Quan sát cách di chuyển của người mù, bạn sẽ thấy họ liên tục khua gậy từ bên này sang bên kia.
Họ không tìm kiếm con đường mà tìm kiếm các trở ngại, xác định những nơi mà họ không nên đi vào. Bằng cách định vị các giới hạn, họ nhận biết con đường.
Mục tiêu của người mù là con đường, không phải các trở ngại. Nhưng sự nhận biết và vượt qua các trở ngại khiến họ tìm thấy con đường.
Ở trong ĐẠO, bạn cũng vậy.
Mục tiêu tối hậu của cuộc đời không nằm trong bản thân cuộc đời mà ở sự vượt thoát khỏi những vướng mắc của cuộc đời.
Bằng cách nhận ra và vượt thoát khỏi những chướng ngại của hình tướng bạn tìm thấy lối vào vô tướng.
Không có gì là ngẫu nhiên. Mọi thứ đều đúng theo cách của riêng nó. Không có gì là sai lầm. Bạn đang ở đúng nơi bạn nên ở để đi qua những trải nghiệm cần thiết cho bạn. Không có gì là sai cả.
Khi bạn bắt đầu đánh giá cao điều này, bạn sẽ nhận ra rằng vũ trụ không trừng phạt bạn, không có Chúa Trời nào trừng phạt bạn, không có thế giới nào chống lại bạn.
Những điều dường như xảy ra trong cuộc sống của bạn là bởi vì nó cần thiết cho sự khai mở tinh thần của bạn tại thời điểm này. Những gì có vẻ tồi tệ thực sự là một phước lành ngụy trang. Những gì dường như tốt đẹp có thể là một chướng ngại đối với bạn. Đây là lý do tại sao bạn không bao giờ nên phán xét bản thân mình. Bạn phải có niềm tin vào sức mạnh đó. Khi bạn có đủ niềm tin, bạn sẽ trở nên hạnh phúc, chỉ bằng cách là chính mình.
Bạn càng nhìn thấy mọi thứ sai lạc trong cuộc sống của mình, bạn sẽ càng làm nó thêm dai dẳng, và sẽ rất khó khăn để không phản ứng lại với nó. Mọi thứ trở nên rất khó khăn cho bạn để không phản ứng lại. Và càng khó khăn để bạn thực hành truy xét Chân ngã, vì bạn đang để thế giới cho bạn thấy mọi thứ nên như thế nào, vì bạn đang phản ứng lại với thế giới. Đây là một sai lầm lớn.
Bí mật là hãy cho phép thế giới thể hiện cho bạn thấy điều gì nó sẽ thể hiện và bạn không phản ứng với bất cứ điều gì. Không có đồng tình hay phản đối. Chỉ bằng cách làm điều này một mình, bạn đạt đến trạng thái có thể nhìn thấy và cảm nhận cả thế giới, cả vũ trụ, nó đơn giản là một sự phóng chiếu tâm trí của chính bạn.
Hãy quên hết đi những gì bạn đọc trên báo chí, những gì bạn theo dõi trên TV. Đừng nhìn thế giới một cách quá nghiêm trọng. Và trên tất cả đừng nghiêm trọng hóa cuộc sống của bạn. Chẳng có gì muốn làm tổn thương bạn cả. Bạn không bao giờ có thể biết chính mình nếu bạn tiếp tục phản ứng với thế giới. Thực tại tuyệt đối chỉ được tiết lộ cho bạn khi bạn bắt đầu thấy rằng thế giới này là một hình ảnh. Suy nghĩ trở thành mọi vật. Nó không có thực tại riêng, nhưng thông qua quá trình suy nghĩ của bạn, bạn đã trao cho nó sự sống, và sau đó bạn bắt đầu cảm thấy áp lực với chính hình thù cuộc sống mà bạn đã tạo ra.
Đừng so sánh bản thân mình với ai cả. Bạn là duy nhất theo đúng bản chất của mình. Tất cả mọi người xuất hiện trên trái đất này đều vì duyên nghiệp, và bạn không bao giờ có thể biết rằng nghiệp chướng không tồn tại cho đến khi bạn ngừng phản ứng với nó. Tôi nói với bạn rằng không có gì tồn tại, nhân quả không tồn tại, thế giới không tồn tại, vũ trụ không tồn tại, có ích gì nếu bạn tiếp tục phản ứng với những điều kiện. Có thể nói, bạn không bao giờ biết được bạn còn bao nhiêu thời gian trong cơ thể này. Bạn có thể rời cơ thể vào ngày mai, tuần sau, năm sau. Và nếu bạn không nhận ra sự thật về chính mình, bạn sẽ tiếp tục trở lại Trái Đất, bạn sẽ quay lại hết lần này đến lần khác. Bạn sẽ bị mắc kẹt trên bánh xe luân hồi, cho đến khi bạn từ bỏ phản ứng của mình.
Hãy nghĩ xem hôm nay bạn thất vọng bao nhiêu lần vì một điều gì đó, hoặc chán nản, hay tức giận, hay buồn phiền, và bạn tin rằng mình có quyền được như vậy. Tại cái này hay tại cái kia, hay vì ai đó, vì cái gì đó. Tuy nhiên, đó là vì bạn lại quên rằng tất cả mọi thứ đều là bạn của bạn. Vương quốc khoáng sản, vương quốc rau củ, vương quốc động vật, vương quốc con người, tất cả đều là bạn của bạn. Đặc biệt là kẻ thù của bạn, vì đó là động lực để bạn nhìn thấy chính mình trong mọi hành động. Cái gọi là kẻ thù của bạn thực sự là bạn tốt nhất của bạn. Người không hợp với bạn đang giúp đỡ bạn, vì anh ấy hay cô ấy đang dạy bạn cách không phản ứng lại.
Có rất nhiều bài học để học, nhưng dành cho ai? Cho bạn? Bạn là ai? Chỉ cần bạn tin rằng bạn là một con người và bạn là một phần của Trái Đất, thì bạn sẽ có rất nhiều bài học để học. Nhưng ngay khi bạn từ bỏ ý tưởng về con người của mình và bắt đầu truy xét sự thật, rằng bạn không bao giờ được sinh ra và bạn không bao giờ chết đi, cho đến lúc đó bạn sẽ tiếp tục phải chịu khổ. Bạn dường như sẽ trải qua những tình huống, trải qua sự tái sinh, trải qua những trải nghiệm khác nhau.
Nhưng tôi nói với bạn rằng bạn không cần phải làm điều này. Bạn chỉ cần nhận ra rằng cái tôi cá nhân của bạn là thủ phạm. Nó không phải là bạn. Nó là ý tưởng của bạn về “tôi”. Chính ý tưởng về cái tôi (the I-thought) đã gây ra mọi vấn đề trong cuộc sống của bạn. Chính suy nghĩ của bạn sẽ khiến bạn đau khổ, bất hạnh, hiểu lầm và bất cứ điều gì. Bạn chỉ cần tiêu diệt và xóa sổ nó, ý tưởng về cái tôi.
Đây là lý do bạn quay trở lại hành tinh này, để nó xuất hiện, để tìm ra cái tôi và tiêu diệt nó. Đây là điều mà bạn nên tập trung mọi lúc. Đây là mục đích của bạn. Ngoài ra không còn mục đích nào khác.
Khi Kim Dung tạ thế, tên tuổi của Cổ Long – đã qua đời cách đây 36 năm – cũng được nhắc lại. Bởi vì làm sao có thể nói/viết về Kim mà quên đi Cổ, với chiếc gạch nối Minh Báo.
Tác phẩm của cả hai bao trùm toàn bộ thế giới võ hiệp. Nhiều người vì yêu Kim mà ghét Cổ, cũng chẳng ít người vì mê Cổ mà hạ thấp Kim. Nhưng ngày Kim tạ thế, người ta tin rốt cục cả hai cũng đã có thể vứt bỏ những phiền muộn cả đời đeo mang, để cùng nhau cạn một hồ trường.
Kiếm hiệp, đầu tiên và trên hết, là phương tiện để Kim Dung và Cổ Long bộc bạch lòng mình. Khát vọng lập danh, tình yêu và tình bạn. Ngày Kim Dung lập Minh báo, sinh kế luôn là vấn đề thúc bách. Ông vừa phải làm chủ bút, làm biên tập rồi kim luôn người viết. Ông viết xã luận và viết feuilleton kiếm hiệp để thu hút độc giả. Ông bảo mỗi ngày đều phải nuốt ít nhất 7.000 chữ, liên tục suốt 20 năm không dứt, đến nhiều lúc cơm nuốt không nổi.
Cổ Long cũng chọn nghiệp viết để lập danh. So với một Kim Dung xuất thân danh gia, học hành bài bản, vẻ ngoài ưa nhìn, Cổ Long tướng mạo tầm thường, cao chỉ 1,56 mét, đầu to như đấu, mắt nhỏ miệng rộng, đến tuổi trung niên lại còn phát phì. Đã xấu trai lại còn thất học, Cổ Long bỏ học từ rất sớm, lăn lộn mưu sinh. Điều đó khiến Cổ Long dù thông minh và tài hoa nhưng luôn mang đầy tự ti, mặc cảm. Bởi vậy nhân vật của Cổ Long ai cũng phong tư tài mạo tót vời, vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa. Chính là để bù trừ cho người viết ngoài đời vậy.
Xuyên suốt gần một trăm bộ tiểu thuyết võ hiệp của hai người (Kim Dung 15, Cổ Long gần 70), tất cả đều tập trung bày tỏ nỗi lòng trăn trở của cả hai về nhân sinh. Như những gì đã được Nguyễn Bá Trác ghi lại từ một khúc ca Trung Hoa, rồi đặt tên là Hồ Trường:
“Miên miên mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng lạn.
Rót về Tây phương, mưa Tây rơi từng trận chứa chạn
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát dương.
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh nào ai say.
Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
Nào ai tỉnh, nào ai say.
Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.”
Năm 1972, không lâu sau khi đăng kỳ cuối cùng của Lộc Đỉnh Ký trên Minh Báo, Kim Dung tuyên bố phong bút, vì biết đã đạt đến đỉnh cao của nghề viết tiểu thuyết. Nhưng vì mục feuilleton kiếm hiệp trên Minh Báo đã ăn khách quá lâu, gần như là mục đinh của tờ báo, Kim Dung đã âm thầm tuyển lựa người thay thế mình, để giữ cho tờ báo không mất đi sức hút.
Trần Mặc, trong phần trích đầu sách “Đa tình kiếm khác vô tình kiếm”, thuật lại câu chuyện như sau:
“Khi Kim Dung viết thư tay gửi cho Cổ Long, đấy không chỉ là một lá thư thuần túy của một chủ bút dành cho một người viết để mời cộng tác, mà còn là động thái truyền lại ấn tín của võ lâm minh chủ. Vu Đông Lâu, cộng sự của Cổ Long ngày ấy, cho biết Cổ Long hờ hững nhờ mình bóc thư, xem tay nào từ Hồng Kông lại đi gửi thư cho mình. Đến khi biết là Kim Dung, Cổ Long giật ngay thư lại, xem như báu vật. Đọc xem thư, bần thần nằm dài trên sofa hồi lâu mới ngồi dậy, vì không thể tin đấy là sự thật. Cổ Long đã được Kim Dung thừa nhận. Và để xứng đáng lòng tin của võ lâm minh chủ, Lục Tiểu Phụng truyền kỳ đã được Cổ Long dồn nhiêu tâm huyết, đăng dài kỳ từ 1972 đến 1976 mới hết.”
Sau đó, Cổ Long viết cho Kim Dung, giữa họ là những bức thư. Tình bạn vong niên giữa hai con người khác nhau xa lắc về xuất thân, địa vị xã hội thật đẹp. Kim Dung là bác học, nhưng chưa từng coi thường kẻ mang sở học tạp nham Cổ Long. Cổ Long kiêu ngạo dễ tổn thương, nhưng với Kim Dung luôn trước kính sau quý. Cũng bởi Kim Dung đã đi đến tận cùng nghệ thuật tiểu thuyết bác học, Cổ Long đã nghĩ ra con đường riêng cho mình, để vượt thoát khỏi người đàn anh vĩ đại. Nói cách khác, Cổ Long không hoàn toàn kế thừa y bát của Kim Dung, mà tự mình bước ra, khai sơn lập phái.
Truyện của Kim Dung lẫn Cổ Long nói lên rất rõ sự khác biệt như mặt trăng và mặt trời của cả hai. Điều đó dễ giải thích vì sao fan của người này lại thường không mê được người kia.
Kim Dung, sau khi phong bút, có hai lần dụng công sửa chữa toàn bộ bản thảo của mình. Cổ Long sau khi viết, như chính ông thừa nhận, hoàn toàn không có nhu cầu đọc lại. Kim Dung nghiêm túc với tác phẩm của mình bao nhiêu, Cổ Long vô trách nhiệm bấy nhiêu. Bởi vì Kim Dung luôn trăn trở, nghiền ngẫm khi tỉnh táo. Cổ Long lại chỉ làm việc ấy khi say. Một bên là triết gia, một bên là nghệ sĩ.
Kim Dung viết câu văn thường rất dài. Văn của ông như một lộ thái cực kiếm, kết thúc chiêu này là khởi đầu chiêu khác, ý nối ý, tình kết tình, cứ thế mà liên miên bất tuyệt. Câu văn của Cổ Long lại rất ngắn. Nhịp điệu nhanh, dồn dập như một bộ phim hành động, trinh thám. Kim Dung là danh gia kiếm thuật, Cổ Long là cao thủ ám khí. Ngay cả nhân vật ưng ý nhất của đời Cổ Long – Lý Tầm Hoan – cũng là một bậc thầy về ám khí, với ngọn Tiểu Lý Phi Đao. Và cái tên Tầm Hoan ấy cũng vận vào đời Cổ Long. Cả một đời tìm kiếm niềm vui.
Tình yêu trong Kim Dung thuần phác đôn hậu, chưa nhuốm mùi sắc dục. Quách Tĩnh – Hoàng Dung bên nhau một bước không rời, tình ý miên mang nhưng chưa một lần vượt vòng lễ giáo. Với cả giang hồ, Tiểu Long Nữ có thể đã mất trinh. Nhưng Dương Quá mang nàng trong tim, như một vị hôn thê băng thanh ngọc khiết. Lệnh Hồ Xung trước yêu Linh San, sau yêu Doanh Doanh, giữa đường ăn ngủ cùng với đám tăng ni phái Hằng Sơn, tuyệt chưa một lần nghĩ đến chuyện trên bộc trong dâu. Đoàn Dự, bị ép uống âm dương hòa hợp tán, cho vào trong một phòng với Mộc Uyển Thanh, lửa dục thiêu đốt tâm trí, người bên cạnh lại xinh như ngọc, nhưng thà chết không xâm hại đối phương. Rồi chính chàng sau đó đã yêu và si mê Vương Ngữ Yên như nữ thần. Giữa cái giếng khô, đôi bên hiểu lòng nhau, toàn bộ chân tình dành cho Mộ Dung Phục, nay trao hết cho chàng. Vậy mà tuyệt đối không có màn “hãy ngồi xuống đây, hôn nhau lần này”. Tình yêu đã vượt lên tình dục rất xa.
Cổ Long thì khác. Tác phẩm của ông ngập tràn sắc dục. Nhân vật chính của Cổ Long tuyệt đại đa số là phường đam mê tửu sắc, giết người không gớm tay, chơi gái không gớm… khúc này đã phá vỡ sự nghiêm trang của bài viết, xin lỗi độc giả. Đàn bà trong truyện Kim Dung thanh cao dịu vợi, đàn bà trong Cổ Long dâm tà trá ngụy. Trong vấn đề tình yêu và tình dục, Kim lại rất cổ, còn Cổ lại rất kim.
Trong uống rượu, Kim Dung là dân sành sỏi, biết thưởng thức, mượn chén rượu để trò chuyện. So với Tổ Thiên Thu - bậc thầy thẩm rượu, đám nhân vật chính của Cổ Long chỉ là nhũng đệ tử của Lưu Linh không hơn không kém. Kim Dung dùng rượu để kết giao, Cổ Long dùng rượu để quên sầu. Người ta nói ngày Cổ Long chết, đám bạn chí cốt không mang hoa đến, mà mỗi ông vác một chai Hennessy, cứ thế mà rót xuống mồ, rồi lại mang 48 chai khác chôn theo Cổ Long, tượng trưng cho 48 năm sống trên đời, cùng lời phúng điếu bi thương: "Tiểu Lý Phi Đao thành thất truyền, nhân thế hết gặp Sở Lưu Hương."
Kiến thức của Kim Dung rất rộng, của Cổ Long rất hẹp. Nếu như tài hoa của Kim Dung đi theo con đường phát huy sở trường thì Cổ Long đích thị là hạn chế sở đoản.
Nhân vật của Kim Dung dẫu cho bị ràng buộc rất nhiều bởi lễ giáo và các khái niệm anh hùng nhưng vẫn ung dung khoái hoạt, càng về sau tư tưởng tự do càng mạnh. Nhân vật Cổ Long thoạt nhìn tự do, kỳ thực luôn bị mắc kẹt với quá khứ lẫn hiện tại. Nhân tại giang hồ, thân bất do kỷ.
Kim Dung luôn cho cho nhân vật của một một “backstory” rất mạnh. Anh là con ai, học nghệ ở đâu, quá khứ thế nào, tình đầu ra sao? Sau khi đã có backstory đủ mạnh, Kim ném nhân vật vào tiểu thuyết, để họ tự tìm hiểu ý nghĩa của cuộc đời. Và vì đã có quá khứ lẫn hiện tại, Kim Dung chẳng thể quản tương lai của họ được nữa. Như trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Kim Dung rất thích để cho Trương Vô Kỵ thành đôi với Tiểu Chiêu, cô gái mà ông yêu nhất. Nhưng rốt cục, Trương giáo chủ vẫn từ bỏ giang hồ, về vẽ lông mày cho Triệu Mẫn.
Vì nhân vật của Kim Dung có đời sống riêng, nên họ rất sống động. Và ta luôn nhìn thấy chính mình, ở phần đời của một nhân vật đó. Phụ nữ có lẽ sẽ đồng cảm với Nhạc Linh San thật nhiều, khi nàng từ bỏ “anh trai mưa” Lệnh Hồ Xung để về với tình yêu đích thực của mình: Lâm Bình Chi. Cuộc sống là những lựa chọn. Và dẫu chọn sai, vẫn không có gì hối hận. Đến chết, Nhạc Linh San cũng chỉ cầu xin anh trai mưa chu toàn cho anh yêu của mình. Giây phút ấy, Lệnh Hồ Xung hoàn toàn rũ bỏ được tình yêu đầu thuần khiết, để dành trọn con tim cho Doanh Doanh. Còn nếu trong những giây cuối cùng, Nhạc Linh San lại chuyển sang giọng hối hận, xin lỗi Lệnh Hồ đại ca, hãy tha thứ cho tiểu muội, thì Lệnh Hồ Xung có lẽ chưa thể hoàn toàn quên nàng được. Mối tình giữa chàng và Doanh Doanh tất nhiên vẫn còn một vết gợn, khúc Tiếu Ngạo chưa thể toàn mỹ.
Lại nói về Doanh Doanh, con gái giáo chủ, quyền lực nghiêng thành, lại yêu một chàng lãng tử mê rượu, không có thanh kiếm thì gần như là người vô dụng. Và người con gái ấy yêu nhưng không ghen, dẫu gái bao vây Lệnh Hồ thiếu hiệp như ruồi. Và nàng cũng chẳng hể sốt ruột khi biết Lệnh Hồ Xung chưa thể yêu mình toàn ý. Cái gì của mình sẽ là của mình, không phải của mình, cưỡng cầu cũng chẳng có được. Cẩm nang chinh phục đàn ông, ngoài Doanh Doanh, còn ai có thể viết được đây?
Trong lúc nhân vật của Kim Dung nhân thân rõ ràng, Nhân vật của Cổ Long lai lịch bất minh, là những vì sao lẻ loi trên trời. Khi thế sự giang hồ mở ra, họ đã ở đó với nỗi cô đơn muôn thuở. Nếu Kim Dung là bậc thầy của blockbuster, Cổ Long lại đi theo dòng art-house. Nhân vật của ông hành động và di chuyển, nhưng chẳng biết đi đâu, về đâu. Họ thủy chung không xử lý những mối quan hệ xã hội phức tạp. Dường như cuộc đời của họ chỉ có hai trạng thái: say xỉn và tỉnh táo, sinh tồn và tử vọng. Họ uống rượu thật mạnh, dùng binh khí thật sắt. Họ tiêu diệt kẻ thù trên một hành trình tự diệt.
Bổi cảnh của Kim Dung bao la hùng vĩ, đa dạng thú vị. Độc giả mê Kim Dung sao thể có thể quên được những đại cảnh choáng ngợp: Quang Minh Đỉnh, núi Hoa Sơn, Nhạn Môn Quan, ngọn Thiếu Thất, thành Tương Dương… Kim Dung ném những số phận nhỏ bé vào bối cảnh vĩ đại, như để làm nổi bật sự tương phản của đời người trước số mệnh. Cổ Long thì trước sau chỉ kéo nhân vật của mình vào những chỗ thật nhó bé, chật hẹp: quán rượu, tửu điểm. Nếu có núi thì cũng chỉ là ngọn, nếu có Tử Cấm Thành thì cũng chỉ là nóc nhà.
Những hiệp khách của Kim Dung hành động quang minh, lỗi lạc. Những trận chiến kinh tâm động phách nhất đều diễn ra vào ban ngày, dưới ánh mặt trời. Trong khi đó, hiệp khách của Cổ Long thuộc về màn đêm. Có lẽ vì ban đêm người ta mới… nhậu. A Phi là con sói dưới đêm trăng, Tây Môn Xuy Tuyết là tảng băng dưới trăng, Lý Tầm Hoan là kẻ si tình dưới trăng. Những trận đánh kinh điển của Cổ Long đều diễn ra dưới ánh nguyệt.
Ôn Thụy An khẳng định: "Địa vị của Kim Dung và Cổ Long, tuyệt đối là song song”. Sự so sánh, đối chiếu là điều không thể tránh khỏi trong những ngày này. Kim và Cổ, ai giỏi hơn? Các nhân vật trong truyện Kim Dung, ai giỏi nhất, ai đẹp nhất? Có lẽ chính Kim Dung cũng chẳng có… tư cách để trả lời. Vì như chính ông nói, nhân vật có đời sống và số phận của riêng họ. Chúng ta tuyệt đối chẳng có quyền can dự vào.
Phán xét làm cho con người đau khổ. Kim Dung bị người vợ đầu phụ rẫy, lại đi phụ rẫy người vợ thứ hai, kết hôn với người vợ thứ ba kém mình 30 tuổi. Sau khi phong bút tưởng sống đời khoái hoạt ung dung như Lệnh Hồ Xung, rốt cục cũng chỉ chuốc thêm nhưng ê chề của nhân thế. Con trai đầu treo cổ tự vẫn năm 19 tuổi, con gái thứ bị sốt mà điếc cả hai tai. Nhân thế bảo Kim Dung chỉ vĩ đại trên trang sách, nhưng quá tầm thường giữa đời thực.
Cổ Long một đời đau khổ vì đàn bà, sinh ra hận đàn bà, vùi đầu vào bia rượu. Bỏ địa vị của một tiểu thuyết gia, Kim Dung còn là một nhà lịch sử, nhà ẩm thực học, sinh vật học, nhà nghiên cứu lịch sử… Bỏ địa vị ấy, Cổ Long có lẽ là một ma men thất bại toàn tập. Nhưng dù là bác học như Kim Dung hay thất học như Cổ Long, ở giai đoạn cuối đời họ cũng đã ngộ ra thế nào là tri túc.
Cuộc đời đầy những muộn phiền, chỉ có những khoảnh khắc hạnh phúc và những sát na an ủi. Khi ta biết thỉnh thoảng, ở tận cùng khổ đau, vẫn có người đến bên ta, cùng cạn một hồ trường.
Sau tất cả, Lý Tầm Hoan vẫn có Á Phi, và Lênh Hồ Xung vẫn có Nhậm Doanh Doanh cùng anh trỗi khúc tiêu cầm Tiếu Ngạo!
Các nhà khoa học vẫn cho rằng vũ trụ dường như là một bức toàn ảnh vĩ đại, với mỗi phần ở trong cái toàn thể và cái toàn thể lại ở trong mỗi phần. Các trường phái triết học phương Đông nhìn nhận rằng cơ thể người là một tiểu vũ trụ, là một bộ phận hữu cơ, đối xứng và đồng nhất với vũ trụ. Nhưng ít người biết rằng có một lý thuyết sinh học đột phá gọi là “sinh học toàn ảnh”, chứng minh rằng mỗi bộ phận của cơ thể lại chứa thông tin chi tiết và đối ứng với toàn bộ cơ thể người. Lý thuyết này cũng mang đến cuộc cách mạng trong lĩnh vực châm cứu.
Khái niệm toàn ảnh hay toàn ảnh 3 chiều (Hologram/Holography) có nguồn gốc từ việc ứng dụng các kỹ thuật phù hợp để tạo ra hình ảnh 3 chiều (3D) của một vật thể từ hình ảnh 2 chiều (2D) của nó. Tính chất quan trọng nhất của toàn ảnh (Hologram) là nếu chỉ lấy một phần bất kỳ nào của nó, người ta cũng có thể khôi phục được toàn bộ hình ảnh ba chiều của vật. Nghĩa là, theo một khía cạnh nào đó, mỗi phần của toàn ảnh có chứa sự toàn thể.
Nguyên lý toàn ảnh đã khiến David Bohm, nhà vật lý lượng tử xuất sắc của thế kỷ 20, đưa ra một triết lý sâu sắc, rằng vũ trụ là một toàn ảnh vĩ đại, với mỗi phần ở trong cái toàn thể và cái toàn thể lại ở trong mỗi phần.
Vũ trụ như một toàn ảnh 3 chiều (ảnh: Paragorn Dangsombroon/Shutterstock)
Các trường phái triết học phương Đông cũng nhìn nhận rằng cơ thể người là một tiểu vũ trụ, là một bộ phận hữu cơ, đối xứng và đồng nhất với vũ trụ; có cùng bản thể vật lý – tâm linh, tương đồng, liên thông, hoà điệu với vũ trụ. Dường như cơ thể người là một phần của toàn ảnh vũ trụ.
Thật là bất ngờ là đã có một nhà khoa học phát hiện ra lý thuyết sinh học toàn ảnh, phát hiện ra cơ thể người cũng là một toàn ảnh và mỗi bộ phận cơ thể cũng chứa toàn bộ thông tin về toàn ảnh ấy.
Liệu pháp sinh học toàn ảnh
Vào năm 1973, Giáo sư Trương Dĩnh Thanh (Yingqing Zhang), Đại học Sơn Đông, Trung Quốc, đã đưa ra liệu pháp điều trị bằng sinh học toàn ảnh (biological holographic therapy). Ông đã tìm ra một hệ thống vi mô các điểm châm cứu bên cạnh xương bàn tay thứ 2. Xương bàn tay thứ 2 này thể hiện một con người 3 chiều nhỏ với xương bàn tay là xương sống của họ. Thay vì châm cứu các vào các huyệt đạo trên cơ thể, các thầy thuốc sẽ châm cứu vào các điểm trên đoạn xương bàn tay thứ 2 này. [1]
Các điểm châm cứu tương ứng với các bộ phận trên cơ thể con người (ảnh: Vilhelm Schjelderup)
Liệu pháp này đã chứng minh hiệu quả và sự thuận tiện trong quá trình chẩn đoán và chữa trị. Nó nhanh chóng được lan rộng tại Trung Quốc và được hơn 30 nước khi đó áp dụng. Hầu hết các thầy thuốc châm cứu đều nói rằng việc châm cứu vào các điểm châm cứu trong mô hình sinh học toàn ảnh có thể được tiến hành nhanh hơn và chính xác hơn so với việc châm cứu vào các huyệt đạo truyền thống. [1]
Giáo sư Trương Dĩnh Thanh (ảnh: eciwo.ru)
Lý thuyết sinh học ECIWO
Năm 1985, Giáo sư Trương Dĩnh Thanh cho ra đời “lý thuyết phôi toàn ảnh – holographic embryo theory” hay “lý thuyết sinh học ECIWO – ECIWO biology theory” – (ECIWO – Embryo Containing Information of the Whole Organism – phôi chứa thông tin của toàn bộ sinh vật).
Trong lý thuyết sinh học ECIWO, Giáo sư Trương khẳng định rằng các phôi giữ tất cả thông tin di truyền cần thiết để phát triển thành một sinh vật hoàn chỉnh và điều này được duy trì trong suốt cuộc đời của sinh vật. [1]
Các cuốn sách và báo cáo khoa học của Giáo sư Trương Dĩnh Thanh về ECIWO và sinh học toàn ảnh (ảnh: eciwo.ru)
Ông áp dụng điều này vào cơ thể con người và lập luận rằng cơ thể được tạo ra bởi các thành phần toàn ảnh nhỏ hơn nhưng lại chứa toàn bộ thông tin chi tiết của toàn bộ cơ thể, tương tự như tính chất của một toàn ảnh được đề cập trong vật lý. Ông gọi những thành phần nhỏ hơn này là các hệ thống ECIWO và cho rằng các thành phần cục bộ có thể được sử dụng để điều trị và chẩn đoán các bệnh tật xuất hiện ở các bộ phận khác trong cơ thể. [1]
Giáo sư Trương cho biết, các hệ thống vi mô các điểm châm cứu theo lý thuyết sinh học toàn ảnh (các ECIWO) có thể được tìm thấy dọc theo các xương bàn tay, xương bàn chân và các xương dài của cơ thể. Ngoài ra, phần đầu, cánh tay, mắt, trái tim cũng là các ECIWO. [2]
Giáo sư Trương phát hiện rằng mỗi ECIWO đều bao gồm và thể hiện cấu trúc của dạ dày, chân, tay và mọi bộ phận khác của cơ thể. Những cấu trúc này có thể được nhìn thấy qua kính hiển vi và mục đích của chúng là gì vẫn khiến các nhà mô học bối rối. Tuy vậy, việc châm cứu hay xoa bóp vào các cấu trúc này sẽ giải quyết được các bệnh tật phát sinh với các bộ phận cơ thể tương ứng. [2]
Giáo sư Trương đã phát minh ra một chiếc máy gọi là ElectroEciwoGraph, tạm gọi là “Máy quét ECIWO.” Chiếc máy này sẽ quét xương bàn tay thứ 2 của bệnh nhân bằng sóng siêu âm, phát hiện ra các bộ phận trong cơ thể gặp vấn đề và vị trí cần châm cứu hoặc xoa bóp dựa vào sóng siêu âm phản xạ về. Sau đó, các bác sĩ sẽ tiến hành châm cứu vào điểm này. Nhờ đó bệnh nhân có thể khỏi bệnh. [5]
Máy quét ECIWO (trái) và quá trình quét ECIWO (phải) (ảnh chụp màn hình Youtube)
Kết quả từ máy quét ECIWO và các bệnh tật được phát hiện từ kết quả quét (ảnh: infiniteunknown.net)
Bước tiến của khoa học sự sống
Lý thuyết sinh học ECIWO của Giáo sư Trương Dĩnh Thanh là một cuộc cách mạng trong nghiên cứu khoa học sự sống.
Ông đã lấy một phôi chuột non trước khi nó biệt hóa. Sau đó, ông cắt phôi non này thành năm mảnh và cấy vào tử cung của một con chuột cái. Kết quả là năm con chuột giống hệt nhau đã được sinh ra.
Thí nghiệm này của Giáo sư Trương đã đi sớm hơn 12 năm so với các nhà khoa học người Anh tạo ra chú cừu Dolly năm 1996 nhờ nhân bản vô tính một tế bào toàn năng của một con cừu cái.
Tiềm năng trị ung thư bằng lý thuyết ECIWO
Lý thuyết ECIWO đại diện cho một cách giải thích hoàn toàn mới về bản chất của bệnh ung thư. Giáo sư Trương Dĩnh Thanh cho rằng ung thư là các ECIWO mà sự phát triển của chúng đã bị dừng lại ở giai đoạn phôi dâu. Nơi các tế bào chưa biệt hóa và đang trong quá trình phân chia tế bào nhanh chóng.
Trong cuốn sách “Sinh học và Y học ECIWO”, giáo sư Trương đã đề xuất một chiến lược mới cho liệu pháp điều trị ung thư. Mục đích của chiến lược này không phải là tiêu diệt các tế bào ung thư, mà là tác động theo những cách khiến chúng tiếp tục phát triển và biệt hóa ngoài trạng thái phôi dâu của quá trình phát triển phôi. Với mục đích này, ông đề xuất sử dụng các biện pháp khắc phục khác nhau để thúc đẩy sự biệt hóa của tế bào, kết hợp với phương pháp bấm huyệt sinh học toàn ảnh.
Tại Hội nghị Quốc tế về Sinh học ECIWO ở Singapore, năm 1990, Giáo sư Trương đã trình bày kết quả điều trị 2.000 trường hợp bệnh nhân trong đó có 16 trường hợp bị là bị khối u lành hoặc u ác tính. Về hiệu quả điều trị, báo cáo của ông viết:
“Một mặt, phương pháp này có thể ức chế cơn đau, nôn mửa và nấc cụt, tăng cảm giác thèm ăn và giảm bớt các triệu chứng đối với ung thư ở giai đoạn sau, hiệu quả điều trị nhanh chóng và đáng tin cậy, lượng chất thải, đặc biệt là khối u lành tính, giảm rõ rệt.”
Trong bài báo khoa học có tên “Sinh học ECIWO và Châm cứu toàn ảnh Sinh học” trên tạp chí “Châm cứu trong Y học” Số 1, Năm thứ 10, đăng vào tháng 5/1992, tác giả bài báo Tiến sĩ, Bác sĩ người Na Uy Vilhelm Schjelderup cho biết:
“Kinh nghiệm lâm sàng hạn chế với phương pháp này mà chúng tôi có ở Na Uy cho đến nay đã hỗ trợ những quan sát này. Hiệu quả triệu chứng và cải thiện sức khỏe của ngay cả những trường hợp ung thư di căn gần giai đoạn cuối bằng phương pháp châm cứu sinh học toàn ảnh là đáng kinh ngạc (miễn là bệnh nhân không dùng thuốc gây độc tế bào). Kích thước của khối ung thư và khả năng khối u chuyển sang ác tỉnh giảm rõ ràng.”
Một lý thuyết khoa học bị đàn áp?
Lý thuyết sinh học toàn ảnh của Giáo Sư Trương Dĩnh Thanh được giới khoa học Trung Quốc thập kỷ 1980 đánh giá là một lý thuyết đột phá. Nhiều nhà khoa học Trung Quốc đề xuất trao giải Nobel sinh học cho Giáo sư Trương. [2, 3]
Tại Hội nghị Quốc tế về Sinh học ECIWO ở Singapore, năm 1990, có sự tham gia của 150 nhà khoa học đến từ 26 quốc gia, Thứ trưởng Bộ Y tế Trung Quốc lúc bấy giờ đã phát biểu:
“Sự ra đời của lý thuyết ECIWO và sinh học ECIWO là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử sinh học trong thế kỷ này. Nó sẽ mang lại sự thay đổi khái niệm trong hiểu biết của chúng ta về sinh vật. Sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của sinh học và y học, đặc biệt là khi hiện đại hóa y học điều trị như Y học cổ truyền Trung Quốc …..
…. Ngày nay sinh học ECIWO được ứng dụng rộng rãi vào y học, động vật học, thực vật học, dược thảo Trung Quốc, làm vườn, cổ sinh vật học, nghiên cứu ung thư, và một số lĩnh vực khác … Hơn 80 loại bệnh với 20.000 trường hợp đã được điều trị với tỷ lệ hiệu quả là hơn 90%. Chẩn đoán và trị liệu sinh học toàn ảnh đã được chứng minh là dễ học, thuận tiện và hiệu quả cao trên lâm sàng.”
Tuy vậy, vào cuối thập kỷ 1990, lý thuyết sinh học toàn ảnh của giáo sư Trương bị công kích dữ dội. Ông mất năm 2004. Nguyên nhân cái chết của ông không rõ ràng. Sau khi ông qua đời, khoa Sinh học toàn ảnh do ông làm Trưởng khoa ở Đại học Sơn Đông bị đóng cửa và các tác phẩm để đời của ông bao gồm tất cả sách giáo khoa và hơn một triệu trường hợp nghiên cứu điển hình gốc đã bị phá hủy. [3]
Cho đến nay, lý thuyết và kết quả nghiên cứu của giáo Sư Trương vẫn được nhiều bác sĩ châm cứu trên khắp thế giới sử dụng cho việc nghiên cứu và chữa bệnh. [4]
Thiện Tâm (Tri Thức VN)
Video về lý thuyết sinh học ECIWO của Giáo sư Trương Dĩnh Thanh:
Tài liệu tham khảo:
[1] Vilhelm Schjelderup: ECIWO Biology and Bio-Holographic Acupuncture; Acupuncture in Medicine 1/5/1992 [2] Stephen Coleman: ECIWO Acupuncture Points [3] Henry Makow: Chinese Suppress Acupuncture Discoveries
Làm sao bạn sẽ nhận ra người thực sự đã thức tỉnh? Làm sao bạn sẽ nhận ra rằng người đó là đích thực, đúng đắn, rằng điều người đó nói, người đó biết? Làm sao bạn sẽ nhận ra người đó? Đó là một trong những câu hỏi quan trọng nhất đã từng được hỏi trong nhiều thế kỉ, và nó đã không được trả lời thoả đáng bởi vì nó không thể được trả lời thoả đáng. Chỉ vài hướng dẫn có thể được cho.
Bạn không thể nhận ra được thầy đúng qua cái đầu. Với cái đầu của bạn, thầy có thể có vẻ rất phi logic. Để điều đó là một trong những hướng dẫn - bởi vì thầy giả cố gắng để rất logic. Ông ta phải thuyết phục bạn, và bạn có thể bị thuyết phục chỉ nếu ông ta logic. Ông ta thậm chí cố gắng cho logic về Thượng đế. Ông ta tạo ra thượng đế học, điều ngu xuẩn nhất trên thế giới - logic về Thượng đế! Không có cách nào chứng minh được Thượng đế một cách logic cả, nhưng thầy giả cố gắng chứng minh mọi thứ một cách logic bởi vì bạn chỉ có thể hiểu logic thôi.
Thầy thực nói kiểu ngược đời. Thầy là điều ngược đời sống. Thầy tự mâu thuẫn với bản thân mình, bởi vì chân lí là sự gặp gỡ của các cái đối lập. Và trong thầy thực chân lí đã xảy ra, các cái đối lập đã gặp gỡ. Các cực đối lập đã biến mất trong thầy; chúng đã trở thành một, chúng đã tan chảy trong một thực thể. Thầy cũng ngược đời như bản thân sự tồn tại. Điều đó nên là hướng dẫn đầu tiên.
Cái đầu chỉ có thể cho bạn chừng ấy thôi, cho nên nếu cái đầu của bạn cảm thấy ở đâu đó có cái gì đó phi logic, đừng trốn khỏi chỗ đó. Cái phi logic đó đơn giản nghĩa là cái gì đó huyền bí có đó. Bây giờ chuyển vào trong trái tim đi. Khi cái đầu của bạn nói điều gì đó là phi logic, cái đầu nói, "Điều đó ở ngoài mình - vứt nó đi. Mình không thể hiểu được nó. Nó là không thể hiểu được." Thay vì vứt nó đi, vứt cái đầu đi! Thế thì bạn sẽ có khả năng thấy thầy thực.
Thầy thực chỉ có thể được cảm thấy. Đấy là vấn đề của sự cởi mở yêu thương về phần bạn. Đệ tử phải mở trái tim. Thầy thực tới qua trái tim, không qua cái đầu. Thầy được cảm thấy như tình yêu, không như logic. Thầy được cảm thấy như bài ca, không như suy luận tam đoạn. Thầy được cảm thấy như thơ, không như văn xuôi. Thầy là điệu vũ; bạn có thể biết thầy chỉ qua việc tham dự.
Ở cùng với thầy đúng. Chỉ ở cùng với thầy, ngồi bên cạnh thầy trong im lặng sâu sắc, không định kiến, không ý tưởng cái gì đang xảy ra, cái gì đang diễn ra. Cái gì đó nhảy từ thầy vào trong tim bạn. Bạn có thể cảm thấy nó. Nó là năng lượng, nó là hiện tượng năng lượng. Nó không phải là câu hỏi về lí thuyết, về bất kì giả thiết nào, về triết lí nào. Nó là cú nhảy của năng lượng, cú nhảy lượng tử. Cái gì đó vô hình toả ra từ thầy thực và thấm vào đệ tử thực. Và ai là đệ tử thực? - người có trái tim để mở.
Và một khi bạn đã cảm thấy sự hiện diện của thầy thực, Phật nói: Đi cùng người đó một cách vui vẻ... không ngần ngại, không nghi ngờ - vui vẻ, nhảy múa, mở hội. Bạn đã tìm thấy thầy. Không thể có phúc lạc nào lớn hơn điều đó, bởi vì trên đường bạn sẽ thấy nhiều vấn đề mà không có thầy. Bước đầu tiên sẽ là không thể được; chỉ thầy mới có thể đẩy bạn. Và bạn có thể cho phép thầy đẩy bạn chỉ nếu bạn tin cậy.
Khi đệ tử cảm thấy chuyện tình như vậy với thầy, thế thì mọi sự trở thành có thể. Và thế thì có nhiều nguy hiểm trên đường. Bước thứ nhất là quan trọng nhất; thế rồi khi bạn đi ngày càng sâu hơn và sâu hơn nhiều điều nữa phải bị vứt đi. Ai sẽ bảo bạn vứt cái gì và không vứt cái gì? Điều đó tất cả đều là không biết với bạn. Ai đó cần thường xuyên quan sát bạn.
Và thế rồi tới bước cuối cùng, khi bản ngã chết đi. Điều đó cũng rất khó - dường như bạn đang chết. Thầy phải giúp bạn chết đi bởi vì chỉ qua cái chết bạn sẽ được tái sinh. Thầy phải giúp bạn hiểu rằng đây không phải là cái chết. Hạt mầm biến mất trong đất không phải là chết đi; nó thực sự được sinh ra như cây. Và dòng sông biến mất trong đại dương không phải là chết đi, nó đơn giản trở thành đại dương. Nó không mất cái gì cả, nó thu được còn nhiều hơn. Nó không mất cái gì và thu được tất cả.