chợ để tạ thiên hạ.
Doãn liền đứng dậy hỏi rằng:
– Mạnh Đức có kế gì tài thế?
Tháo nói:
– Tôi lâu nay sở dĩ khuất thân nhờ Đổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó đã hơi tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan Tư Đồ có con dao Thất bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen này vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Đổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì.
Ở thời loạn, mọi người không thể cứ ngồi “ca cẩm” mà mong thay đổi tình thế. Toàn bộ trí thức Kinh Đô họp ở nhà Vương Doãn với thái độ than vãn nhù nhờ đã làm nổi bật ngôi sao chính trị Tào Tháo ngay từ lúc bấy giờ, lúc Tháo chưa có một tư bản chính trị nào.
Tào Tháo cười bọn đó, cũng như nhà văn Gorki cười bọn trí thức: “Bọn họ, số đông đều biết, đều giỏi mơ tưởng một đời sống hạnh phúc cho nhân loại thiên vạn năm, nhưng lại không người nào tự hỏi mình có dám đứng lên xây dựng nó?”
Tào Tháo là người cơ trí, lại dám hành động, đương nhiên quyền lãnh đạo sau này phải lọt về tay Tháo. Mặc dầu những bước đầu thất bại. Giết không nổi Trác, Tháo phải bỏ trốn, rồi đi theo liên quân miền Đông lại gặp sự rụt rè của Viên Thiệu, Tháo dám một mình đuổi đánh quân Đổng Trác. Tuy thất bại, nhưng Tháo cũng mở mắt cho mọi người thấy rằng:
– Muốn cứu vãn một tình trạng thì không thể chỉ ngồi nhìn nhau bàn tán, than khóc, thề bồi, mà phải hành động rỏ máu và mồ hôi. Nói suông để tự an ủi, tự làm với nỗi bực bội sẽ làm cho người ta cứ nói suông mãi mãi. Cái cười của Tào Tháo muốn bảo cho bọn Vương Doãn, hãy quay lại tự vấn, tự xét cái thái độ ăn nhiều, uống nhiều và nói nhiều.
Không mập mờ
Một chính trị gia hay một tập đoàn chính trị phải kiến tạo lập trường rõ rệt. Nhà văn Chekow đã miêu tả sự thất bại qua nhân vật Gusev “lúc nào cũng bị dầy vò bởi ý tưởng mờ ảo mà hắn ta không định rõ là hắn muốn gì?”
Ở Tào Tháo, ngay từ khi bắt đầu hoạt động, Tào Tháo đã đặt mình vào một vị trí nhất định không chân nọ chân kia, chờ đợi như nhiều kẻ khác.
Việc mưu sát Đổng Trác hỏng, mặc dầu đã biện hộ cho khỏi bị nghi ngờ, nhưng chẳng dùng dằng, Tháo ra cửa mượn ngựa trốn thẳng một mạch. Trên sự việc là trốn để tránh họa cho thân, nhưng trên tâm lý Tháo quyết đối lập với Trác. Thoát rồi, Tháo liền thảo hịch đánh Trác, tờ hịch của Tháo được các trấn hưởng ứng, chư hầu hội tụ. Trác thua chạy về phía Tây. Viên Thiệu không đuổi, có ý muốn thỏa hiệp với Trác. Tháo nhất định phá việc đó nên mang một vạn quân cùng các bộ tướng suốt ngày đuổi theo đánh Đổng Trác.
Bình xong giặc Khăn Vàng vùng Từ, Duyện, Tháo được các triều thần gọi về dẹp loạn Lý Thôi-Quách Dĩ. Chủ kiến đã định, tới thành đô, lập tức Tháo quét sạch luôn cả bọn danh sĩ lỗi thời cùng toàn bộ tập đoàn thống trị cũ.
Với Tháo, trên phương diện thủ đoạn cơ mưu chính trị có thể mang những nét quanh co uẩn khúc, nhưng trên phương diện lập trường thì chỉ có một vạch thẳng. Bởi lẽ đó mà những người theo Tào Tháo tin ông ta hoàn toàn. Bởi đường lối chính trị minh bạch mà Tào Tháo tạo được một uy thế chính trị vững chắc.
Cứng rắn
Tào Tháo thường nói: “Thật là khôi hài nếu con người ta cũng giống như cây đàn, hễ hơi đụng tới thì nó kêu rên lên”. Chính trị với Tháo đòi hỏi sự tiêu diệt mọi tình cảm lòng thòng vô ích. Thương vay khóc mướn sẽ làm sét rỉ tâm não nhà chính trị.
Đúng thế, kẻ nhạy cảm thường vẫn là kẻ tự phản bội chính mình, cho nên nhà văn Andreev trong tập truyện ‘Bẩy kẻ bị chết treo” đã ca tụng thái độ kiên quyết của một nhà cách mạng qua nhân vật “Kẻ tử tù”:
– Ôi! Nếu mặt con người mà khóa được như cánh cửa lao thất, thì mặt người tù ấy tôi thấy bưng kín, lạnh lùng và bên ngoài còn cả chiếc khóa to lớn.
Bàn về công cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo
Như ta đã biết, xã hội Trung Quốc đương thời Tào Tháo mang nhiều mối xung đột quyết liệt:
– Xung đột nội bộ chính quyền trung ương.
– Xung đột giữa các chính quyền địa phương với chính quyền Trung ương,
– Xung đột giữa các lực lượng địa phương với nhau.
– Xung đột giữa hai cấp lãnh đạo cũ và giai cấp lãnh đạo đang lên, hay xung đột giữa phần tử trí thức bình dân và phần tử trí thức danh gia thế tộc.
– Xung đột giữa quần chúng rộng lớn với chế độ lại trị đang đi xuống của chính quyền triều Hán.
– Xung đột giữa khuynh hướng thống nhất và khuynh hướng chia cắt phong kiến.
Tóm lại, Trung Quốc lúc đó đang đi vào cơn khủng hoảng lớn trên chính trị, văn hóa và sinh hoạt, nói chung là khủng hoảng của Trật tự và Tiến bộ (l’ ordre et le progrès). Một đằng trật tự cũ đang ra sức phá hoại tiến bộ. Đằng khác, tiến bộ đang ra sức kiến tạo lực lượng mới để nhoi lên.
Trật tự và Tiến bộ là hai vấn đề cơ bản cho sự sinh tồn của một chế độ. Muốn giải quyết những xung đột trên thì vấn đề chủ yếu là vấn đề chính quyền, bởi vì quyền lực chính trị là chiếc chìa khóa cần thiết để khai thông các lối ngõ bị lấp bít. Quan niệm và học thuyết về chính quyền cũng là quan niệm và học thuyết của cuộc diễn tiến lịch sử. Học thuyết chính trị Đông Phương coi trọng quyền bính như thế nào?
Khổng Tử nói: “Không búa rìu làm sao đốn cây?”
Tuân Tử nói: “Tạo Phụ là người tài cưỡi xe, nay không có xe có ngựa thì lấy gì để tỏ cái tài năng của mình. Hậu Nghệ giỏi bắn, nay không có cung có tên thì lấy gì để tỏ cái giỏi của mình”.
Quỷ Cốc Tử nói: “Công việc muốn tốt là phải chế ngự được người chứ không để người chế ngự ta. Muốn chế ngự người, tất phải nắm được quyền, cho nên mới có câu đại trượng phu lấy quyền để mà sai khiến chúng nhân vậy”.
Quyền bính đối với chính trị cần thiết như chiếc búa với người tiều phu, hay nói khác đi, chính trị và quyền bính chẳng khác chi con Lang con Bối sống dựa vào nhau, con này rời ra con kia chết, con kia rời ra con này chết, chính trị và quyền bính mang tính chất cộng sinh (Symbiose).
– Quyền bính là gì?
Theo cổ nhân: “Quyền thị chúng lực chi yếu, cương chi cương, y chi lãnh”, nghĩa là quyền ví như đầu giềng của chiếc lưới, cổ của chiếc áo, chủ chốt của mọi lực lượng. Khi ta cầm vào cổ áo, ta sẽ mang chiếc áo dễ dàng, ta cầm được đầu giềng của lưới, ta sẽ điều khiển được chiếc lưới dễ dàng, nhẹ nhàng.
– Làm thế nào để có quyền?
– Đương nhiên phải tranh thủ để có chính quyền.
– Tào Tháo đã tranh đoạt chính quyền ra sao? Tư tưởng hậu thế sau khi bị chính thống hóa cũng như bị ảnh hưởng Tam Quốc chí diễn nghĩa đã khinh ghét Tào Tháo đều chú trọng và căn cứ vào cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo. Đó là tất cả vấn đề mà chúng ta sẽ bàn tới những dòng dưới đây.
– Tranh thủ chính quyền tự cổ xưa đến nay, từ Đông sang Tây đều có hai cách thức: “cách thức bạo động và cách thức không bạo động”. Xét trong lịch sử thì cách thức bạo động hay cách thức không bạo động đều mang nhiều hiện tượng khác nhau. Tỉ dụ: Nhượng quyền như Nghiêu Thuấn, thoán đoạt như Hồ Quý Ly, mưu sát như vụ Brutus, thông qua nghị hội như các cuộc giải tán nội các ở các nước Tây phương ngày nay, dùng chiến tranh xâm lược, chiến tranh giải phóng v.v… Những hiện tượng khác nhau ấy phải tùy theo những điều kiện, tình hình và tính chất của đấu tranh cao hay thấp của lịch sử mà phát hiện.
Cổ học Trung Quốc quan niệm về cả hai cách thức bạo động và không bạo động như sau:
a) Dùng đức.
b) Dùng Công.
c) Dùng Mưu.
d) Dùng Vũ.
Nhưng cổ nhân thường trọng lối khéo léo hòa bình dành chính quyền hơn là dùng lối bạo tàn để cưỡng đoạt.
– Dùng Đức là thế nào?
– Như vụ ông vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn vì thấy Thuấn được dân yêu chuộng.
– Dùng Công là thế nào?
– Như vua Vũ trị thủy để quy tụ lòng ngưỡng mộ của muôn dân.
– Dùng Mưu là thế nào?
– Như vua Thang đánh bại quân Kiệt, dùng Nữ Hoa và Khúc Nghịch làm tay sai để mê hoặc vua Kiệt mà che đậy mưu của mình.
– Dùng Vũ thì thế nào?
– Như Hán cao Tổ và Hạng Võ phát động chiến tranh chống Tần.
Chữ Vũ ở đây nên hiểu theo cái nghĩa bạo động ngược lại với bất bạo động. Còn nếu hiểu rộng lớn hơn thì trong Vũ cũng phải có đủ cả Đức, Công, Mưu thì mới quyết thắng được. Hơn nữa xét cho cùng, mọi nút chuyển trọng đại của lịch sử chưa hề có lần nào được giải quyết mà không xảy ra bạo động, như Lénine đã viết:
La violence est’ accoucheuse de toute vieille societe grosse d’ une societe nouvelle, l’ instrument à l’ aide duquel le mouvement social se fait place et brise les formes politiques mortes et figées.
(Bạo lực là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới, là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết.)
Bạo động hay không bạo động đều tùy thuộc những điều kiện, tình hình, tính chất lịch sử, vì vậy ta không thể kết tội bạo động cũng như nhất định không bạo động. Không bạo động từ bao giờ đến giờ vẫn chỉ là một ước mơ chứ chưa thành một quy luật. Chẳng phải bất cứ thời thế nào cũng cho phép nhà chính trị dùng Đức, dùng Công.
Phê phán Tào Tháo, có người viết:
– “Sinh hoạt chính trị của Tào Tháo gồm trước sau hơn bốn mươi năm thì đã quá 30 năm Tào Tháo ngụp lặn trong chiến tranh”.
Lời phê phán trên đây cho chúng ta thấy cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo là cuộc tranh đoạt bằng vũ lực, lấy chiến tranh giải quyết vấn đề.
Trở ngược lại từ loạn Khăn Vàng, Hoạn quan, Ngoại thích đến Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ ta thấy gì?
Hết thẩy chỉ là những âm mưu tranh ngôi, đoạt vị của những thế lực chống đối nhau của cùng một “gia thuộc” của trật tự cũ. Do đó ta không thể gọi đấy là những cuộc đấu tranh giành chính quyền được, vì bản chất các tranh giành ấy không đặt trên nền tảng chính quyền. Bởi thế cho nên ta mới thấy những hiện tượng rất khôi hài mà Tam Quốc Chí diễn nghĩa thuật lại như:
Hà Hậu nói:
– “Chúng mày đừng lo, ta sẽ bảo hộ cho”. Bèn giáng chỉ triệu Hà Tiến vào cung khẽ bảo rằng: “Anh em ta hàn vi từ thuở nhỏ, nếu không có bọn Trương Nhượng sao có phú quý ngày nay? Nay thằng Kiển Thạc bất nhân đã bị giết rồi, sao anh còn tin lời người ta nói mà toan giết cả bọn hoạn quan?”
Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê thấy phe Đổng thái Hậu thất bại, bèn đem vàng ngọc đút lót em trai Hà Tiến là Hà Miên và mẹ Tiến là Vũ dương Quân nhờ vào nói khéo với Hà thái Hậu che chở cho. Bởi vậy mười tên Thường thị lại được tin dùng.
………………………………………………
Trác hỏi Ngu Phu rằng:
Ai xui mày làm phản?
Phu trợn mắt thét mắng:
– Mày không phải là vua tao, tao không phải là tôi mày, sao gọi là phản được. Tội mày đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết mày. Tao tiếc rằng không xé nhỏ được xác mày ra để tạ thiên hạ.
Trác tức lắm, sai đem Ngu Phu ra mổ. Phu cứ mắng chửi Đổng Trác đến lúc chết.
Hiến Đế khóc nói:
– Trẫm bị hai thằng giặc ấy khinh nhờn đã lâu. Nếu giết được thì may lắm.
Bưu tâu rằng: “Tôi có một mẹo, trước làm cho hai đứa tự tàn hại lẫn nhau rồi sau mới vời Tào Tháo đem binh vào giết, quét sạch lũ giặc để yên triều đình”.
Hiến Đế hỏi: “Kế ấy là kế gì?”
Bưu tâu: “Tôi nghe vợ Quách Dĩ rất hay ghen, sai người đi lại với vợ nó, dùng kế phản gián, hai thằng giặc tất giết lẫn nhau”.
Vua liền hạ chiếu phong Lý Thôi làm Đại tư Mã. Thôi mừng nói rằng: “Phúc này thật là thần thánh giáng cho ta. Lạy thánh vạn lạy, có cầu cúng Ngài cũng có hơn”.
Lý Nhạc và Hàn Tiêm lại có hơn hai trăm đầy tớ bộ hạ, nào thầy cúng nào thầy thuốc. Hai đứa tâu cho làm Hiệu úy Ngự sử cả. Khắc ấn không kịp, lấy dùi vạch gỗ ra làm ấn chẳng ra thể thống gì cả nữa.
Nền tảng chính quyền là gì?
Nhiều người vẫn quan niệm chính quyền qua những yếu tố “nổi” mà sơ sót những yếu tố “chìm”, chẳng hạn như nhìn thấy ở chính quyền những yếu tố: vũ lực, tổ chức cai trị, căn cứ địa, tổ chức kỹ thuật, tiền bạc mà không nhìn thấy sự tiến bộ của xã hội, uy thế chính trị, uy thế xã hội và tư tưởng nhân sinh. Nhà triết học Aristote viết: “Người là một động vật chính trị”. Sở dĩ người là một động vật chính trị là vì người biết quây quần kết tụ thành từng tập đoàn, các tập đoàn lại kết tụ lại thành xã hội và cứ phát triển rộng lớn không ngừng.
Xã hội càng rộng lớn thì tính cách kết tụ càng phức tạp, trong đó những tập đoàn kết tụ qua kinh tế, qua học thuật, qua tôn giáo v.v…
Các tập đoàn ấy do sự cần thiết của tiến bộ, phát triển và sinh tồn nên có hai bộ mặt sinh hoạt trái ngược hẳn: Một mặt liên hợp sống chung và một mặt đấu tranh lẫn nhau. Hai bộ mặt sống chung và đấu tranh cần phải có một sự điều chỉnh, nếu không xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, cướp bóc, hà hiếp. Nhu yếu điều chỉnh chế tạo ra chính quyền. Như vậy, nhiệm vụ hàng đầu của chính quyền là phải kiến lập được trật tự vững chắc. Muốn kiến lập được trật tự vững chắc, chính quyền cần nắm đủ yếu tố: vũ lực, tổ chức cai trị, căn cứ địa, tổ chức kỹ thuật, tiền bạc v.v… Những yếu tố này kể làm những phương tiện để thực hiện trật tự. Nhưng ta không được quên rằng xã hội luôn luôn chuyển hình, tiến bộ, lẽ đương nhiên chính quyền cũng phải mang nhiệm vụ thỏa mãn nhu yếu tiến bộ của xã hội, nếu chính quyền và trật tự đi thụt lùi so với nhu yếu tiến bộ, chẳng chóng thì chày chính quyền và trật tự sẽ bị tiến bộ quật ngã để rồi chế tạo một trật tự mới hơn, tiến bộ hơn. Cho nên muốn thỏa mãn nhu yếu tiến bộ của xã hội, chính quyền tự nó có sẵn sàng uy thế chính trị, uy thế xã hội, uy thế tư tưởng, nghĩa là lãnh đạo được sự chuyển hình tiến bộ của xã hội trên các mặt. Vậy ta có thể nói gọn lại rằng: Chính quyền mang hai nhiệm vụ:
1) Giữ gìn trật tự
2) Thúc đẩy tiến bộ
Ngày nào mà trật tự và tiến bộ không đi đôi được với nhau nữa, phát sinh khủng hoảng, ngày đó xã hội rơi vào tình trạng loạn, tranh chấp.
Trung Quốc đến cuối Đông Hán thì xã hội bắt đầu một thời kỳ phân loạn dài; Trật tự, tiến bộ, kinh tế, tư tưởng v.v… hoàn toàn bị xáo trộn.
Vương quyền tập trung nay trở thành một hệ thống thế lực cho ít người. Chính quyền bị lũng đoạn, tiền bạc nhân lực bị coi là phương tiện xa xỉ, dâm dật. Liêm sỉ theo đó mà tiêu tán. Trong bức thư Lý Lăng gửi Tô Vũ, sách thế truyền có chép: Bọn quan lại phá hoại được phong làm Vạn hộ Hầu, bọn thân thích tham nịnh được phong làm Lang tể miếu.
Lúc thế lực bọn hoạn quan, ngoại thích phát triển, đạo đức càng đi xuống.
Những câu đồng dao như:
Trực như huyền, tử đạo biên
Khúc như câu, phản phong hầu
(Thẳng thắn chết đường, luồn cúi tước vị)
Cử tú tài, bất tri thư
Cử hiếu liêm, phụ biệt cư
Hàn tố thanh bạch, trọc như nê.
Cao đệ lương tướng, khiếp như kê
(Tú tài không biết chữ, hiếu liêm đánh đuổi bố, nghèo nàn thanh bạch bị khinh miệt, quan cao tướng giỏi nhát như gà). Đạo đức sa đọa không chỉ ở trên lĩnh vực kinh tế. Nguy hại hơn, nó còn hoành hành cả trên lãnh vực giáo dục, giảng học, khiến cho mọi giá trị càng điên đảo. Đó mới kể về phương diện đạo đức, còn phương diện sinh sống thế nào?
Đi đánh giặc, Tào Tháo có hai câu thơ ngũ ngôn:
Thiên lý vô kê minh
Sinh dân bách di nhất.
(Hàng vạn dặm không thấy tiếng gà gáy, dân cư lèo tèo thưa thớt)
Vương Sán cũng có hai câu:
Xuất môn vô sở kiến.
Bạch cốt tễ bình nguyên.
(Ra cửa chẳng trông thấy gì ngoài xương trắng ngổn ngang ngoài đồng) để tả thảm cảnh bấy giờ.
Bởi tại đâu mà nên nông nỗi?
Kể từ lúc Hán triều suy nhược, kinh qua ngoại thích chuyên chính, xã hội chịu nhiều tai họa, nào: nước lụt, hạn hán, đến loạn Tây Khương, đến hoạn quan loạn triều chính. Bọn hào môn ngoại thích, hoạn quan và bọn địa chủ liên kết, trong khi giai tầng trung sản bị phá sản. Giầu nghèo mỗi ngày mỗi xa cách, hận thù, số nô tỳ mỗi ngày mỗi gia tăng. Phản loạn bắt đầu. Hán triều mấy lần ban chiếu, có những đoạn nhận tội như: “Bây giờ quý thích cận thần xa xỉ phóng túng vô độ” hay “người sống mất hết tư nghiệp, người chết phơi thây giữa đường”. Mấy chiếu thư xuống làm sao biến đổi được cục diện thối nát, cho nên xã hội càng ngày càng ác họa. Sử gia Trọng Trường Thống ghi nhận:
– Nhà bọn hào có hàng trăm nóc, ruộng tốt khắp nơi, nô tỳ thì ngàn người, xe ngựa chạy bốn phương, hàng hóa châu báu vô số, thê thiếp tính cả trăm. Dưới bàn tay tham ô của bọn hào môn, nguòi dân cày đói khổ, phần tử trí thức cơ cực. Trọng Trường Thống kết luận với câu: “Tám phương đê vỡ, trên dưới rữa nát như cá thối” để nói cái kết quả chính trị chuyên chính của bọn hoạn quan, ngoại thích. Xã hội hỗn loạn ấy, tất nhiên khắp thiên hạ mong mỏi một chính quyền với khả năng tái lập trật tự mà không ngăn chặn tiến bộ. Xã hội Đông Hán chẳng khác nào chuồng ngựa Augias, kẻ nào dọn nó cần có sức mạnh của Hercule. Người xung phong cáng đáng công việc là Tào Tháo cùng tập đoàn của ông, rồi đến Tôn Sách, Tôn Quyền bên Đông Ngô và sau nữa đến Khổng Minh, Tưởng Uyển, Khương Duy bên Tây Thục.
Vấn đề chiếm đoạt chính quyền có hai điều chủ yếu: Chiếm và giữ.
Hai điều chủ yếu ấy, đòi hỏi lực lượng chính trị hai khả năng:
a) Khả năng tác chiến chiếm đoạt
b) Khả năng điều khiển trật tự trên một hoàn cảnh mới, hay nói khác đi là củng cố chính quyền sau cơn đại biến động.
Ta hãy nói đến khả năng “Chiếm và phát triển chính quyền” của Tào Tháo. Trước khi đem quân về Kinh đô, sinh hoạt chính trị của Tào Tháo thiên về khuynh hướng âm mưu đầy tính chất phiêu lưu. Tam Quốc Chí diễn nghĩa cho chúng ta biết các việc:
1) Đứng về phe Hà Tiến chống thế lực hoạn quan. Hai lần bầy mưu can gián Hà Tiến đều bị Tiến mắng đuổi.
2) Liên kết với đám triều thần định hành thích Đổng Trác.
3) Dựa vào thế lực Viên Thiệu, thành lập liên quân miền Đông đánh lực lượng Tây Lương.
Tất cả các hoạt động phiêu lưu trên chỉ đem lại cho Tào Tháo sự thất bại ê chề, sự nhục nhã. Tháo tỉnh ngộ và quyết tâm đi vào con đường lớn, không chạy theo những âm mưu vặt nữa. Tháo đã hiểu rằng: Lịch sử không phải là kết quả của may rủi, làm lịch sử, làm chính trị nếu không nghiên cứu để nhận thức đúng bản chất xã hội, bản chất xung đột thì suốt đời sống bám, suốt đời không nhảy vào địa vị lãnh đạo được. Chính quyền không phải là ngôi thứ cá nhân. Chính quyền là mục tiêu cao nhất cho tất cả mọi hoạt động chuyển vận lịch sử. Muốn có chính quyền thì phải có kế hoạch, phương pháp tranh thủ đúng, bởi vì chính quyền là kết quả đường lối chính trị đúng đắn, chính xác. Quyền lực chính trị không phải là một vật mà trong một lúc, đêm này qua sáng hôm sau là có đầy đủ cả. Nó tiến từ sơ khởi đến kết cục, từ không đến có, từ vai phụ tiến lên vai chính, từ cục bộ tiến đến toàn bộ. Nghĩa là nó phải trải qua một thời kỳ sửa soạn, xây dựng bảo vệ, nuôi dưỡng, trưởng thành.
Cơ hội đầu tiên đến với Tào Tháo trên con đường lớn là việc Chu Tuấn tiến cử Tào Tháo (lúc ấy đang làm Thái thú Đông Quận) với Lý Thôi, Quách Dĩ cho đi dẹp giặc Khăn Vàng ở vùng Thanh Châu, Tháo đã biết biến cơ hội đó thành một lợi thế, tạo thành cái vốn chính to tát cho mình. Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể như sau:
“Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm hôm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Đông Quận, sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc. Tháo vâng chiếu chỉ họp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương. Pháo Tín đi vào đất giặc, bị giặc giết chết. Còn Tào Tháo đuổi giặc đến tận Tế Bắc, giặc quy hàng tới vài vạn người. Tháo lại dùng ngay giặc làm tiền khu, quân đi đến đâu, giặc hàng đến đấy. Mới được hơn một trăm ngày, chiêu an được hơn bốn mươi vạn quân hàng. Vừa đàn ông, đàn bà kéo lại theo Tháo hơn một triệu người. Tháo tuyển lấy những quân tinh nhuệ, đặt riêng một cánh quân gọi là binh Thanh Châu, còn bao nhiêu đuổi về cho làm ruộng. Từ đó uy danh Tào Tháo mỗi ngày mỗi lừng lẫy. Tiếng đồn về đến tận kinh, triều đình phong cho Tháo làm Chấn Đông tướng quân.”
Nhưng con đường lớn mà Tào Tháo theo đuổi đâu phải là cái chức Chấn Đông tướng quân. Chẳng qua chức đó chỉ là cái bàn đạp cho Tào Tháo tiến quân về kinh đô Lạc Dương. Chủ ý Tào Tháo đã định, tuy nhiên muốn thực hiện việc nắm trọn chính quyền thì việc cần thiết là làm sao kiến tạo nhanh chóng một tổ chức lãnh đạo thay thế cho toàn bộ tổ chức lãnh đạo cũ. Kinh nghiệm Đổng Trác, Vương Doãn, Lý Thôi, Quách Dĩ còn sờ sờ ra đấy. Cho nên sau khi nhận chức Chấn Đông tướng quân, Tháo liền tiến hành gấp việc chiêu mộ các người tài năng trong thiên hạ, quy tụ đại bộ phận phần tử trí thức với phương châm: “Hiền tại vị, năng tại chức”, tuy nhiên chiếu theo nhu cầu thực tiễn nên điều kiện mà Tháo chú trọng là tài năng.
– “Tào Tháo ở Duyệt Châu chiêu mộ thu dùng những người hiền sĩ. Ở làng Dĩnh Ầm châu Dĩnh, có một nhà hai chú cháu cùng đi theo Tháo. Người chú họ Tuân tên Úc, tên chữ là Văn Nhược, nguyên là con Tuân Côn. Úc trước đã theo Viên Thiệu, nay bỏ Thiệu theo Tháo. Tháo cùng Úc nói chuyện xong rồi nói rằng:” Người nầy là Tử Phòng của ta đây”, rồi cho làm Hành quân Tư Mã.
Người cháu tên là Tuân Du, tên chữ là Công Đạt, trước đã làm Hoàng môn Thị Lang. Sau bỏ quan về làng, nay theo chú sang với Tào Tháo, (được?) cho làm Hành Quân Giáo thụ.
Tuân Du lại nói với Tào Tháo rằng:
– “Tôi nghe ở Duyệt châu có một người hiền sĩ vốn ở Đông An, họ Trình tên Dục, tên chữ Trọng Đức, nhưng không biết bây giờ ở đâu. Người ấy Chúa công nên dùng.
Tháo nói: “Tôi biết tiếng Trình Dục đã lâu”
Nói rồi sai ngay người về tận Đông An để hỏi cho được, thấy họ bảo rằng: “Trình Dục đang ở trong núi đọc sách, Tháo cho mời ra. Trình Dục đến bái kiến, Tháo mừng lắm.
Dục lại bảo với Tuân Úc rằng:
– “Tôi là người quê kệch học hành chưa được mấy, không xứng đáng với sự tiến cử của ông. Nay tôi biết có một người cùng làng với ông tên là Quách Gia, tên chữ là Phụng Hiếu, thực là hiền sĩ đời nay, sao ông không triệu ra”.
Úc sực nhớ đến nói rằng: “Suýt nữa tôi quên người ấy”.
Úc nói chuyện ngay với Tào Tháo. Tháo cho mời Quách Gia. Gia đến Duyệt châu bàn việc thiên hạ với Tào Tháo, rồi lại tiến Tháo một người nữa dòng dõi vua Quang Vũ, người ở Thành Đức họ Lưu tên Hoa chữ là Tử Dương. Tháo cho mời Hoa đến, Hoa lại tiến cử hai người nữa, một người ở Sương ấp họ Mãn tên Sủng, tên chữ là Bá Ninh, người nữa ở Vũ Thành họ Lã tên Kiền, tên chữ là Tử Khác. Tháo cũng biết tiếng hai người ấy, cho nên đặt ngay cho làm Trung Tùng Quân Sư.
Được ít bữa lại có một tướng nữa đem vài trăm quân mã lại xin theo với Tào Tháo, người ở Cự bình tên là Vu Cấm, tên chữ là Văn Tắc. Tháo thấy người ấy cung mã giỏi, võ nghệ hơn người, cho làm Điểm quân Tư Mã.
Một hôm Hạ Hầu Đôn lại dắt một người cực lớn lại ra mắt Tào Tháo. Tháo hỏi ai, Đôn thưa rằng:
– “Người này ở Trần Lưu, họ Điển tên Vi. Sức khỏe không ai địch nổi. Trước Vi đã theo Trương Mạc, sau nhân có việc bất hòa với đầy tớ Mạc, giết vài người rồi trốn vào núi ở. Tôi đi săn gặp Điển Vi đang đuổi hổ nhảy qua suối, nay tôi đem về đây dâng chúa công.
Tháo nói: Ta xem người này tướng mạo khôi ngô, tất người thực khỏe.
Đôn lại nói: “Điển Vi từng báo thù cho bạn, giết người xách đầu ra chợ, hàng mấy trăm người không dám đến gần. Y sử dụng hai ngọn kích sắt, nặng tám mươi cân cắp ngồi trên ngựa, vung múa nhẹ như bay.
Tào Tháo lập tức sai Điển Vi ra thử kích.
Vi cắp đôi kích lên ngựa đi lại nhẹ nhàng như bay.
Bỗng bấy giờ có cơn gió to, lá cờ lớn trồng dưới trướng lung lay sắp đổ. Quân sĩ xúm xít lại ôm giữ không nổi.
Điển Vi thấy vậy, từ trên ngựa nhẩy xuống quát to một tiếng đuổi quân sĩ lui ra, rồi một tay nắm chắc lấy, cột cờ đứng im phăng phắc giữa luồng gió.
Tháo thấy thế mừng lắm nói rằng:
Người này thực là Ác Lai ngày xưa đây.
Liền cho làm trướng tiền đô úy, cởi ngay áo đang mặc, thêm một con ngựa cực tốt và một bộ yên chạm đem cho Điển Vi.
Từ bấy giờ bộ hạ Tào Tháo, văn có người tài, vũ có tướng giỏi, uy danh lừng lẫy cả Sơn Đông.
Hàng mấy ngàn năm trước, Quản Trọng nói: Anh hùng giả, quốc chi cán, thứ dân giả, quốc chi bản. Đắc kỳ cán, thâu kỳ bản, tắc chính hành nhi vô oán hĩ (những anh hùng là cốt cán của một nước, dân chúng là gốc rễ của một nước. Dùng được cốt cán của một nước, thu phục được gốc rễ thì việc thi hành chính sự không bị oán hận).
Ngày nay chính trị gia Tây Phương cũng nói: Ce qu’un véritable chef doit faire ce sont non des actes, mais des hommes, des hommes qui le prolongent dans l’ espace et dans le temps (lãnh tụ tài giỏi không phải chỉ biết hành động thôi mà còn phải biết dùng người, thu phục người bởi vì chỉ có người mới khiến cho vị lãnh tụ có mặt ở bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào).
Hai danh ngôn kim cổ chứng minh tài năng chính trị của Tào Tháo hành động tại Duyên Châu.
Bây giờ ta bàn đến khả năng giữ và củng cố chính quyền của Tào Tháo.
Làm chính trị có hai điều tối kỵ là ngắn hơi và dềnh dàng. Trong sự nghiệp chính trị: “Đáng kể nhất không phải là sự bắt đầu mà là sự làm đến cùng”. Dẹp loạn bắt đầu xây dựng lực lượng, rồi tạo uy thế, rồi nắm quyền chính chưa đủ, còn cần củng cố vững vàng, phát triển trật tự mới, thúc đẩy tiến bộ. Triều Chính Đông Hán đổ nát, tập đoàn Khăn Vàng dấy lên, rồi Đổng Trác, Vương Doãn, Viên Thiệu, đến Lý Thôi, Quách Dĩ thay nhau nắm quyền chính, nhưng tất cả không giữ nổi chính quyền củng cố và phát triển. Tất cả đều quan niệm chính quyền như một thế lực, một phương tiện để hưởng thụ, do đó hành động của cả bọn rất ngắn hơi, nghĩa là không biết hướng nào để làm đến cùng. Riêng Viên Thiệu thường mắc phải cái bệnh dềnh dàng, kéo dài sự việc lê thê chẳng dứt khoát bề nào bao giờ. Tào Tháo trái lại, ông cưa mạch nào đứt mạch ấy, liên hợp hay đấu tranh đối với Tháo chỉ là những thủ đoạn, để thực hiện đến cùng cho một đường lối chính trị mà Tháo cùng tập đoàn của ông quyết định theo đuổi. Kéo quân về Lạc Dương dẹp loạn, Tháo không phí bao hơi sức mà đã loại ra dễ dàng lực lượng chính trị quan trọng bấy giờ là phe cánh Đổng Trác. Nhưng trước mắt Tháo đã hiểu ngay ra kẻ địch đáng sợ trên quân sự là lực lượng Viên Thiệu, và trên chính trị là các vấn đề thuộc nội bộ. Tào Thào cũng nhìn thấy ngay nhược điểm của chính mình. Tháo bèn thực hiện ngay phương châm của Tôn Tử: “Trước hãy tìm cái thế không thể bại được”. Nên Tháo nghe ngay lời Đổng Chiêu, thiên Triều đình về Hứa Đô để phòng mọi bất trắc. Ở Hứa Đô, Tháo đưa công tác chỉnh đốn nội bộ lên hàng đầu về mặt kiến thiết. Xây dựng sửa sang nhà cửa, cung miếu, lập kho tàng. Về mặt văn học: lập nền tảng giáo dục mới. Về mặt hành chính: định lại các quan tước phẩm vị, tạm thời dùng đám triều thần cũ và cài răng lược những người mới để chuẩn bị thay thế dần dần. Về mặt xã hội: Tháo đề ra ba phương châm: Trừ gian- Cấm dâm- Trừng tham. Về mặt kinh tế: kiểm soát và định lại thể thức tô thuế đất ruộng.
Làm cho người sợ gọi là uy, làm cho người chịu gọi là thế. Hợp cả uy lẫn thế lại tức là lực lượng vậy. Có quyền mà không có lực thì quyền rỗng, có lực mà không có quyền thì lực hẫng. Uy với thế cũng vậy. Uy là thể mà thế là dụng. Có uy không có thế cũng vậy. Giống như hổ về bình nguyên làm kẻ thất thế, đã thất thế thì lấy gì để bồi đắp uy cho lớn rộng. Cho nên Tào Tháo lúc nào cũng lo kiến lập uy thế. Hễ cứ mỗi hành động ra uy, ông lại dựa ngay vào đấy để phát triển thế.
Đánh giặc Khăn Vàng ở Duyên Châu là lập uy. Chiêu mộ hiền sĩ là tạo thế. Rút gươm chém Trương Liêu là lập uy, nghe lời Lưu Bị, Quan Vũ tha Trương Liêu, khiến Liêu cảm phục là tạo thế.
Machiavel viết trong quyển Le Prince rằng: “Les Etats subitement formés manquent de racines profondes et le premier orage risque de les renverser” (chính quyền mới xây dựng thiếu rễ sâu sẽ rất bị lật nhào ngay khi gặp cơn giông bão đầu tiên).
Chính quyền mới lập của Tháo, nhờ phương pháp uy và thế tiến hành song đôi, đã vững như bàn thạch.
Vụ chiếu chỉ Đai áo vỡ ra, Tào Tháo thẳng tay đàn áp, bọn chính thống thường coi việc đó như một bằng chứng hiển nhiên về tính gian hùng tàn ác của Tào Tháo. Các bạn độc giả, chắc cũng có bạn muốn phán xét phân minh việc làm của Tào Tháo. Vậy xin bạn hãy đọc lại lời Machiavel: “Cruauté bénie, si elle tue dans l’ oeuf les désordres, gros de meurtres et de rapines, que trop de pitié eût laissé s’ élever? Ces désordres blessent la société tout entière, tandis que les rigueurs ordonnées par le prince ne tombent que sur des particuliers. (Hành động tàn ác đáng ban phước lành khi nào nó tiêu diệt được từ trong trứng sự hỗn loạn chứa đầy chém giết và cướp bóc. Hành động tàn ác ấy vượt xa hẳn tình thương nếu tình thương để cho hỗn loạn dấy lên. Hỗn loạn sẽ tàn phá cả xã hội, còn những biện pháp cứng rắn chỉ giết vẻn vẹn mấy cá nhân). Machiavel kết luận: protéger d’ abord la société, voilà où git la vraie clémence d’ Etat. (Bảo vệ xã hội trước hết, đây mới chính là lòng nhân từ của nhà nước).
Bọn chính thống đời sau cũng thường mang đối chiếu vụ giết Đổng Phi, Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Cát Bình với vụ tàn sát của Đổng Trác giết Trương Ôn, vụ chém giết ở Duyện Châu, Thanh Châu với vụ tàn sát ở Lạc Dương. Sự thật các vụ kể trên chẳng mang một điểm tương tự nào cả, dù ta xét chung trên quan điểm chính trị hay trên quan điểm đạo đức.
Đứng trên quan điểm chính trị, Đổng Trác thua xa Tào Tháo một trời một vực. Việc làm của Tào Tháo nhằm mục đích lập uy, còn việc làm của Trác hoàn toàn mang tính cách khủng bố. Cho nên Tào Tháo chấm dứt rất chóng bất cứ sự kiện nào có máu chảy người chết, còn Trác kéo dài ra để làm trò vui, để thỏa mãn tính khát máu thích dọa nạt. Tháo phân định dứt khoát người có tội kẻ không. Còn Trác thì miên man chẳng biết chỗ nào là bờ bến, khiến cho hết thảy mọi người ngồi đứng không yên. Machiavel gọi lối hành động loại Đổng Trác là tàn ác thú tính và tàn ác vụng về (cruautés mal pratiquees).
Đứng trên quan điểm đạo đức, vụ chém giết ở Duyên Châu, Thanh Châu là kết quả của chiến tranh. Còn vụ tàn sát ở Tràng An là kết quả của cuộc đàn áp bắt di dân. Tam Quốc chí diễn nghĩa đã viết rõ ràng tự sự như sau:
Lý Nho xui Đổng Trác:
– Nay tiền lương thiếu thốn nhiều, ở Lạc Dương nhiều nhà giầu, nên tịch thu cả lấy của phát cho quân.
Trác lập tức sai năm ngàn quân thiết kỵ đi bắt những người nhà giàu ở Lạc Dương, cả thảy mấy ngàn họ, mỗi người cầm một lá cờ lên đầu để bốn chữ: “Phản thần nghịch đảng” rồi đem ra ngoài thành chém tuốt, bao nhiêu của cải lấy sạch. Lý Thôi, Quách Dĩ bắt hết cả dân Lạc Dương, ước mấy trăm vạn, đưa sang Tràng An, cứ mỗi đoàn dân lại cho một đội quân đi áp, người chết ở dọc đường không biết bao nhiêu mà kể. Đàn bà con gái đã vừa nhọc vừa đói khát đau đớn trăm chiều, lại còn bị quân lính hãm hiếp, tiếng kêu khóc động trời chuyển đất. Người nào đi chậm, đằng sau có quân lính đốc thúc, quân lính còn chém giết người ngay giữa đường.
Lúc Trác đi, sai phóng hỏa đốt cả cửa nhà dân ở. Trác lại sai Lã Bố khai quật các mồ mả để lấy vàng bạc châu báu.
Bàn về cách sử dụng quyền uy của Tào Tháo
Quyền uy là tất cả những gì quý báu đối với chính trị. Do quyền uy mà ta có thể sinh hay sát, cho hay đoạt, phải hay trái, phúc hay họa, thao túng hay khống chế cả người lẫn vật. Tuy nhiên cũng do quyền uy mà chính trị gia hay chế độ bị oán ghét hận thù hoặc được kính nể yêu mến, không biết sử dụng thì bị oán ghét hận thù. Cổ nhân đối với việc sử dụng quyền uy đặt ra ba điều:
a) Pháp
b) Lệnh
c) Thưởng phạt
Pháp là cách thức tổ chức của chế độ, pháp cũng là kỷ cương của chế độ đặt ra để điều chỉnh sinh hoạt toàn bộ xã hội. Chữ Pháp ở đây nếu đem so với danh từ pháp luật, thì hàm nghĩa nó rộng lớn hơn, vì pháp luật chỉ là những điều lệ được ghi rõ ràng để quy định quyền hạn, vị trí, phạm vi cho mỗi hành động. Danh từ Pháp theo nghĩa triết học chánh trị phương Đông ngoài những điều lệnh rõ ràng ấy, nó còn bao gồm cả một số nguyên tắc sống mà đại đa số người trong xã hội nhìn nhận trên tâm lý. Sách cổ viết: “Pháp là công cụ để trị thiên hạ. Không có pháp tất sẽ mất nhịp độ, mất nhịp tức là hỗn loạn vậy”.
Tào Tháo tiến quân về Lạc Dương, tình hình hỗn loạn tơi bời. Ông đã chế định được pháp nghiêm minh để ngăn chặn sự loạn. Lúc đánh Duyện Châu cũng như lúc đến Lạc Dương, nguyện vọng của nông dân cũng như lòng mong mỏi của phần tử trí thức đang lên đều được toại ý. Ta có thể căn cứ vào việc cải biến nhanh chóng các đám quân nổi loạn ở Thanh Châu, Duyện Châu cùng việc Đổng Chiêu ra sức giúp Tào Tháo bình định Lạc Dương để chức minh.
Lệnh là hình thức biểu thị của pháp. Lệnh ví như sấm sét, gió bão để cổ võ vạn vật cho nên lệnh phải nghiêm, không mờ ám, không bất nhất sáng thay chiều đổi.
Đức tôn trọng lệnh luật của Tháo, trong đời Tam Quốc chẳng mấy ai sánh kịp. Rất nhỏ nhặt như việc con ngựa của Tháo hoảng hốt dẫm lên ruộng lúa, Tháo cũng đã tự cắt tóc để thị chúng, ta có cho đấy là một thủ đoạn đi chăng nữa, nhưng thủ đoạn không ngoài mục đích hướng vào sự tôn trọng luật lệnh.
Trong khi Trương Phi say rượu đánh Tào Báo để Lã Bố cướp mất Từ Châu, và Quan Công nóng nảy phá tan cả một chính sách Liên Ngô, Tam Quốc chí không cho ta thấy mảy may biện pháp trừng phạt của Lưu Bị đối với hai người này dù rất ít.
Về vấn đề thưởng phạt, Hoàng Thạch Công nói:
– “Công nhỏ không thưởng, tất công lớn không có. Oán nhỏ không tha tất oán lớn nảy sinh. Thưởng không làm cho người phục, phạt không khiến cho người vui chịu, tất bị phản. Thưởng kẻ vô công, phạt kẻ vô tội, cái nguy đến sau lưng.
Sách Quân Cấm viết:
Hương nhĩ chi hạ tất hữu tử ngư
Trọng thưởng chi hạ tất hữu tử phu.
(Dưới mồi thơm chắc có cá chết. Biết trọng thưởng, người sẽ vì ta mà hy sinh). Hàn phi Tử nói: “Ái đa giả tắc pháp bất lập, uy quả giả tất hạ xâm thượng”. (Nuông chiều tất Pháp khó thi hành. Uy ít tất dưới nhờn).
Độc giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa chắc đã có nhiều dịp so sánh Tào Tháo với Lưu Bị về đức tính này. Sự dung túng của Lưu Bị đối với Quan, Trương gieo mầm cho việc thất thủ Kinh Châu sau này.
Nghi án Lã Bá Sa và Lưu Phúc
Đời Tào Tháo có hai lần giết người bị đời sau coi là những hành động tội phạm:
Vụ thứ nhất: giết cả nhà Lã Bá Sa.
Vụ thứ hai: cầm giáo đâm chết Lưu Phúc.
Ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cả hai người thay quần áo, mỗi người đeo một thanh gươm, cưỡi một con ngựa đi về quê Tào Tháo. Đi được ba hôm đến Thành Cao, trời đã xâm xẩm tối. Tháo cầm roi ngựa, trỏ vào một đám cây cối um tùm bảo Cung rằng:
– Ở trong này có Lã Bá Sa là bạn kết nghĩa với cha tôi. Tôi muốn vào chơi thăm nhà, rồi ngủ đấy một đêm, nên không?
Cung nói: Thế thì hay lắm.
Hai người đến cửa, xuống ngựa vào chào Lã Bá Sa. Sa hỏi Tháo rằng: Ta nghe triều đình tầm nã anh cấp lắm. Cha anh phải lánh sang ở Trần Lưu rồi. Sao anh đến được đây?
Tháo bèn đem chuyện đầu đuôi kể với Lã Bá Sa, rồi trỏ vào Trần Cung nói: Nếu không gặp được quan huyện đây, thì bây giờ đã thịt nát xương tan rồi.
Lã Bá Sa vái Trần Cung rồi nói:
– Cháu nó không gặp được ngài thì họ Tào còn gì? Đêm nay xin ngài hãy thong thả nghỉ lại đây. Nói xong đứng dậy vào trong nhà, một chốc trở ra bảo Trần Cung: Nhà tôi không có rượu ngon. Để tôi sang xóm Tây mua một bình rượu ngon về uống.
Nói rồi lật đật cưỡi lừa ra đi.Tháo với Cung ngồi ở nhà, chợt nghe thấy sau nhà có tiếng mài dao.
Tháo bảo Trần Cung rằng:
– Lã Bá Sa đối với tôi không thân thiết gì lắm. Chuyện này đáng nghi lắm.
Hai người sẽ rón rén bước vào sau nhà tranh, chỉ nghe thấy có tiếng người nói:
– Trói lại mà giết.
Tháo bảo cùng Trần Cung:
– Phải rồi, nếu ta không hạ thủ trước thì sẽ bị bắt.
Tháo và Cung hai người cùng rút gươm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người ấy, giết một lúc tám mạng. Tìm đến trong bếp thì chỉ thấy một con lợn trói bốn vó sắp chọc tiết.
Cung giật mình nói:
– Mạnh Đức ơi! Đa nghi giết nhầm phải người tử tế rồi.
Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi. Đi được độ hai dặm gặp Lã Bá Sa cưỡi lừa về, trước yên treo hai vò rượu, tay xách một nắm rau quả. Sa hỏi hai người rằng:
– Hiền điệt với sứ quân sao lại đi?
Tháo nói:
– Tôi là người có tội không dám ở lâu.
Lã Bá sa nói:
– Ta đã dặn người nhà làm thịt con lợn rồi. Sứ quân với hiền điệt ngại gì một đêm. Xin quay ngay ngựa về cho.
Tháo cứ tế ngựa đi. Đi được vài bước, rút gươm ra quay trở lại, gọi Lã Bá Sa hỏi:
– Ai đi đằng sau ông đấy?
Sa quay đầu lại xem, Tháo chém ngay, Sa ngã xuống chết.
Cung cả sợ hỏi Tháo:
– Lúc nãy nhầm đã đành. Bây giờ sao lại đang tay như thế?
Tháo nói: Bá Sa về nhà, thấy nhiều người chết, tất nhiên không để im, nếu đem người đi đuổi thì ta bị vạ ngay.
Cung nói: Biết rằng mình nhầm rồi, lại còn cố ý giết người nữa, thực là đại bất nghĩa.
Tháo nói:
– Thà rằng ta phụ người còn hơn để người phụ ta.
Tám chữ: ninh ngã phụ nhân, vô nhân phụ ngã của Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã gây phản cảm ghét bỏ của người đời sau đối với Tháo rất mạnh.
Tào Tháo có tội hay không? La Quán Trung đã khép tội Tào chắc nịch trên tiểu thuyết. Nhưng trên chính sử ra sao?
Tôi xin kê khảo ra đây để độc giả phân xử.
Sách Tam Quốc Chí của Trần Thọ ghi:
“Tào Tháo không chịu nhận chức úy của Đổng Trác nên cải đổi tên họ trốn về miền Đông”.
Sách Ngụy Thư chép:
Thái Tổ rõ biết rằng Trác thế nào cũng đổ, không lời cáo biệt trốn về quê, tùy tùng có mấy người tìm gặp cố nhân Lã Bá Sa tại Thành Cao. Bá Sa đi vắng. Con cháu Lã Bá Sa hợp với ít gia nhân đánh Thái Tổ cướp của. Thái Tổ giết mấy người. Sách Ngụy Thư Xuân Thu do Tôn Thịnh đời Tấn chép: “Thái Tổ nghe tiếng dao liếc loẹt xoẹt, nghĩ rằng họ đánh bắt mình, nhờ bóng đêm Thái Tổ vào giết hết. Sau biết mình nhầm rồi, nói: Ninh ngã phụ nhân vô nhân phụ ngã. Rồi đi”
Cũng sách trên, Tôn Thị (Thịnh?) chép:
Tư Mã Ý giả bắt Trịnh Tiểu Đồng uống thuốc độc, nói: “Ninh ngã phụ khanh, vô khanh phụ ngã”.
Như vậy tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã lấy tám chữ: “Thà ta phụ người, hơn người phụ ta” ở sách Ngụy Thư Xuân Thu của Tôn Thị. Nhưng ai mới là người thật nói câu đó? Tư Mã Ý hay Tào Tháo. Nếu Tư Mã Ý nói thì câu chuyện Lã Bá Sa sự thực thế nào?
Đến vụ Lưu Phúc, Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười tám kể:
Bấy giờ Tháo đã quá say, cầm một ngọn giáo, đứng trên mũi thuyền, đổ một chén rượu xuống sông rồi lại uống luôn ba chén đầy nữa, cắp ngang ngọn giáo nói với các tướng:
– Từ khi ta cầm ngọn giáo này, phá Khăn Vàng, bắt Lã Bố, diệt Viên Thuật thu Viên Thiệu, thọc sâu vào Hà Bắc, duỗi thẳng đến Liêu Đông, tung hoành bốn bể, thật không phụ ý chí của kẻ đại trượng phu. Nay đứng trước cảnh này lòng ta xiết bao sảng khoái. Ta làm một bài hát, các ông đều họa chơi cho vui. Bài hát rằng:
Cuộc vui có được là mấy chốc.
Nào khác chi hạt móc sáng ngày.
Nguồn sầu lai láng vơi đầy.
Giải phiền họa có rượu này làm vui.
Chàng áo xanh ngậm ngùi lòng tỏ.
Hươu ngoài đồng hớn hở gọi nhau.
Khách ta, ta đã gặp nhau.
Gảy đàn, thổi sáo ngõ hầu thêm vui
Trăng sáng tỏ, bùi ngùi trong dạ.
Nỗi lo này biết ngỏ cùng ai.
Chuyện trò kể lể xa xôi.
Nhớ người nghĩa cũ cười vui đề huề.
Quạ đem trăng bay về nam hậu.
Quanh ba vòng biết đậu cành nao.
Nước càng sâu núi càng cao.
Châu công trọng khách xôn xao kéo về.
Tháo hát, đoạn mọi người họa theo, cười đùa vui vẻ. Bỗng một bóng người bước ra nói:
– Giữa lúc hai bên đối địch, tướng sĩ so sức, làm sao thừa tướng nói gở ra câu ấy?
Tháo nhìn xem thì là Lưu Phúc, thứ sử Dương Châu. Phúc trước làm quan ở Hợp Phì, xây đắp nhiều thành quách, tập hợp những dân phiêu tán, mở trường học, khai khẩn ruộng đất, dạy dỗ nhân dân, theo Tào Tháo đã lâu, lập được nhiều công trạng.
Khi ấy Tháo cắp ngang ngọn mâu, hỏi lại rằng:
– Ta nói gở điều gì?
Phúc thưa: Những câu trăng sáng… quạ bay quanh ba vòng… Không biết đậu vào đâu… là những câu gở.
Tháo nổi giận nói:
– Mày sao dám bẻ tao.
Nói rồi phóng ngay ngọn giáo đâm chết Lưu Phúc.
Lời bàn của Mao Tôn Cương về hồi này không hề nhắc nhở tới cái chết của Lưu Phúc, Mao Tôn Cương chỉ nhìn hẳn về tâm sự riêng tư của Tháo mà thôi. Tháo vui, Tháo yến ẩm nô đùa nhưng chính là lúc Tháo đang lo ghê gớm vậy. Hành động ấy cũng giống như cảnh Ngô Vương Phù Sai đi hái hoa sen và Hạng Vũ uống rượu với Ngu Cơ. Như vậy Tháo giết Lưu Phúc không chỉ vì riêng cái cớ Phúc làm mất hứng vui của mình. Vả lại, Phúc là người giỏi giang như Tam Quốc đã kể ở trên thì không khi nào Phúc lại có hành động cẩu thả tương tự. Trong giờ phút quyết liệt, hàng trăm ngàn con người sắp sửa lao đầu vào lửa chinh chiến, cái chết của Lưu Phúc chắc phải có một lý do chính trị nào khác mà lịch sử không cho ta rõ đó thôi.
Kết luận
Kể trong các lãnh tụ chính trị trong Tam Quốc, Tào Tháo là người nhận rõ bản chất thời đại hơn ai hết. Ông hiểu nếu ly khai chiến tranh thì mọi vấn đề không giải quyết. Ông phân biệt nổi chủ thế của chiến tranh là gì? Kẻ địch nội ngoại, trước sau khiến cho chiến tranh mang những nội dung khác hẳn nhau. Do đó mặc dầu ông luôn luôn phát động chiến tranh, nhưng chiến tranh chiến lược của ông cũng đều được lồng vào trong một nhu yếu chính trị từng lúc.
Đời sau lên tiếng công kích, coi chiến tranh của Tháo là chiến tranh vô chính nghĩa vì cho rằng: đa số những cuộc binh đao lúc bấy giờ không phải là chiến tranh đối ngoại, không phải là vấn đề ngoại tộc giết nòi Hán mà là vấn đề dân tộc Hán giết lẫn nhau. Tào Tháo phải gánh chịu tất cả những tội ác binh lửa can qua. Đổ tội như thế, có nghĩa là đã đứng trên một quan điểm chính trị thuần túy nệ vào luân lý, và nếu cứ dùng quan điểm này làm ánh sáng soi xét lịch sử thì không một nhân vật lịch sử nào tránh khỏi tội.
Nhà thơ Cao Bá Quát có câu:
Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn
Mục Dã, Minh Điền hữu Vũ Thang.
Mục Dã, Minh Điền là hai nơi vua Vũ, vua Thang giết giặc dựng nghiệp. Mục Dã, Minh Điền hay 72 trận Lưu Bang đánh nhau với Hạng Võ có thuộc vấn đề ngoại tộc xâm lược đâu. Chính nghĩa hay không chính nghĩa là ở sự trị hay loạn.
Loạn là lúc hắc ám, thoái hóa.
Trị là thời quang minh, tiến bộ.
Chiến tranh để tàn sát, để áp chế, để gây loạn, để đưa xã hội vào vòng tối ám, là chiến tranh không chính nghĩa. Chiến tranh để mở đường khai lối, chiến tranh để đem lại yên bình tiến bộ là chiến tranh chính nghĩa. Thời đại Tam Quốc, hình thức cuộc đấu tranh giữa loạn với trị chủ yếu là chiến tranh. Lúc đó kẻ nào không nắm vững quy luật chiến tranh, không hiểu nghệ thuật chiến tranh tất bị đào thải.
Hãy dẫn ra một bằng chứng của chủ thể chiến tranh lúc đó, lịch sử gọi là loạn “bộ khúc”.
Cuối Đông Hán sang Tam Quốc, toàn quốc băng hoại, loạn ly. Trung ương chính phủ mất quyền, địa phương chính phủ tan rã. Thổ phỉ, lưu khấu, giặc cướp nổi như ong. Nông dân không có cách gì sinh sống, liền phân tỏa gia nhập vào các đại môn đệ hay hào tộc, biến thành tự vệ đội võ trang bảo vệ cày cấy cho các hào tộc, gọi là quân bộ khúc. Tỉ dụ: Trương Tú là hào tộc, Điển Vi tướng cầm đầu quân đội bộ khúc. Trung Quốc có hàng mấy ngàn quân đội bộ khúc, xâu xé cướp bóc lẫn nhau. Vậy thử hỏi nếu muốn thống nhất xứ sở, bình định xã hội mà không có một tổ chức chiến tranh hoàn bị và mạnh nhất thì liệu có giải quyết nổi vấn đề chăng?
Đời sau chê Tào Tháo là con người mưu mẹo, quỷ quyệt, nhưng lại tôn sùng ghi nhớ câu nói của vạn thế sư biểu Khổng Tử:
“Hiếu mưu nhi Thành”
Mưu là hành động của kẻ trí. Nếu làm chính trị mà bị chê vì mưu mẹo, quỷ quyệt thì kẻ đần độn được ca tụng sao?
Hoàng Thạch Công viết: “Phi kế sách vô dĩ quyết hiềm định nghi, phi quyệt kỳ vô phá gian tức khấu, phi dụng mưu vô dĩ thành công” (không kế sách lấy gì mà giải bế tắc, không quỷ quyệt lấy gì mà trấn áp gian khấu, không dùng mưu lấy gì mà thành công?)
Chê quỷ quyệt, chê mưu mẹo bất quá chỉ là một thái độ của kẻ yếu ớt trước người giỏi hơn mình.
Bí quyết thành công của Tào Tháo, bàn đến vấn đề này, ta hãy đem so sự thành công của Tào Tháo với sự thành công của Lưu Bang, tuy sự nghiệp lớn nhỏ không giống nhau nhưng đây là do thời thế chứ không phải do tài năng và hành động.
Lưu Bang lên ngôi Hoàng Đế, trong bữa đại yến rượu đã ngà ngà, bèn quay ra hỏi quần thần: “Các vị vương hầu, các vị tướng tá, hôm nay tôi muốn các ông phải nói cho thực: tại sao tôi thành công, tại sao Hạng Vũ thất bại?”
Có người đồng hương tên là Vương Lăng đứng dậy thưa:
“Bệ hạ thành công nhờ ở lượng lớn biết chia đều. Khi thắng khu vực nào bệ hạ biết giao phó cấp thưởng cho ai. Lợi lộc bệ hạ công khai ban phát cho thiên hạ. Còn Hạng Vũ là người bội bạc bủn xỉn, thắng không biết ghi công chiến không biết chia lợi”.
Lưu Bang cười ngất, rồi nói: Đấy mới chỉ là một mặt thôi. Tôi xin thú thực, tài tôi nếu ngồi để thảo kế hoạch, bầy chiến lược tôi không bằng Trương Lương, nếu sai tôi làm thế nào cho binh lương sung túc, bảo vệ giao thông, phân phối công tác, tôi không bằng Tiêu Hà, chỉ huy trăm vạn quân, chiến vô bất thắng, tôi không bằng Hàn Tín. Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín là ba vị đại hào kiệt tôi biết dùng và dùng nổi; Hạng Võ chỉ có một Phạm Tăng cũng không dùng được. Đấy là nguyên nhân thành công của tôi vậy.
Căn cứ vào câu chuyện trên đây thì cái đức chính trị của Lưu Bang khả dĩ thu gọn vào mấy chữ:
“Hữu hiệu dụng nhân, công bình phân tặng”.
(Giỏi dùng người, biết chia đều).
Mọi mặt chuyên tài Lưu Bang đều thua sút Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà nhưng Lưu Bang lại nắm quyền lãnh đạo là vì Lưu Bang biết dựa hành động của chính ông vào đại thế của thời đại rồi dùng đại thế mà kết chặt ba người kia.
Phép chia lời của Lưu Bang cũng vậy, những người theo ông nhất nhất đều được bù công lao xứng đáng. Nhưng lối chia lợi, ông biết đặt trên nền tảng thời thượng, nghĩa là làm cho bàn dân thiên hạ vui mừng chứ không phải chia lợi kiểu giặc cướp chia phần.
Tào Tháo không kém gì Hán Cao Tổ về hai điểm này.
Tóm lại, sống vào thời cực nhiễu nhương như Tam Quốc, nhà chính trị phải có sức của một con sư tử đồng thời lại phải khôn ngoan như một con cáo. Con sư tử làm người ta sợ hãi không chống đỡ nổi, con cáo làm cho người ta không biết lối nào mà lường. Sư tử hay cáo đều bị đám quần chúng ngơm ngớp và các lý thuyết gia chính trị nói dóc (théoriciens bavards) bài bác.
Tào Tháo là biểu tượng hoàn bị của hai thứ đó, đương nhiên bị ghét bỏ. Tuy nhiên, nếu ta đi sâu vào tâm sự của Tào Tháo, ta cũng tìm thấy ở ông ước nguyện một xã hội vui sướng từ thiện. Tâm sự đó, Tào Tháo đã giãi bày vào bài ca “đối tửu” tạm dịch xuôi là:
Nâng chén rượu, chúc đời thái bình, quân sự không có gì vội vã, đấng quân vương vừa hiền vừa giỏi. Tể tướng, triều thần đều trung lương, biết điều lễ. Dân không tranh giành, ba năm cấy, thóc đủ chín năm. Kho chứa đầy ắp. Người già không phải gánh đội. Súc vật nhiều, phân bón dư. Công hầu bá tử nam, biết yêu dân. Kẻ phạm tội, tùy theo nặng nhẹ mà xét xử. Ngoài đường của rơi không ai nhặt. Cửa ngõ mở ngỏ. Mùa đông, già nua không rét cóng. Ân trạch chan hòa đến cây cỏ và côn trùng.
Với tâm sự ấy chắc chắn Tào Thào không phải là con người lấy giết chóc làm vui thú. Nhưng Tào Tháo lại mang nặng trên vai nhiệm vụ to tát. Dẹp loạn tất phải giết những kẻ làm loạn. Tiến bộ tất phải tiêu trừ những kẻ thoái hóa, phản động.
Bài đối tửu ca, tỏ rõ lòng tự tin tuyệt đối vào việc làm của mình.
Sau hết đối với Tào Tháo ta chỉ có thể nói câu này: “Tất cả mọi điều khen chê đều không xứng đáng với ông” như người Ý đã ghi trên mộ Machiavel.