Thứ Ba, 22 tháng 1, 2019

Phượng Hoàng của bóng đá Việt Nam


Bá Tân

Thế là cái tưởng rằng không thể đã trở thành có thể, đội tuyển bóng đá Việt Nam đánh bại Jordan, và lần đầu tiên trong lịch sử hiên ngang bước vào tứ kết Asian Cup 2019. Không chỉ thắng về tỷ số (4:2),  tuyển Việt Nam còn thể hiện là ’’đàn anh’’ trên sân cỏ về mọi mặt, từ chiến thuật, kỹ thuật, sức bền thể lực và đặc biệt là tinh thần thi đấu kiên cường quả cảm.

Không chỉ hàng triệu triệu người trong nước, mà cả châu Á đều hân hoan chia vui với chiến thắng của Việt Nam. Đẳng cấp đội tuyển Việt Nam đã thực sự được khẳng định ở tầm châu lục. Hình ảnh Việt Nam, thông qua kỳ tích bóng đá, không ngừng lan tỏa trong lòng bạn bè quốc tế.

Chiến thắng của Việt Nam là kết tinh xứng đáng của ban huấn luyện, tập thể các cầu thủ cũng như sự động viên vô bờ bến của người hâm mộ. Tuy nhiên không thể không nói đến cặp đôi Nguyễn Công Phượng - Nguyễn Trọng Hoàng trong trận chiến thắng Jordan. Nếu không có bàn thắng gỡ hòa của Công Phượng, kết cục sẽ thế nào với Việt Nam. Nếu không có pha ghi bàn gỡ hòa của Công Phượng, làm gì có hai hiệp phụ, và sau đó là loạt đá luân lưu 11 mét. Nếu Công Phượng không gỡ hòa, đội Joran sẽ dành chiến thắng sau 90 phút thi đấu chính thức.

Pha ghi bàn gỡ hòa tuyệt đẹp của Công Phượng đã lật ngược cục diện trận đấu, đội tuyển Việt Nam như được hồi sinh, dồn đối thủ vào thế bị động và bất lợi. Sẽ không có bàn thắng quý hơn vàng của Công Phượng, nếu không có đường chuyền chính xác như đặt của Trọng Hoàng. Cặp đôi này đã không ít lần’’kết duyên’’tỏa sáng như vậy, đem lại những bàn thắng mang tính quyết định cho Việt Nam.

Hai cầu thủ này quê xứ Nghệ. Công Phượng quê ở huyện Đô Lương. Quê Trọng Hoàng là huyện Nam Đàn. Cặp đôi này gắn kết trở thành’’tinh hoa’’trên sân của tuyển Việt Nam,và tên của họ gắn với nhau như là sự sắp đặt huyền bí thần kỳ: Phượng-Hoàng. Phượng Hoàng là loài chim quý, tượng trưng cho sự dũng mạnh, oai phong và cao thượng. Bằng tài năng và cống hiến hết mình, cặp đôi Phượng-Hoàng xứng đáng là biểu tượng Phượng Hoàng của bóng đá Việt Nam.

Trong đội tuyển bóng đá Việt Nam, cầu thủ quê xứ Nghệ chiếm phần không nhỏ. Đội hình chính thức của Việt Nam tại Asian Cup 2019 luôn có 5 cầu thủ xứ Nghệ, án ngữ ở những vị trí then chốt trên cả ba tuyến.Thủ quân hiện thời của tuyển Việt Nam, Quế Ngọc Hải, người xứ Nghệ, được ví như ’’quả núi’’sừng sững ở tuyến phòng ngự, đồng thời là tác giả của những đường chuyền dài chính xác cho tuyến tiền đạo. Cầu thủ xứ Nghệ, bằng cả số lượng và chất lượng, góp phần không nhỏ đưa đội tuyển bóng đá Việt Nam liên tục gặt hái chiến thắng vang dội trên đấu trường khu vực cũng như châu lục.

Xứ Nghệ có quyền tự hào khi nói đến thành tích của bóng đá Việt Nam.
                                                
 Bá Tân

*Tác giả gởi bài tới chủ blog. 

Thứ Năm, 17 tháng 1, 2019

Lại chuyện đạo văn?



Viên Như

Báo Đại Đoàn Kết – Cơ quan Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đã từng đăng nhiều bài của tôi như số 206 (6-2008) bài Giải oan cho một Thiền sư – Hiểu bài bài thơ “Xuân nhật tức sự” thế nào cho đúng; Số 215 (3-2009) bài Thử phác thảo một hế thống chữ viết cho người Việt; Số 221 (9-2009) bài Bài thơVịnh nga” khẳng định đường lối ngoại giao trong thời kỳ đầu tự chủ của nước ta; Số 229 (5-2010) bài Những lời khuyên của thiền sư Pháp Thuận...

Gần đây tình cờ đọc bài “Chính sách nội trị & ngoại giao của nhà Tiền Lê qua thi pháp của Thiền sư Đỗ̉ Pháp Thuận” của Lê Cung, PGS.TS.Trường Đại học Sư phạm Huế, tham luận hội thảo “Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long”  do Học viện  Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh tổ chức ngày 26 tháng 8 năm 2010. (Đọc ở đây). 

Nhận thấy một số nội dung của bài này quá giống với bài “Bài thơ Vịnh nga” khẳng định đường lối ngoại giao trong thời kỳ đầu tự chủ của nước ta có thể đọc ở đây.
Để thấy cái nội dung giống nhau như thế nào, xin trích đăng một số đoạn trong bài viết của hai tác giả để so sánh.
           
           Viên Như:
Năm (987), nhà Tống lại sai Lý Giác sang . Khi đến chùa Sách Giang,Vua sai Pháp sư tên là Thuận giả làm người coi sông ra đón. Giác rất thích nói chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước. Giác vui ngâm rằng :
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.

Ngỗng ngỗng cả bầy ngỗng
Ngửa mặt  hướng vách  trời.

Pháp sư đương cầm chèo theo vần làm nối đưa cho Giác xem:

Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.

Lông trắng phơi dòng biếc
Chân hồng rẽ sóng khơi.
Lê Cung:
 “Trên mặt trận ngoại giao, đóng góp của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận cũng hết sức nổi bật. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Năm Đinh Hợi Thiên Phúc thứ 8 (987) mùa Xuân,... nhà Tống lại sai Lý Giác đến. Tới chùa Sông Sách, vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm giang lệnh đi đón. Giác rất giỏi văn chương. Bấy giờ, gặp lúc có hai con ngỗng bơi trên mặt nước, Giác vui ngâm:
Ngỗng ngỗng cả bầy ngỗng
Ngửa mặt ngó ven trời.
Nguyên văn:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
Pháp Thuận đang cầm chèo liền nối vần ngay:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân trời hồng.
Nguyên văn:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.”
Viên Như:
Tuy nhiên, như ta biết ngôn ngữ thi ca là ngôn ngữ ước lệ, Lý Giác đâu mất công mà đếm có bao nhiêu con ngỗng dưới sông kia. Nó có thể là 5 con, 6 con mà có khi còn hơn nữa, con số mà trong tiếng Việt ta gọi là "bầy" và đây chính là ý của câu một. Ta tạm dịch câu này là " Ngỗng, ngỗng cả bầy ngỗng".
Ngưỡng diện hướng thiên nhai,
Ngưỡng mặt hướng vách trời,
Sáu con ngỗng đang bơi với tư thế ngưỡng mặt hướng về phía chân trời. Trong câu này Lý Giác dùng từ "thiên nhai" có nghĩa là chân trời cao xa vời vợi. Sao ở chổ sông nước kia lũ ngỗng lại ngưỡng mặt hướng về chân trời cao xa vời vợi thế. Hơn ai hết Pháp Thuận  là người trong cuộc, ông biết rằng "thiên nhai" ở đây chẳng qua Lý Giác muốn chỉ cho thiên triều nhà Tống đấy thôi. Như vậy ta thấy hai câu này đã nói lên sự ngạo mạn, trịch thượng của một sứ thần phương bắc. Ông đã ví vua quan và nhân dân nước Việt như là bầy ngỗng đang ngưỡng mặt hướng về thiên triều thần phục. Đây là thái độ phổ biến của sứ thần phương Bắc chứ chẳng riêng gì Lý Giác; tuy nhiên ở đây Lý Giác lại dùng thơ để nói, vừa thách thức Pháp Thuận về mặt kiến thức, vừa hạ thấp đối phương một cách văn vẽ, quả thật đúng là ngôn ngữ ngoại giao, hết sức nhẹ nhàng nhưng chứa đầy giông bão.

Lê Cung:
“Thực ra, đây là một lối chơi chữ mang tính kiêu ngạo của sứ thần Lý Giác, mà không chỉ riêng Lý Giác, đây là thái độ phổ biến của sứ thần phương Bắc. Ý Lý Giác xem vua và dân Đại Cồ Việt như là bầy ngỗng đang ngẩng mặt hướng về thiên triều thần phục. Ngôn ngữ ngoại giao mà Lý Giác sử dụng, thoạt nhìn thật là nhẹ nhàng, bay bổng; song nhìn kỹ quả thực là một sự nhục mạ, một thách thức lớn lao đặt ra với Đỗ Pháp Thuận”.
           
           Viên Như:
“Là một công dân nước Việt, được giao phó trọng trách tiếp sứ thần lân bang, dĩ nhiên Pháp Thuận hiểu ngay những câu thơ cao ngạo ấy của Lý Giác. Tuy nhiên trong tinh thần trách nhiệm của một công dân, hơn nữa lại là một thiền sư, ông đã bình thản trả lời Lý Giác bằng hai câu thơ, hai câu này không những để đối trọng lại thái độ ngông nghênh mà Lý Giác đã nói trước đó, mà còn làm cho bài thơ hoàn chỉnh, rất hay.
Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba.
Lông trắng phơi dòng biếc,
Chân hồng rẽ sóng khơi.
"Bạch mao" là lông trắng, là biểu tượng cho sự công khai, ngày nay chúng ta vẫn thường dùng các từ như: bạch hóa, minh bạch, hay sách trắng, đó là nhiệm vụ của bộ ngoại giao là nơi công khai những chính sách của chính phủ. Rõ ràng trong câu này Pháp Thuận đã sử dụng từ bạch rất chuẩn. "Phô" là khoe ra, phô bày, làm cho ai cũng thấy, như vậy ta thấy từ phô này hoàn toàn tương hợp với từ đi trước nó là bạch. "Lục thủy" là chỗ rộng rãi, bằng phẳng (bình đẳng)hay chỗ công cộng, quốc tế. Như thế câu này nghĩa bóng của nó là: Về phương diện ngoại giao, một cách minh bạch và bình đẳng, nước ta  công khai tính độc lập đó để các nước lân bang công nhận.
Tuy nhiên, việc yêu cầu nước khác công nhận nền độc lập không có nghĩa là chúng ta trở thành thuộc địa, hay lệ thuộc vào một nước khác, trong bài này cụ thể là nước Tống. Ở câu bốn Pháp Thuận đã minh định lập trường đó. "Hồng trạo" có nghĩa là mái chèo màu hồng, ở đây nghĩa đen là chân hồng, nghĩa bóng là nội lực tràn đầy, màu hồng là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ tràn đầy như: tuổi hồng, hồng quân, máu hồng, trạo là mái chèo, ở đây là cơ chế nội lực, "bãi" là hai tay khoát ra, ở đây là rẽ, "thanh ba" là sóng xanh. Câu này có nghĩa là nếu như ai đó gây ra sóng gió thì ta có nội lực để rẽ sóng mà tiến lên.  Lời lẽ của Lý Giác đưa ra trong bài thơ là cố ý hạ thấp nước Việt, xem vua quan và nhân dân nước Việt như những kẻ hoàn toàn lệ thuộc vào triều Tống, với tư cách là những thần dân. Đây là một thái độ ngông nghênh của một kẻ đại diện cho cái gọi là Thiên triều. Trước thái độ trịch thượng đó, Pháp Thuận đã bình thản (như một tính chất phải có của một nhà ngoại giao) trả lời Lý Giác "Về phương diện ngoại giao thì nước tôi thông báo cho nước ông biết là nước Việt là một nước độc lập, như thế không phải là nước Việt là thuộc địa của bất cứ ai, vì nếu cần thiết thì chúng tôi có thừa nội lực để rẽ sóng mà đi tới".”

Lê Cung:
 “Với trách nhiệm một công dân, cao hơn còn là một vị thiền sư giữ trọng trách đối với vận nước Đại Cồ Việt, Đỗ Pháp Thuận hiểu hết thâm ý của sứ thần Lý Giác nhưng vẫn với thái độ ung dung tự tại, nối vần một cách hết sức sắc sảo, để từ hai câu thơ của Lý Giác trở thành một bài thơ hoàn chỉnh. Nhưng sự nối vần của Đỗ Pháp Thuận ở đây không chỉ nhìn đơn thuần về mặt thi ca mà phải được hiểu đây là một thái độ ứng xử chính trị trên phương diện ngoại giao.
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân trời hồng.
Lông trắng ở đây được hiểu là sự công khai (bạch hóa). Một sự công khai được phô bày nơi công cộng (lục thủy). Ở đây, Pháp Thuận muốn tỏ cho sứ thần Lý Giác hiểu rằng Đại Cồ Việt đã giành được độc lập và công khai sự độc lập này đối với thiên triều qua Lý Giác. Và nếu có chăng một thế lực nào đó, dù là thiên triều đi nữa, với âm mưu xâm phạm nền độc lập, nhân dân Đại Cồ Việt sẵn sàng đứng lên bảo vệ bằng chính sức mạnh của mình (hồng trạo). Hồng trạo ở đây được hiểu là mái chèo màu hồng, thuyền lướt được là nhờ mái chèo, cũng có nghĩa Đại Cồ Việt sẽ vững bước lướt qua mọi phong bao bão táp mà tiến lên bằng sức mạnh của chính mình (màu hồng tượng trưng cho sức mạnh)”.

Viên Như:
“Cần lưu ý rằng, cách đó một năm, chính Lý Giác đã sang nước ta để bảo lãnh cho hai tướng nhà Tống bị ta bắt trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng. Chắc chắn dư âm thất bại đó của quân Tống vẫn còn vang vọng trong tâm thức của ông ta, nên khi nghe Pháp Thuận đáp như vậy Lý Giác giật mình và hiểu ra rằng tại sao quân Tống thất bại (quân sự) và cả chính ông nữa cũng thất bại vào lúc này(ngoại giao). Cũng từ nhận thức nầy mà thái độ sau đó của Lý Giác dè dặt hơn, điều này đã thể hiện rõ trong bài thơ ông ta tặng Pháp Thuận sau đó. Tuy cao ngạo, nhưng ít ra ông ta cũng đã công nhận giờ đây nước Việt đã là một đất nước vững mạnh. Trong bài thơ Lý Giác tặng Pháp Thuận có câu"Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu, khê đàm ba tỉnh kiến thiềm thu. Ngoài trời có trời nên xa nghĩ, khe đầm sóng lặng thấy trăng thu".”

Lê Cung:
            “Nhưng rồi quân Tống đã bị thất bại nhục nhã. Năm 986, Lý Giác được triều Tống cử đi sứ Đại Cồ Việt, được vua Lê Đại Hành trao trả hai tên tướng là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân, bị bắt trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt năm 981. Phải chăng sự thất bại của quân Tống vẫn còn ám ảnh Lý Giác, nên khi nghe Đỗ Pháp Thuận nối vần bằng hai câu thơ, y đã phải giật mình hiểu tại sao quân Tống thất bại và ngay cả chính bản thân mình giờ đây cũng phải chuốc lấy thất bại trên mặt trận ngoại giao. Điều này giúp chúng ta nhận thức được vì sao Lý Giác đã có bài thơ chứa đựng lời lẽ đầy thán phục Đỗ Pháp Thuận và ngưỡng mộ Lê Đại Hành như đã đề cập ở trên.”
Với chừng ấy trích dẫn, ta thấy nội dung hai bài viết giống nhau là không thể bàn cãi, đây nhất định không thể là sự trùng hợp ngẩu nhiên mà là sao chép, nói đúng hơn là đạo văn. Chúng ta đang ở vào lúc mà nghề “Đạo” trở thành thời thượng, cái vỏ âm thanh “Đạo” chứa cả hai ý nghĩa. Một là con đường đem người ta đến cái Chân – Thiện – Mỹ, một lối sống đạo đức, hai là một hành động phi đạo đức, lấy cái của người khác làm của mình. Trong hai bài viết nói trên nhất định phải có một người làm cái việc phi đạo đức, đó là “ăn cắp văn” của người kia. Đặc biệt không chỉ là đạo văn mà là tư tưởng, một đứa con tinh thần mà cha mẹ nó phải thai nghén cả nhiều năm mới rứt ruột đẻ ra, chứ không phải văn ấy, tư tưởng ấy là sản phẩm mặc nhiên đi kèm theo cái học hàm, học vị nào đó. Đừng nghĩ việc làm ấy như hút thuốc lá, bao nhiêu chất liệu rồi sẽ thành mây khói, không đâu! lá có thể trở thành mây khói nhưng thuốc sẽ ở lại trong con người, trở thành một tác nhân gây đau đớn cho kẻ hưởng thụ nó sau nhiều năm, do đó việc trùng văn trùng ý này về lâu về dài nhất định sẽ có những hệ lụy.
Bài của Viên Như đăng vào tháng 9-2009, về sau lại in thành sách, cụ thể là bài thứ hai trong cuốn Giọt lòng. Còn bài của PGS. TS Lê Cung công bố vào tháng 08 -2010, có nghĩa là bài tham luận của Lê Cung viết sau cả gần một năm. 

Tôi tin rằng bài của PGS. TS Lê Cung là một bài tham luận về “Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long” để hướng về ngày Đại lễ kỷ niệm 1000 Thăng Long, một dấu mốc vô cùng quan trọng và đầy lòng tự hào của lịch sử dân tộc, không ai lại đem cái của “ăn cắp” để hiến dâng cho tiền nhân, những con người đã đem biết bao tâm huyết, giữ gìn và xây dựng đất nước cho chúng ta cảm thấy tự hào sau hơn cả một ngàn năm, vì như thế là dối cả tổ tiên, công luận và cả chính mình. Tuy nhiên điều đáng buồn vì đó là sự thật nếu PGS.TS. Lê Cung không trưng ra được bài tham luận đó đã được công bố một cách công khai, hợp pháp trước thời điểm tháng 9 – 2009, bởi vì không ai ăn cắp cái mà kẻ khác không có cả.

Đà Lạt, ngày 17 tháng 1 năm 2019

Viên Như









* Tác giả gởi bài tới chủ blog.




Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2019

Xứ Nghệ mất đi một danh nhân

Bá Tân

Tôi luôn lưu giữ sâu nặng triết lý sống của một hiền triết: tuổi thọ con người không tính bằng năm tháng sống, mà tính bằng khối lượng và giá trị công việc. Theo “công thức” chí lý ấy, với bậc tài hoa Nguyễn Trọng Tạo, dù ra đi ở tuổi 72, Anh xứng đáng có tuổi thọ trên cả bách niên trong lòng hàng triệu người giàu cung bậc thổn thức cái đẹp, cái hay của thơ ca, nhạc, họa mang thương hiệu Nguyễn Trọng Tạo. 

Người ta có nhiều nơi để đến, nhưng chỉ có một chốn để về. Nguyễn Trọng Tạo có quá nhiều nơi để đến, nơi nào cũng hân hoan mỗi dịp được đón Anh đến thăm, nghe Anh nói chuyện, đọc thơ...Nơi chốn Anh về là xứ Nghệ-nơi không chỉ lọt lòng từ mẹ sinh ra, mà còn là miền quê văn hóa đặc sắc hun đúc tạo dựng hồn cốt âm hưởng, phong cách vừa riêng biệt như đỉnh núi Đại Huệ, vừa hòa đồng thiện cảm như dòng sông quê. 

Với xứ Nghệ, Nguyễn Trọng Tạo thừa xứng đáng là một danh nhân. Chưa một lần thề thốt thế nọ, thế kia nhưng, suốt cả cuộc đời, bằng những sản phẩm văn hóa để đời, Anh rút ruột nhả tơ để cho xứ Nghệ được tôn vinh. Cách sống, cá tính, dấu ấn tác phẩm của Anh luôn đậm chất Nghệ. Chưa hẳn xứ Nghệ lấy tên Anh đặt tên một con đường, nhưng trong lòng hàng triệu người xứ Nghệ, kể cả thế hệ mai sau, có hẳn một đại lộ lung linh ngời sáng mang tên Nguyễn Trọng Tạo. 

Ngày Anh ra đi, trời se lạnh, mưa lất phất. Lòng người cũng vậy, triệu triệu người tiếc nuối, kể từ đây không còn được gặp người của công chúng, nhà thơ-nhạc sỹ tài hoa Nguyễn Trọng Tạo. 

Xứ Nghệ mất đi một danh nhân. Tre già măng mọc là quy luật của tự nhiên và xã hội. Biết vậy nhưng đến bao giờ, chờ đợi đến lúc nào, xứ Nghệ mới có được danh nhân như Nguyễn Trọng Tạo. 

Bá Tân

(Tác giả gởi bài cho chủ blog)

Thứ Ba, 1 tháng 1, 2019

Cuối năm nói chuyện Dịch học


Huyền Cơ

Lúc trẻ tôi vốn không mê mấy món phong thủy, bói toán, nhưng khi có tí tuổi, có nhiều thời gian, thấy người ta bấm bấm ngón tay tính ra người này mạng này, người kia mạng kia, tò mò hỏi xem học nó có khó không, vài người quen động viên, cho mượn mấy cuốn sách, thoạt đầu cũng hơi khó vì các tên gọi đều là chữ Nho cả, nhưng rồi mọi việc dường như khả quan theo thời gian, tôi dần thuộc hết Tý sửu dần mẹo… Giáp ất bính đinh… 

Thừa thắng xông lên, tôi lại học tiếp Hà đồ, Lạc thư, chủ yếu qua mấy cuốn sách củ rích, tất nhiên là dịch từ sách Tàu cả. Đã đến nước này thì làm sao không nghĩ đến kinh Dịch, vì nó là trung tâm của mọi vấn đề mà, thế là tôi lên mạng. Trời ơi! Hóa ra bấy lâu nay mình quá lạc hậu, cái Lạc thư – Hậu thiên bát quái của Tàu đã sử dụng làm mọi thứ hóa ra là sai, cho dù nó đã được hình thành và phát triển hơn 6000 ngàn năm rồi, rồi đến cái Ngũ hành nạp âm của Tàu cũng sai nốt. Tất cả những thành tựu vĩ đại này được một số nhà nghiên cứu kinh Dịch ở Việt Nam đưa ra chừng hơn một thập niên qua. 

Tôi băn khoăn hết sức, bởi vì cứ theo sự suy luận của tôi thì lẽ nào hơn 6000 ngàn năm qua mà chỉ với 8 cái ký hiệu ở tám vị trí, có cái đứng sai vị trí mà hàng tỷ con người lại không nhìn ra, chờ đến nay, ở Việt Nam mới nhận ra cái sai bằng cách đổi quái này sang quái kia, thế là bao nhiêu sách vở viết ra từ trước đến nay trở thành mớ giấy lộn hết. Cái thành tựu đó người ta gán cho Made in Lạc Việt, chẳng biết họ có đăng ký nhản hiệu thương hiệu quốc gia không, nhưng đồng loạt nhiều người đều lấy chung một xuất xứ như thế. 

Tuy nhiên giữa những người dùng chung xuất xứ này lại cũng phủ nhận lẫn nhau, ông thì đổi chổ Tốn Khôn, ông thì đổi ngôi Đoài Chấn nhưng tất cả đều gọi là Dịch học Lạc Việt hay gọi ngắn là Dịch Việt. Không những thế họ còn cho rằng kinh Dịch là của người Việt và tổ chức hội thảo để khẳng định điều đó, thật là tuyệt vời làm sao. Là một người Việt, tôi tự hào biết bao khi thấy các nhà dịch học nước ta dội vào nền văn hóa của Tàu một gáo nước nóng như thế. Tôi tự hào vì họ nên cố đọc những gì họ viết nhưng không tài nào hiểu nỗi, quá khó đối với tôi, không khó sao được khi nó được viết ra bởi những bộ óc thông minh vượt bật hơn hẳn hàng tỷ tỷ bộ não của Tàu hàng mấy ngàn năm qua.

Không những họ chứng minh Lạc thư – Hậu thiên bát quái của Tàu là sai, Ngũ hành nạp âm cũng tầm bậy nốt, mà họ còn chứng minh cho thấy cách nhận thức về phương hướng của Tàu cũng chẳng ra gì. Cứ theo sách Tàu từ xưa tới nay trong dịch học thì Bắc dưới, Nam trên, Đông trái, Tây phải, giờ đây nhân danh Dịch học Lạc Việt, họ đổi thành Bắc trên, Nam dưới, Đông phải, Tây trái. Có thể nói đây là một phát kiến hết sức vĩ đại, bởi vì với phát kiến này không những làm cho Tàu bẽ mặt mà còn cho Tây thấy cái dốt của họ, một mũi tên bắn trúng cả hai con chim. 

Tàu sai thế nào thì như đã nói trên, còn Tây dốt thế nào thì xin nhìn vào hình minh họa sẽ rõ.








 * Tác giả gởi tới chủ blog