Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

Sự thật lịch sử và quyền lợi dân tộc

TRẦN VĂN CHÁNH

Năm 2007, trong khi tình hình quan hệ Việt-Trung vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, được biết có một quyển sách do NXB Lao Động vừa ấn hành xong thì có lệnh thu hồi. Sách này tập hợp những bài viết của một tác giả chuyên khảo về sử địa-văn hóa Việt Nam và khu vực Đông Á-Đông Nam Á, không có một lời nào chỉ trích Trung Quốc, nhưng chỉ vì có một bài viết liên quan đến cuộc đăng quang năm 2000 của tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Trần Thủy Biển vốn bị Trung Quốc công kích kịch liệt vì chủ trương “Đài Loan độc lập” của ông này. Việc thu hồi quyển sách như vậy đã được thực hiện vội vã bởi một lý do khá mong manh, có lẽ xuất phát từ những chuyện nhạy cảm về ngoại giao giữa hai bên tranh chấp.
Trước đó một năm, khi chủ biên-hiệu đính quyển Từ điển Lịch sử Trung Hoa (NXB Thanh Niên, 2006) vốn được biên soạn căn cứ chủ yếu vào một sách chữ Hán có đề tài tương tự do Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã ấn hành năm 1996, đến mục từ “Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979”, chúng tôi đã tự động bỏ bớt trước khi qua khâu biên tập chính thức của NXB, vì biết đây thuộc vấn đề nhạy cảm, nội dung lại nói đại khái Việt Nam gây hấn và Trung Quốc cần phải “dạy cho chúng bài học”… Tuy có thể viết lại mục từ này theo một cách trình bày khác, trung thực hơn, nhưng suy đi nghĩ lại, đã quyết định bỏ đi để khỏi sinh phiền. Thật ra, chúng tôi đơn giản chỉ biên dịch thôi chứ chưa hẳn viết sử, nhưng trong một quyển lịch sử Trung Quốc mà bỏ qua giai đoạn chiến tranh biên giới Việt-Trung (các năm 1979, 1988…) thì rõ ràng là thiếu, và những người biên soạn như vậy coi như cũng không làm tròn trách nhiệm đối với độc giả.
Nhắc lại vài câu chuyện nho nhỏ trên đây để bây giờ chúng ta cũng có phần nào thông cảm với những người biên soạn sách giáo khoa về môn Lịch sử, khi họ, vì những lý do tế nhị tương tự, cũng đã bỏ qua một nội dung quan trọng khiến cho thế hệ trẻ ngày nay, hầu như không ai biết gì về cuộc chiến tranh đó cả, hoặc chỉ biết một cách rất lờ mờ khi có ai tò mò tìm đọc những bài viết không chính thức trên mạng Internet.
Nói “thông cảm” vì thật ra những người có trách nhiệm viết sử giáo khoa chẳng phải hèn nhát gì mà không dám viết ra sự thật, nhưng có thể do không được phép, hoặc do ảnh hưởng, cách suy diễn từ những chỉ thị, hướng dẫn gì đó của cơ quan ban ngành cấp trên được phát ra theo một quan điểm hay cách nhận thức nhất định nào đó của một số quan chức có trách nhiệm hữu quan.
Thời gian mấy tháng gần đây, do tình hình diễn biến ngày một khác đi trong mối bang giao Trung-Việt, sau một thời gian dài phía Việt Nam gần như giấu giếm, cuộc chiến tranh Việt-Trung khởi từ tháng 2. 1979 mới được khơi lại một cách công khai trên một số phương tiện truyền thông, đi cùng với việc một số bậc thức giả đặt vấn đề cần phải đưa đầy đủ vào sử sách những nội dung liên quan đến cuộc chiến đấu dũng cảm bảo vệ biên giới năm 1979 của nhân dân Việt Nam.
Cho tới nay, sách giáo khoa môn Lịch sử của Việt Nam chỉ có không đến 10 dòng viết về cuộc chiến tranh biên giới, mà theo GS Vũ Dương Ninh (người tham gia biên soạn bộ sách giáo khoa lịch sử hiện hành) thì cách nay 7-8 năm, “đưa được chừng ấy dòng vào sách giáo khoa cũng là một sự quyết tâm của các tác giả” (xem Tuổi Trẻ, 20.2.2013).
Ở đây có một vấn đề chung hết sức phức tạp đối với mọi người làm sử trong bối cảnh lịch sử cụ thể hiện tại, đó là mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và quyền lợi dân tộc. Nếu việc nói lên sự thật như một đòi hỏi tất yếu của khoa học lịch sử mà có phương hại cụ thể đến quyền lợi quốc gia, trong điều kiện mối quan hệ đặc thù giữa hai nước như trong trường hợp Trung Quốc với Việt Nam thì người viết sử có thể làm được những gì?
Nói chung, về cơ bản cũng phải tôn trọng sự thật lịch sử.  
Các sử gia Trung Quốc, vì những lý do thuộc về chính trị, có lẽ họ cũng vấp phải  những trục trặc ngoài ý muốn khi bắt buộc phải xuyên tạc lịch sử theo ý đồ chính trị của nhà cầm quyền. Vài quyển lịch sử Việt Nam do người Trung Quốc gần đây viết bằng chữ Hán, như Việt Nam thông sử của Quách Chấn Đạc-Trương Tiếu Mai xuất bản năm 2001 đã cố ý giải thích sai một số sự kiện lịch sử, như cho Việt Nam đã trở thành đất đai của các vương triều Trung Quốc dưới thời Bắc thuộc, nên những cuộc nổi dậy của Trưng Trắc, Lý Bí, Khúc Thừa Dụ… đều bất hợp pháp, là hành động phản loạn nhằm thiết lập chính quyền phong kiến cát cứ, tách khỏi đại gia đình đa dân tộc thống nhất Hoa Hạ (xem bài viết của Trần Nghĩa, Tạp chí Hán Nôm, 2(63), 2004, tr. 64). Riêng trong cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, sự xuyên tạc còn trắng trợn hơn khi các sách giáo khoa môn Sử cũng như các phương tiện thông tin tuyên truyền khác đều dạy cho học sinh và mọi người Trung Quốc rằng “đường lưỡi bò” chín đoạn trên biển Đông thuộc chủ quyền Trung Quốc, còn Việt Nam là nước chủ động xâm lăng Trung Quốc nên Trung Quốc cần phải tự vệ và “dạy cho chúng bài học”…
Ở đây, rõ ràng, vì quyền lợi dân tộc hẹp hòi mà đã cố ý bóp méo sự thật lịch sử, bất chấp việc làm như thế chỉ có lợi cho ý đồ xâm lược (chưa chắc thành công) mà không thấy cái hại lâu dài là sự giả dối vì lợi ích chính trị nhất thời sẽ dần dần làm biến dạng những đức tính tốt đẹp cố hữu của nhân dân Trung Quốc, thứ vốn xã hội cần thiết để dân tộc Trung Quốc có thể xây dựng tương lai cho mình một cách bền vững mà vẫn không cần xâm hại đến những dân tộc khác.
Sự bất ổn còn thể hiện ở chỗ có sự nhập nhằng giữa cái chính trị nhất thời với những giá trị nhân bản lâu dài mà một quốc gia cần phải tạo được cho công dân của mình thông qua các hoạt động văn hóa-giáo dục.
Cách làm sai lệch kiểu như trên, có thể nói, không đâu rõ rệt bằng ở nhà cầm quyền Trung Quốc, chính vì thế Việt Nam nên rút bài học từ những kinh nghiệm sai lầm này, trên cơ sở nhận thức rằng văn hóa-giáo dục bao gồm những giá trị lâu dài gắn liền với sự thật chứ không phải với những điều giả dối. Do vậy, khi tính chuyện đưa nội dung cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung vào sách giáo khoa như nhiều người đang đề nghị thì chúng ta cứ mạnh dạn làm sớm, nhưng tuyệt đối không làm theo cách tuyên truyền giả dối kiểu Trung Quốc, nghĩa là chỉ cần viết trung thực, sao cho học sinh nhận biết được sự thật lịch sử khách quan, để từ đó tự tìm ra được nhận thức, thái độ ứng phó thích hợp.
Phải thành thật nhận rằng, trong quá khứ, khi hai nước còn thân thiện với nhau, đường lối chính trị hóa triệt để học đường theo kiểu Trung Quốc cũng có ảnh hưởng nhất định tới cách hành xử của Việt Nam trong một số vấn đề thuộc phạm vi giáo dục. Nhớ lại hồi năm 1979, sau cuộc đụng độ ở biên giới Việt-Trung, Bộ Giáo dục Việt Nam đã có văn bản chỉ thị xóa bỏ trong sách giáo khoa văn học tất cả những bài học liên quan đến văn học, văn hóa, đời sống Trung Quốc, như bài “Vịt Bắc Kinh” ở bậc tiểu học, các bài về kinh Thi, Tây du ký… ở bậc trung học. Đến sau, khi hòa hoãn trở lại, những bài học này mới được phục hồi. Việc làm có vẻ ấu trĩ của một thời người ta hầu như không phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa văn hóa-giáo dục với chính trị, và giữa những giá trị phổ biến nhân loại với những lợi ích dân tộc nhất thời.
Trong khá nhiều trường hợp, sự chi phối của những quyền lợi chính trị nhất thời đôi khi bất lợi khi đặt toàn bộ vấn đề lợi ích ở mức độ dân tộc hay nhân loại trên một bình diện rộng lớn hơn, và công việc nghiên cứu lịch sử vì vậy trước sau vẫn đòi hỏi tính trung thực, để giáo dục công dân trong nước trước hết sự lương thiện rồi mới đến những phẩm chất khác như yêu nước, yêu lao động…. Trong chiều hướng đúng đắn này, với tầm nhìn xa về lợi ích lâu dài, ngay cả khi cần viện dẫn đến quyền lợi dân tộc,  chỉ trong trường hợp quyền lợi đó không chính đáng, phi chính nghĩa, xâm hại đến quyền lợi các dân tộc khác, người ta mới cần đến việc bóp méo sự thật lịch sử như Trung Quốc vẫn thường làm. Còn như đường đường chính chính, không việc gì phải khổ sở uốn cong ngòi bút! 
Cách viết sử trung thực-khoa học nói chung chỉ cần trình bày đúng các sự kiện như chúng đã diễn ra trong quá khứ rồi kết nối lại thành một trình tự dễ theo dõi mà không nhất thiết phải chêm thêm vào những lời bình luận chủ quan theo hướng tuyên truyền.
Nhân nhắc đến những mâu thuẫn giữa Trung Quốc-Việt Nam trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, có liên quan đến cuộc hải chiến anh dũng của quân đội chế độ cũ năm 1974 chiến đấu bảo vệ Hoàng Sa, nhiều người khen ngợi tập hồi ký Can trường trong chiến bại của Hồ Văn Kỳ Thoại là viết khá tốt (tái bản lần thứ nhất ở Hoa Kỳ, năm 2007). Tôi không đủ khả năng thẩm tra độ trung thực tất cả các sự kiện được kể ra trong cuốn sách đó, nhưng phải thành thật nhận rằng, với tư cách là một đô đốc hải quân chỉ huy cuộc hải chiến lúc bấy giờ, tác giả đã trình bày diễn biến cuộc đụng độ Việt-Trung khá đầy đủ chi tiết, xứng đáng được dùng làm sử liệu tham khảo. Còn ở những chuyện khác (ngoài cuộc hải chiến), tác giả cũng chỉ tuần tự kể việc theo ký ức và theo một số tài liệu tham khảo dẫn ở cuối sách, đặc biệt mặc dù thuộc “bên thua cuộc”, ông không hề có một lời lẽ khiếm nhã nào đối với bên thắng cuộc, không vị nể ai mà cũng không có ác ý với ai.       
Năm ngoái, Hội Sử học Việt Nam có đặt vấn đề lập kế hoạch biên soạn lại một bộ thông sử Việt Nam theo hướng trung thực hơn, vượt ra ngoài những giới hạn của vấn đề ý thức hệ. Thiết tưởng đây là chiều hướng tích cực đáng được thúc đẩy, và có thể nhân cơ hội soạn lại này, chỉnh sửa ngay một số những sự kiện lịch sử sai lạc (như nói Mai Thúc Loan khởi nghĩa năm 722 vì uất ức trong chuyện phải tham gia đoàn người gánh trái vải nộp cống cho nhà Đường…, nói trong Lịch sử lớp 6, tr. 64; hay một số nhận định chưa chính xác về triều Nguyễn, về Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh…), đồng thời đưa thêm những nội dung mới lâu nay kiêng kỵ vì những lý do chính trị này khác, như cuộc hải chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974, cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung những năm 1979, 1988…
Nếu đã có chính nghĩa đàng hoàng, thì sự thật lịch sử và quyền lợi dân tộc, xét theo hướng lợi ích lâu dài, chẳng những không hề trái nghịch mà còn thống nhất, dung hợp được với nhau một cách hài hòa, biện chứng.
                                                                                                                                                             

Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013

“thủ trưởng” cưỡng dâm.

Chỉ trong vòng một tuần lễ, báo chí Việt Nam bỗng nhiên bán chạy như tôm tươi, đặc biệt là tờ nào có loan nơi trang nhất vụ kiều nữ Hải Dương cưỡng dâm tài xế taxi của các hãng Mai Linh, Hoàng Hải, Hoàng Minh. . . Bài báo đầu tiên đưa tin này là tờ Người Đưa Tin của Hội Luật gia Việt Nam, có văn phòng tại Hà Nội và bài viết này của tác giả Diệu Nam. Bài báo viết:
“Tại bãi đỗ xe của hãng Mai Linh trước cửa Bệnh Viện đa khoa tỉnh Hải Dương, tài xế X chia sẻ: “Ban đầu, thủ đoạn của N hết sức đơn giản. Khi tài xế lái xe đến đón, N thường yêu cầu đánh xe vào trong sân của biệt thự. Sau đó yêu cầu tài xế lên phòng ngủ xách hàng loạt đồ nặng từ phòng ngủ của ả từ tầng 3 xuống. Lúc đó ả đã ra khóa cửa và cho thuốc kích dục vào nước mời tài xế. Xách quá nhiều đồ, mệt, nên hầu như tài xế nào cũng uống vài ngụm nước. Sau những câu chuyện tếu táo, thuốc kích dục trong nước ngấm, tài xế đờ đẫn, kiều nữ này bắt đầu thỏa mãn dục vọng của mình”.
Như để chứng minh là câu chuyện có thật, Diệu Nam đưa ra một nhân vật có tên là D với các chi tiết như sau:
“Sáng sớm, ả kiều N gọi cho D vào đón, nhưng đã vào chẳng có đường ra. Sau 2 ngày bị N lạm dục, D lê lết bò ra cửa kêu cứu. Do nhà rộng, cửa đóng kín, chẳng ai nghe tiếng D. Phải gắng hết sức D mới bấm được số của quản lý cầu cứu. Khi quản lý đến, D như kẻ mất hồn, thều thào: "Cứu em với, em chết mất, nó bắt em quan hệ hơn 30 lần rồi".
Vấn đề đặt ra: Tuy tờ báo chụp tấm ảnh căn nhà của người bị tố cáo là dâm nữ tên Ngọc (hay nạn nhân) tuy nhiên bài báo không chứng minh được tài xế tên gì, chạy cho hãng nào, thời gian cụ thể bị cưỡng dâm và nhất là anh ta có báo cáo vụ việc cho công an hay không nếu sức khỏe bị suy kiệt như “nạn nhân” D như mô tả.
Hậu quả nhãn tiền: Căn nhà trong tấm hình đã được nhận dạng là của bà Phạm Thị Thanh N. (mà bài báo của Diệu Nam viết là Ngọc) một Việt kiều Mỹ, chủ căn nhà trong ảnh mà bài báo đăng tải. Bà Thanh N đã gọi cho hãng tin VTC sau khi đọc được bài này và cho biết bà đã sang Mỹ được 14 năm, có chồng và hai con, hiện sống tại Texas. Bà N khẳng định không hề có bất cứ một tài xế taxi nào bị cưỡng dâm như vậy cả. Bà nói sẽ về Việt Nam và làm cho rõ chuyện này và có thể sẽ khởi tố tờ báo về tội mạ lỵ công dân.
Câu chuyện chưa ngã ngũ nhưng người ta có thể nhìn thấy những yếu tố lá cải quá lớn trong bài báo của Người Đưa Tin. Kích động dục tính qua câu chuyện không khác mấy với những mẩu chuyện dâm thư đầy dẫy trên mạng Internet. Nhưng khác với Internet, vốn khó truy được người viết hay post lên mạng, nếu được cũng mất khá nhiều thời gian và công sức, nhưng đối với một tờ báo, dù là của nhà nước hay một hội lớn như Hội luật gia Việt Nam thì cơ quan chủ quản không còn đường thoát, ngoại trừ con đường hối lộ để chạy tội.
Qua câu chuyện này người đọc báo có quán tính bầy đàn sẽ rung đùi thích chí. Người đứng đắn sẽ lắc đầu ngao ngán, người ưu tư cho văn hóa Việt sẽ tuyệt vọng vì một nền báo chí đã bị tinh trùng và nội y bao phủ.
Còn người trong nghề thì sao?
Họ sẽ theo gương nhà báo cung đình Xuân Ba viết bài phóng sự chuyến viêng thăm các nhân vật đỉnh cao của Việt Nam trên tờ Tiền Phong để tránh mang tiếng là lá cải chăng?
Nếu Người Đưa Tin giật tít: “Hoang mang kiều nữ có sở thích... cưỡng hiếp lái xe taxi” đang dậy sóng dư luận thì một bài khác của Xuân Ba trên tờ Tiền Phong lại có vẻ hiền lành, ngoan ngoãn với cách viết rất kinh điển của một nhà báo có kinh nghiệm viết cho cung đình nhiều chục năm qua.
Vấn đề đặt ra là cái tít: Thủ tướng Hun Sen thăm “thủ trưởng” cũ Lê Khả Phiêu và Lê Đức Anh. Hai chữ thủ trưởng được báo Tiền Phong cẩn thận đặt trong ngoặc kép.
Nhưng dù bị đặt bên trong ngoặc kép như vậy hai chữ này cũng “bức xúc” tung ngoặc chạy ra. Vừa chạy vừa la to: “Ối làng nước ơi Việt Nam sỉ nhục Thủ tướng Hun Sen của Campuchia”!

Bài viết của Xuân Ba khó thể được gọi là một bài báo. Nó là một bài “tán” đúng nghĩa khi mặc dù được nằm nơi trang nhất của tờ báo, thay vì viết theo thể phóng sự của báo chí tác giả đã sử dụng những câu văn mà khi đọc lên người đàng hoàng không thể không nhăn mặt.
Với một lô một lốc những gì ông Hun Sen được đào tạo, giúp đỡ từ Việt Nam để leo lên ghế thủ tướng, nhà báo Xuân Ba đã giúp cho nhân dân Campuchia vốn đang biểu tình chống ông vì đã cầm quyền quá lâu, quá lệ thuộc vào Việt Nam và nhất là đã thỏa thuận cho Việt Nam lấn chiếm biên giới ở các tỉnh Tây Nam biết thêm những gì mà có thể họ còn lờ mờ vê ông Thủ tướng thân “duồn” nầy.
Là nhà báo nhưng ông Xuân Ba không ý thức được sự cao đạo, khiêu khích thậm chí khinh bỉ khi dùng từ “thủ trưởng” để nói về một thủ tướng đương nhiệm của nước bạn.
Cái sự nhơn nhơn vô ý thức đó của ông đã di truyền từ hệ thống mà ông là cây viết
cốt lõi của nó. Ông có thể biết nhưng bất cần. Ông cần hai ông Phiêu và Anh hơn vì hai ông này sẽ vỗ đầu ông mà kêu lên “ngoan đấy” nhưng ông Hun Sen thì không thể ban cho ông chút lợi lộc nào.

Bài báo của ông Xuân Ba toát lên một sự thật: Việt Nam luôn coi Campuchia là nước chịu ơn vì lãnh đạo của nó thừa nhận và hành động công khai như vậy. Tuy nhiên là báo chí, tờ Tiền Phong không thể giật một cái tít có thể gây chiến tranh và chí ít có thể gây bạo loạn trong đất nước Campuchia.
Lãnh tụ đối lập Sam Rainsy của Campuchia đã bỏ bao nhiêu tiền cho nhà báo Xuân Ba để ông này giật cái tít và viết một bài báo sặc mùi quỳ gối của Hun Sen như thế?

Báo chí là khuôn mặt văn hóa một quốc gia nên khi đọc bài của tờ Người Đưa Tin người ta thấy Việt Nam khó thoát ra khỏi căn nhà thổ mang cái tên rất mỹ miều: thuần phong mỹ tục.

Báo chí là khuôn mặt chính trị của một quốc gia nên qua bài báo của Tiền Phong khuôn mặt chính trị ấy đã lộ ra sự lỗ mảng khó tha thứ. Khi đặt một nguyên thủ quốc gia nước bạn trong vai trò một “anh lính” dưới quyền thì nó không còn là khiếm khuyết nữa. Nó đại diện cho một thứ quyền uy mà nhiều người, cũ cũng như mới, trong Bộ chính trị thèm khát: Thủ trưởng của chư hầu.

'Chính Mao đã quyết định đánh Hoàng Sa'

Mao Trạch Đông là người 'quyết định' tấn chiếm Hoàng Sa từ tay của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và chính quyền của ông Mao chưa bao giờ giúp đỡ Việt Nam 'bất vụ lợi', theo một nhà nghiên cứu từ Việt Nam.

Áp phích Mao Trạch Đông
Mao là người chủ xướng cuộc tấn chiếm Hoàng Sa, theo nhà nghiên cứu VN.



Trao đổi với BBC về di sản của Mao Trạch Đông trong quan hệ Trung - Việt trong dịp đánh dấu 120 năm sinh của ông Mao, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy từ Hà Nội cho rằng chính quyền Mao chưa bao giờ 'vô tư' giúp Việt Nam và luôn có 'mưu đồ' trên Biển Đông.

Cựu Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu giai đoạn từ 1993-1996 khẳng định Trung Quốc chỉ giúp Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh do thấy Việt Nam 'là một món hàng tốt' có lợi cho vị thế và bang giao quốc tế của Trung Quốc, có thể giúp ích cho Bắc Kinh trước nguy cơ của người Mỹ ở khu vực.

Về sự kiện Trung Quốc tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ông Dy nói:

"Việc đánh chiếm Hoàng Sa lần thứ hai ngày 17/1/1974, đánh chiếm một nửa Hoàng Sa của Việt Nam, nói thẳng là Mao Trạch Đông là người quyết định đánh,"

"Tôi có tài liệu, Chu Ân Lai chính là người vạch ra kế hoạch, Diệp Kiếm Anh là người đôn đốc thi hành và Đặng Tiểu Bình lúc đó mới được phục hồi ra cũng đi sang Cục Tác chiến của Trung Quốc để áp trận."

Nhà nghiên cứu nói quyết định này của Mao, cũng như các chính quyền kế thừa của ông về sau, phản ánh tính 'nhất quán' trong điều mà ông gọi là 'mưu đồ' của Trung Quốc trên Biển Đông.

"Cái đó là âm mưu nhất quán của Trung Quốc trong vấn đề bành trướng, chiếm cứ trên đảo thôi, nó không có gì lạ cả," ông Dy nói.

Nhà ngoại giao kỳ cựu cũng nói thêm hành động của Bắc Kinh chỉ có thể tiến hành được do có sự 'bật đèn xanh' và một thái độ được cho là 'không đứng đắn' của Washington mà khi đó đang là một đồng minh của chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn.

"Phải nói thẳng đây là một hành động không đứng đắn của người Mỹ...

"Thua mất mặt ở Việt Nam, họ xấu hổ, nên nhà cầm quyền Mỹ lúc bấy giờ bật đèn xanh để cho Trung Quốc đánh chiếm Việt Nam."



'Việt Nam là một món hàng'


Ông Dương Danh Dy nêu quan điểm cho rằng sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với chính quyền cộng sản Việt Nam trong các cuộc chiến với người Pháp và người Mỹ là có tính toán.
Nhả nghiên cứu Trung Quốc này nói: "Trung Quốc từ xưa tới nay chưa bao giờ vô tư viện trợ Việt Nam như họ vẫn nói đâu, mà họ viện trợ cho Việt Nam đều nhằm mục đích trục lợi trên cái đó.
"Bắt đầu từ Hội nghị Geneve về Đông Dương, Trung Quốc thấy Việt Nam là một món hàng tốt, nhờ có Việt Nam mà Trung Quốc mới được mời đến tham dự Hội nghị Geneve năm 1954 về Đông Dương, với tư cách một nước lớn ở khu vực có liên quan...
"Trong quá trình diễn biến của Hội nghị Geneve, Trung Quốc càng thấy rõ Việt Nam là món hàng có thể dùng nó để trao đổi với Anh, với Pháp, sau này cả với cả Mỹ, trong quan hệ."
Theo cựu quan chức ngoại giao này, Trung Quốc đã giúp Bắc Việt 'chống Mỹ' vì quan ngại miền Bắc Việt Nam rơi vào tay người Mỹ, thì Trung Quốc 'sẽ không được yên' và không thể làm được cuộc 'cách mạng văn hóa'.
Tuy nhiên, ông Dy cũng thừa nhận Việt Nam đã nhận được những sự giúp đỡ 'to lớn' và 'quan trọng' của Trung Quốc trong các cuộc chiến tranh mà ông xem đó là sự 'nhường cơm, sẻ áo' của 'nhân dân Trung Quốc'.
Ông nói: "Xưa nay khẳng định đúng là nhân dân Trung Quốc nhường cơm, sẻ áo, giúp đỡ chúng tôi"
"Nhưng ban lãnh đạo Bắc Kinh đã lợi dụng những tình cảm đó của người dân Trung Quốc để dùng vào mục đích không cao đẹp tí nào cả."
Cuối cùng, đánh giá về việc chính Trung Quốc đợt này chỉ kỷ niệm sinh nhật Mao Trạch Đông 'có chừng mực', nhà nghiên cứu nhận định điều này là do phe không muốn 'đề cao' ông Mao một cách rầm rộ trong nội bộ Trung Quốc đang 'tạm thời thắng thế'.

Sự thật những tấm HCV Olympic Toán quốc tế của Việt Nam qua lời kể nguyên Phó Chủ tịch FPT

Phải thừa nhận rằng nền giáo dục Mỹ tốt hơn Việt Nam. Chúng ta thường gửi con đi Mỹ học, không thấy người Mỹ nào xin học ở Việt Nam.

Sự phát triển của một người phụ thuộc hai yếu tố: di truyền và môi trường. Do các yếu tố di truyền nên người Việt Nam khó có thể ganh đua với người Mỹ trong các môn sức mạnh cơ bắp như chạy, nhảy... Nhưng với các môn thuần túy đầu óc và không cần đầu tư nhiều tiền thì có thể ngang ngửa như cờ, toán...
Về lý thuyết thì người Việt Nam cũng có số tế bào não như các dân tộc khác. Kiến thức cơ bản của nhân loại đã tích lũy được qua hàng triệu năm tiến hóa thì chúng ta có điều kiện tiếp cận như Mỹ nhờ có Internet.
Tóm lại nếu chỉ thi bằng bút chì và bàn phím, không thi vật tay thì Việt Nam có điều kiện ngang ngửa với Mỹ.
Còn môi trường, có lẽ cái này Việt Nam luôn thiếu.
Một ví dụ điển hình là việc Việt Nam tham gia thi Toán quốc tế từ năm 1974. Chúng ta tự hào là một nước bị chiến tranh tàn phá 20 năm mà vẫn đạt được huy chương này nọ, chỉ thua Liên Xô, Đông Đức và sau này thua Mỹ...
Sự thật những tấm HCV Olympic Toán quốc tế của Việt Nam qua lời kể nguyên Phó Chủ tịch FPT (1)
Thực ra là thế nào?
Tôi tham dự đội tuyển Việt Nam năm 1975. Đoàn nước ta có 8 học sinh (số lượng tối đa cho một đoàn) giành được một huy chương Bạc, 3 huy chương Đồng và đứng thứ 10.
Mỹ cũng tham gia lần thứ hai, có 8 học sinh giành được 3 huy chương Vàng, một huy chương Bạc, 3 huy chương Đồng và chỉ đứng sau Hungary và Đông Đức.
Tôi nhờ thầy Phan Đức Chính, Trưởng đoàn Việt Nam hồi đó, hỏi xem Mỹ chọn và dạy học sinh đi thi thế nào?
Mỹ làm thế này: Họ thông báo là thế giới tổ chức International Math Olympics. Mỗi nước được cử tối đa 8 học sinh phổ thông, tuổi dưới 19, cùng một Trưởng đoàn tham gia cung cấp bài thi (giới hạn trong kiến thức phổ thông) để hội đồng chọn ra 6 bài cho học sinh làm, và cùng chấm điểm tất cả các bài thi kể cả của đoàn mình. Chi phí đi lại nước dự thi chịu. Chi phí ăn ở trong quá trình thi nước đăng cai trả.
Mỹ sẽ cử đoàn đi, chọn các em dưới 19 tuổi, chưa học đại học. Nếu số lượng đăng ký trên 8 thì tổ chức thi loại, dưới 8 thì ai đăng ký đều được đi. Đoàn tự thu xếp kinh phí (gia đình cho tiền, xin tài trợ của tổ chức, cá nhân). Chính phủ Mỹ không cho tiền, cũng chẳng dạy dỗ gì cả. Mặc dù là trò chơi vớ vẩn nhưng Mỹ luôn đứng trong Top 3.
Việt Nam và các nước XHCN làm thế này: Từ cấp 2 (lớp 5-7) đã phải thi đấu vào lớp chuyên của trường, tỉnh/thành phố. Đến cấp 3 (lớp 8-10) lại thi đấu vào trường chuyên của Bộ Đại học, của tỉnh. Hình thành một loại "gà nòi" chỉ để thi đấu: Chuyên toán của Bộ Đại học có ĐH Tổng hợp, Sư phạm Hà Nội, Sư phạm Vinh. Chuyên toán của các tỉnh như Chu Văn An (Hà Nội), Lam Sơn (Thanh Hóa), Lê Hồng Phong (Nam Định)...
Rồi "bọn gà" này lại qua hàng chục vòng đấu để chọn ra 14 "con" vào đội tuyển toán quốc gia. Từ đó, sau 90 ngày khổ luyện qua 45 bài kiểm tra lấy ra 8 "con gà" để đi thi. Tiền tuy không nhiều nhưng do ngân sách Nhà nước chi trả cả.
Trước khi ra nước ngoài, Bộ Tài chính cho mỗi thành viên trong đoàn mượn một bộ comple, 2 áo sơ mi, một đôi giày, về thì phải trả, không có tất.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời cả đoàn vào dinh đãi một bữa phở úy lạo trước khi lên đường và hỏi:
- Các cháu có nguyện vọng gì?
Đáng lẽ phải nói là quyết tâm mang vinh quang về cho tổ quốc Việt Nam anh hùng thì tôi lại bảo:
- Chúng cháu được cho mượn giày nhưng không có tất, đau chân lắm, cháu sẽ đi dép lê.
Dưới gầm bàn, thầy Chính đá tôi một phát khá đau.
Thủ tướng chảy nước mắt nói với ông Tạ Quang Bửu, khi đó là Bộ trưởng Bộ Đại học:
- Nước nhà vừa trải qua chiến tranh, còn nghèo lắm, nhưng một đôi tất sao không lo được cho các cháu?
Khi đó chỉ có đúng một loại tất của Trung Quốc bày bán ở cửa hàng Bách hóa Bờ Hồ giá 7 đồng một đôi.
Ngay lập tức, một núi công văn, điện thoại giữa Bộ Đại học, Bộ Tài chính và Văn phòng Chính phủ được trao đổi và kết quả đến chiều có văn bản cấp cho mỗi cháu 3 đồng để mua tất. 4 đồng thiếu thì bảo bố mẹ cho, bố mẹ không có thì bác Bửu bù. Có lẽ đấy là vụ PPP đầu tiên của Việt Nam.
Mặc dù thuần túy chuyên môn nhưng ngay từ năm 1975 đã có vô số yếu tố phi chuyên môn len vào quá trình lựa chọn:
- Phải có đủ thành phần nam, nữ.
- Phải cân đối số lượng giữa các trung tâm "gà" (hồi đó là ĐH Tổng hợp và ĐH Sư phạm).
- Các thầy từ lò Sư phạm rỉ tai cho "gà" của trung tâm mình đáp án trước các vòng kiểm tra.
- Thêm cả yếu tố đạo đức, lý lịch, thành phần giai cấp nữa. Trong đội tuyển năm 1975 có một bạn rất giỏi bị loại vì đã tố cáo các thầy Sư phạm "gà" bài cho học sinh trường mình. Lý do: "Thiếu ý thức kỷ luật, có vấn đề về đạo đức". Có lẽ cũng là vụ "Đồi Ngô" đầu tiên của ngành giáo dục Việt Nam.
Duy nhất cậu này trong số mấy ngàn "con gà" khóa 1975 cho đến bây giờ còn làm toán và sống bằng nghề giảng dạy toán cao cấp tại một trường đại học danh tiếng của Mỹ.
Theo tôi biết thì hàng chục ngàn "con gà" đó sau này không làm nên cơm cháo gì trừ Ngô Bảo Châu đã làm rạng danh nền toán học Pháp và đang cống hiến cho một trường đại học ở Mỹ.
Thế khác nhau chỗ nào?
Khác nhau ở chỗ Chính phủ Mỹ dứt khoát không dùng tiền ngân sách tài trợ cho Khoa học, Văn hóa, Thể thao.
Nhà nghiên cứu khoa học, nhà văn, diễn viên, cầu thủ tự sống bằng tiền nghiên cứu theo hợp đồng với cơ quan Chính phủ hay với các công ty, giảng dạy, bán sách, bán phim, thi đấu. Thích thì tự hội họp với nhau mà trao giải Field, Oscar... phong nhau làm Giáo sư, Viện sĩ...
Còn Việt Nam thì suốt ngày cãi nhau về chuyện Nhà giáo Nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú và xin Nhà nước tài trợ từ hát xẩm đến cầu lông.

Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2013

Kiều lão Đà Lạt

Lang thang ở Đà Lạt, tôi có cái thú, đoán xem người nói chuyện với mình có phải là dân gốc Đà Lạt không. "Gốc" ở đây hiểu là nếu không sinh ra, thì ít ra cũng lớn lên và ở đấy cỡ bốn hay năm chục năm. Với trò chơi này, tôi là kẻ "độc cô cầu bại", ít nhất là cho đến lúc này, khi tôi vừa trở thành cư dân "đờ-mi" Đà Lạt cuối năm ngoái, theo cái kiểu vui ở buồn đi, đi chán lại về .


Đà Lạt thuở ấy thế nào? Ảnh: TL internet

Đà Lạt không xa lạ gì với tôi. Trước năm 75, tôi đã từng lông bông trên đó, chỉ là chuyện đàn đúm vui chơi thôi chứ chủ yếu vẫn ở Sài Gòn ăn học.

Đà Lạt thuở ấy thế nào? Hãy nghe người Đà Lạt ly hương nói về Đà Lạt để họ xả stress: "… Những con dốc với hàng mai anh, hay cúc quỳ, những mái nhà kiểu Pháp, những giọng nói nhỏ nhẹ, những quán café ngồi để ngắm chứ không để người khác ngắm… Khi còn bé, Đà Lạt với tôi là cái gì đó mờ mờ, huyền bí và... lạnh. Rồi 5 năm sau, Đà Lạt trong tôi lại mang một dáng dấp rõ ràng hơn. Và yêu lắm... Có những buổi chiều ngồi đọc sách bên bờ hồ, tự dưng chợt hỏi, liệu 50 hay 100 năm nữa, Đà Lạt sẽ thay đổi như thế nào…"

Người Đà Lạt nói về tính cách của họ thế này: "… hòa nhã, thân thiện, hiếu khách, nhỏ nhẹ, hiền hậu, lãng mạn,..." Nghe thấy đã! Tự than (thở) thì được, còn tự khen như thế cũng hơi… kỳ. Ngượng! Riêng tôi, với cái nhìn đầy cảm tính và thiên vị, tôi thấy họ nói thế cũng chẳng có gì… trật.

Tháng 12 năm đó, trời lạnh. Tôi trọ ở một khách sạn gần Hồ Xuân Hương. Không ngủ được, tôi thả bộ dọc bờ hồ. Bên ngoài trời lạnh và gió nhiều hơn tôi tưởng. Đã lỡ đi được gần cây số, chẳng lẽ quay về… Có ai đó nhóm lửa ở ven hồ, gần nhà máy nước (đầu đường Đinh Tiên Hoàng). Tôi ghé vào sưởi ké. Đó là xe bán gỏi khô bò, dân địa phương gọi là xắp xắp. "Quán lưu động" này chỉ có ghế mà không bàn. Người bán cũng lạnh, đốt lửa sưởi. Tôi gọi một dĩa khô bò và nửa xị rượu, và là người khách duy nhất lúc đó.

Càng về khuya, càng lạnh, người bán chụm thêm củi,… Một cô gái khoác áo lông, từ bên kia đường băng qua, ngồi vào sưởi. Nhìn kiểu cách son phấn, tôi đoán cô là gái ăn sương. Ế độ rụng rời! Khách ăn còn không có, huống gì khách mua hoa… Cô quay sang tôi bắt chuyện nhát gừng. Tôi mời cô ly rượu. Tôi biết cô chẳng hy vọng gì ở thằng bụi bặm như tôi, ngồi lề đường, uống rượu đế (12.000 đ/xị) , nhắm khô bò (5.000 đ/dĩa), tổng cộng cỡ 0,5 USD, thứ đó làm gì có tiền mà đi… "tâm sự".

Cái không khí ế độ, vắng người, lạnh lẽo, và buồn như chấu cắn thế này, người ta dễ huỵch toẹt với nhau nhiều thứ. Dưới đây là trích mẫu đối thoại giữa tôi và cô gái.

- Anh là dân Đà Lạt?
- Không, tôi tha hương…
- Anh làm nghề gì?
- Ai mướn gì làm nấy. Còn cô?
- Làm cái nghề như anh thấy đó. Hôm nay thứ năm, chẳng bắt được khứa nào.
- Không, tôi muốn hỏi, cô là dân Đà Lạt?
- Em gốc ở miền Trung, nhưng sống ở Đà Lạt từ nhỏ. Cho em xin điếu thuốc.
Tôi đẩy gói thuốc sang phía cô và bật quẹt. Ánh lửa lóe lên, tôi chợt thấy cô sang trọng như một mệnh phụ trong chiếc áo khoác lông màu trắng…
- Cô có con chưa?
- Có cháu ngoại rồi
- Xin lỗi, cô bao nhiêu tuổi?
- Năm mươi ba (53)
Vài phút im lặng trôi qua…Cô gái vẫn xoay mặt ra ngoài đường, phía bờ hồ. Tôi bối rối cực kỳ, nốc cạn ly xây chừng…
- Trông cô trẻ hơn tuổi nhiều, tôi đoán chừng ba mươi mấy.
- Tại đánh son phấn nhiều . Sáng mai lại đây, anh sẽ thấy em khác,..
- Sao không ở nhà trông cháu?
- Không thích nhờ vả con cái…
- Không còn nghề gì khác để làm sao?
- Không. Biết làm cái gì để sống bây giờ. May vá thì được bao nhiêu. Nhờ vả con cái thì em không thích. Không giúp được nó thì thôi, nhờ vả làm gì.
- Cô có thể bán thuốc lá, bán mồi nhậu ở đây này. Một ngày kiếm chừng năm chục (ngàn) thì đủ rồi.
- Nợ nhiều, kiếm bằng đó làm sao đủ. Trả góp ngày cũng cỡ trăm hai (chục ngàn) rồi
- Cô tiêu xài gì mà mắc nợ nhiều?
- Tiền nhà, tiền ăn, tiền son phấn, tiền thuê quần áo "đi làm". Cái áo lông này là em thuê. Thuê ngày nào trả ngày đó.
- Cô lớn tuổi rồi, làm sao dành khách nổi với tụi trẻ?
- Tụi nó đi giá cao, mình đi giá rẻ. Gặp mấy thằng xỉn, tụi nó cũng chẳng để ý lắm, miễn là rẻ.
- Mỗi lần đi như vậy được bao nhiêu?
- Em hét hai trăm (ngàn), tụi nó trả cỡ trăm rưỡi, trăm hai là đi được rồi. Kẹt quá, thì năm bảy chục cũng đi… Hên thì vài ba cữ một đêm. Không có tiền, sáng mai gặp mặt con mẹ chủ nợ khó chịu lắm.

Góc tối của một đô thị đầy ánh sáng là như thế. Đêm đó trời lạnh kinh khủng. Những cái khốn cùng của xã hội, chẳng có cái nào giống cái nào. Phải nhìn vào góc tối mới thấy bộ mặt thật của xã hội. Cô điếm già có thể móc túi khách làng chơi với nhiều thủ thuật, nhưng họ hành xử "chính danh" và ở tận cùng của xã hội rồi. Còn những thứ điếm khác được người đời tôn vinh, xun xoe, điếu đóm., nhưng họ có thừa khả năng làm tiêu tùng cả vài thế hệ như chơi. Nói nữa thêm buồn…

Hồi đó đoạn bờ hồ này, chiều chiều có những xe bán xắp xắp sà tới bán. Khách ngồi ghế đá ven hồ, hoặc ăn đứng. Có lần tôi gặp cô bé ngoài hai mươi, mang theo cặp, đi xe đạp đến bán phụ mẹ. Gợi chuyện, cô gái nói: "Cháu học ngành viễn thông ở đại học Đà Lạt. Giờ này đông khách nên đến phụ mẹ". Thùng khô bò đặt trên yên sau xe gắn máy hoặc xe đạp, xe công an đến thì ù té chạy. Tôi đã chứng kiến cảnh bỏ của chạy lấy người như thế, bỏ lại sau lưng đĩa, đũa, ghế nhựa,… Khách thương tình, đứng lại chờ họ quay lại, trả tiền, còn không thì coi như mất. Mà công an hình như cũng chẳng muốn bắt. Xe công an cứ thủng thỉnh đuổi. Phía trước báo động, người xe, người thúng chạy lẫn vào hẻm…Nhưng dạo này, không còn thấy những xe xắp xắp bán dạo ở ven hồ nữa. Chắc công an làm gắt rồi.

Đà Lạt là thành phố trẻ, chỉ cỡ trăm năm. Dân định cư nơi đây chủ yếu đến từ miền Trung, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,… Họ được thuê mướn làm đường xá, xây cất. Rồi sau này người miền Bắc vào trồng rau, trồng hoa, rồi người Huế cũng vào lập nghiệp. Đợt di cư 54 cũng kéo theo cả ngàn người đến ở Đà Lạt khẩn hoang lập ấp. Người Đà Lạt đến từ mọi miền đất nước, mang theo văn hóa đặc thù, mà dễ thấy nhất là ẩm thực. Chẳng biết tôi có thiên vị hay không, nhưng ăn bún bò Huế, mì Quảng ở Đà Lạt thấy ngon hơn ở Huế hay ở xứ Quảng nhiều. Cay xé họng, trào nước mắt vẫn thấy ngon.

Người Quảng, người Huế, người Bắc,… sống ở Đà Lạt mất dần đi bản sắc vùng miền của riêng họ. Sự khẩn hoang mang họ đến gần nhau bất cần gốc gác, lại thêm nỗi nhớ quê, rồi núi đồi, sông suối, khí hậu và sự yên tĩnh của thiên nhiên đã biến họ thành người… Đà Lạt: chất phác và hiếu khách, hiếu khách thiệt tình kiểu Nam Bộ, nhưng nhỏ nhẹ chứ không ồn ào.

Một buổi sáng Chủ nhật, tôi ngồi uống cà phê ở góc phố Bà Triệu. Hai cụ già, bà dìu ông, chậm rãi vào quán. Ông mặc áo vest, đội mũ casket, cầm tờ báo Pháp. Bà mặc áo dài, khoác áo măng tô, tay cầm sách kinh, áng chừng họ vừa đi lễ nhà thờ Con Gà về. Ông trông ra dáng công chức thời Tây. Bà dáng quý phái, trang điểm nhẹ. Bà gọi ly cà phê sữa cho ông, và tách trà nóng cho bà, rồi lặng lẽ lấy những viên thuốc từ vỉ: "Ông uống thuốc đi". "Chưa uống!" ông già cạu cọ, mắt vẫn không rời tờ báo. Lát sau, bà lại đẩy ly nước về phía ông, nhẹ nhàng: "Ông uống đi, tới giờ uống thuốc rồi". "Không uống!", mắt vẫn dán vào tờ báo. Bà nhìn quanh quẩn đâu đó. Lát sau lại đưa thuốc sát tay ông: "Ông uống đi, kẻo tối lại ho sù sụ". Lần này ông cầm mấy viên thuốc cho vội vào miệng như trả nợ đời, làu bàu: "Đã bảo chưa uống lúc này mà cứ uống, cứ uống…" Bà yên lặng rót thêm trà cho ông, mắt và miệng ra chiều mãn nguyện. Nhìn hai "con khỉ già" làm… nũng, thấy đất trời Đà Lạt bỗng nhiên giao hòa, tiền muôn bạc tỉ hóa thành tiền âm phủ, thế giới phẳng hay cong cũng trở thành vô nghĩa.

Ai đó ở Đà Lạt mưu đồ khanh tướng, nhưng người Đà Lạt (gốc) hình như không có máu làm quan, và họ cũng chẳng muốn làm quan. Họ thích đời yên phận với đất trời cây cỏ. Tôi có người quen ở Đà Lạt làm viên chức ngân hàng, bon chen kém cỏi, xin về hưu non, sửa chữa điện tử lai rai và thỏa mãn với cái nghề xập xình này. Tuần trước đi karaoke với nhau. Anh hát bài Biển nhớ, cũng đứng lên cầm micro biểu diễn như ca sĩ thứ thiệt. Anh hát dở ẹc, nhưng biểu cảm tha thiết như muốn chở biển lên rừng. Ban giám khảo điện tử cho anh 100 điểm. Chắc máy karaoke này đọc được tâm trạng con người? Chị vợ ngồi cạnh cũng "máu" không kém, chơi bài Đêm nay ai đưa em về. Chẳng biết họ có ẩn ý gì với nhau qua lời ca tiếng nhạc hay không, nhưng mới sáng hôm đó, đi chợ Đà Lạt, còn thấy tay chị khoác tay anh, đầu nghiêng ngửa vào nhau, trông họ "lẳng" với nhau phết. Một cái "lẳng" đằm thắm hết sức... Đà Lạt.

Nghe nói, người ta định mời kiến trúc sư Pháp thiết kế lại Đà Lạt. Cũng nghe nói, người ta định lập một đô thị Đà Lạt khác trên con đường đi lên Suối Vàng. Ừ, một đô thị Đà Lạt tráng lệ nên thơ, mà thiếu "con-người-Đà-Lạt", thì cái hồn của Đà Lạt sẽ ra sao?

Những người con của Đà Lạt nay quy cố hương, không khỏi chạnh lòng vì những đổi thay: nhà hàng, nhà cao tầng, các vạt đồi đã đốn cây xanh, còn trơ đất đỏ sẵn sàng cho những dự án hoành tráng, xứng tầm với một thành phố du lịch, xứ sở ngàn hoa, như có người nói: "Người ta cắt một mảnh Saigon lên, đem dán vào Đà Lạt và bảo rằng Đà Lạt đang phát triển trong... quy hoạch".

Đà Lạt trở nên thực dụng hơn…

Thời gian Đà Lạt dường như chậm lại. Nhịp sống cũng chậm lại. Những người muôn năm cũ đang nhẫn nhục né tránh nhịp sống thời đại. Mà dân Đà Lạt (gốc) ở đây chắc cũng chẳng còn được bao nhiêu. Thời cuộc đã phân tán họ đi khắp nơi rồi.


"Người ta cắt một mảnh Saigon lên, đem dán vào Đà Lạt và bảo rằng Đà Lạt đang phát triển trong... quy hoạch" Ảnh: TL internet

Cách đây 3 năm, tôi đi chuyến xe đêm từ Sài Gòn, đến Đà Lạt khoảng 4 giờ sáng. Gõ cửa khách sạn giờ đó cũng hơi ngại, tôi ghé quán cà phê trên đường Phan Đình Phùng. Quán chừng 5 – 7 người, toàn là dân Đà Lạt (gốc), tôi đoán thế. Bốn giờ sáng ở Đà Lạt là thời điểm hơi sớm để bắt đầu một ngày làm việc. Họ là những người bỏ mối hàng chợ, lấy mối vé số hoặc chạy xe ôm. Một anh mù bán vé số, trạc 40, bước vào quán cùng với người bạn. Anh tìm chỗ ngồi dễ dàng, dường như quen thuộc với cách sắp xếp bàn ghế ở quán. Anh gọi ly cà phê sữa, và hai điếu thuốc "con mèo", mời người bạn bên cạnh một điếu. Anh mù bán vé số, nhưng lại chơi số… đề. Trông anh thoải mái, lạc quan khi bàn đề với bạn, mặc dù chiều qua anh không trúng. À, nếu chiều nay trúng đề anh sẽ mua những gì, những gì… Ước mơ giản dị quá !. Anh chơi đề cũng nhỏ thôi (chừng 10 – 20 ngàn đồng) và chỉ đánh hai số cuối. Tôi hỏi: "Tại sao bán vé số mà lại chơi đề?" Anh nói: "Chơi đề trúng nhỏ nhưng dễ trúng hơn".

Cặp vợ chồng già, Kiều lão, cô bé sinh viên,… là những nét chấm phá tạo ra bức tranh chung về con người Đà Lạt. Đâu đó có những khoảng khắc yên bình chen lẫn với những đắng cay. Trước 75, ngoại trừ các đại gia ở Sài Gòn mua biệt thự ở Đà Lạt nghỉ mát, chứ nói chung, cư dân Đà Lạt không giàu, nhưng họ sống thư thả, không bon chen, hối hả theo đời cơm áo. Có lẽ anh mù bán vé số đó là tiêu biểu cho người Đà Lạt (gốc) chăng?

Một buổi chiều xẫm tối ở góc đường Phan Bội Châu – Bùi Thị Xuân, tôi nói bâng quơ với bà bán bắp nướng, khi đứng chờ lấy bắp: "Đà Lạt chỉ còn con đường Đinh Tiên Hoàng dẫn đến trường đại học là còn nét cũ". Chị nói như thì thầm: "Còn chứ, còn một con đường còn sót lại, con hẻm trước mặt đó. Anh vào xem đi, không khéo mai mốt lại không còn nữa". Con đường dốc hẹp càng đi sâu, càng âm u, yên lặng, chỉ có tiếng gió thổi qua hàng cây. Một bên vách cao, lá và những cây to, một bên là vực, rải rác vài căn nhà nhỏ. Nhón chân lên, có thể thấy bên kia là ánh đèn của khu du lịch Bùi Thị Xuân, ồn ào, chèo quéo khách du lịch. Sự tương phản chỉ cách nhau chưa đầy trăm mét. [Đường này hiện nay là đường Lý Tự Trọng, dẫn lên khu vực Dinh tỉnh trưởng cũ, hiện có một trạm viễn thông và khu vực quân đội nên chưa vị đô thị hóa như các vùng lân cận - HN chú thích]

Đà Lạt buồn hiu, con đường sót lại buồn hiu, "người muôn năm cũ" buồn hiu,… Tất cả mờ dần sau những đợt festival hoành tráng.

Tôi muốn trích đoạn một bài thơ của Cung Trầm Tưởng được Phạm Duy phù phép thành bản nhạc "Bên ni Bên nớ" để kết thúc bài viết tạp này. Mà liệu có kết thúc được chăng? Biết bao nỗi niềm còn chất chứa …. Kiều lão Đà Lạt chỉ là một trong những ngã rẽ buồn bã, còn biết bao ngã rẽ khác nữa. Nói mấy cho vừa…

Thôi, hãy cứ thì thầm theo đoạn nhạc…

"... Bên tê thành phố tráng lệ
Giai nhân nằm khoe lõa thể
Bên ni phố vắng, ôi lòng ngoại ô..."

VŨ THẾ THÀNH
(trong tập Những thằng già nhớ mẹ)

Cà phê Sài Gòn Xưa & Nay


Hề hề, tôi biết thướng thức cà phê còn sớm hơn tác giả bài này. Hồi đó ông nội tôi mỗi sáng đi cà phê đều dẫn tôi theo, lúc đó tôi còn chưa đi học (nên có lẽ chỉ vào khoảng từ 3-5 tuổi). Sau khi pha chế ly cà phê của mình xong, ông tôi thường rót một ít cà phê ra chiếc đĩa nhỏ đi kèm và đó là phần dành cho tôi. Sau rất nhiều năm rồi tôi vẫn còn nhớ như in cái mùi vị cà phê đó, nhất là trong những buổi sáng trời lạnh. Cái quán cà phê này của một chú ba Tàu, pha cà phê bằng vợt (như chiếc vớ) trong bài dưới đây có nhắc tới. Quán này cũng bán đồ ăn sáng, như hủ tíu mì, hoành thánh, xíu mại chén, sủi cảo, bánh bao, chéo quẩy, bánh tiêu,... Thỉnh thoảng ông tôi cũng dúi cho một cái quẩy để tôi chấm vào cà phê giống như tác giả bài này có nói tới... Bài này gợi lại quá nhiều cảm xúc và kỷ niệm có liên quan tới cà phê của tôi qua rất nhiều giai đoạn trong cuộc đời khiến tôi nghĩ có dịp sẽ ghi chép lại đầy đủ hơn [Hữu Nguyên].

Cà phê Sài Gòn Xưa & Nay

Nguyễn Ngọc Chính


Tôi biết đến cà phê rất sớm. Còn nhớ, thuở ban đầu làm quen với mùi vị cà phê là từ hồi còn học Lớp Nhất, tức Lớp 5 bây giờ. Ông cụ tôi khi đó có thói quen uống cà phê vào buổi sáng trong tiết trời lành lạnh của Đà Lạt. Tôi tự “phân công” cho mình việc dẹp ly khi ông uống xong. Bao giờ trong ly cũng còn lại một ít chất nước đen đen, sền sệt… đăng đắng mà lại ngòn ngọt. Thế là lúc dọn dẹp thế nào tôi cũng tự cho mình thưởng thức chút “sái” còn lại, dĩ nhiên vào lúc không ai nhìn thấy.

Chuyện “bí mật” đó đã xảy ra cách đây hơn 60 năm bây giờ mới “tiết lộ” nhưng được nói một cách công khai chứ không vụng trộm như hồi còn nhỏ. Như vậy là tôi đã “biết thưởng thức” cà phê hơn 60 năm và thói quen đó đã trở thành “ghiền” trước cả khi biết đến thuốc lá.

Cà phê và thuốc lá gắn bó với nhau như bóng với hình, một đằng là “nghiện” cafeine và một đằng là nicotine. Thực ra, chẳng có cái nào đáng được gọi là tốt đẹp nhưng suy cho cùng, “ghiền” cà phê vẫn còn đỡ hơn “nghiện” thuốc phiện, ngày nay giới trẻ lại bước sang một lãnh vực mới là ma túy. 

Phải lên đến trung học đệ nhất cấp, tức cấp 2 ngày nay, tôi mới “chính thức” gia nhập hàng ngũ những người nghiện cà phê. Lý do thật đơn giản: học thi Trung học Đệ nhất cấp nên cần cà phê để khỏi buồn ngủ vì đây là loại thức uống kích thích sự hưng phấn. Điều kỳ lạ là người nghiện cà phê cảm thấy như được sảng khoái hẳn lên khi chất cafeine được nạp vào cơ thể.

Theo một truyền thuyết, khoảng năm 1671, những người chăn dê ở Kaffa (phía tây Ethiopia ngày nay) phát hiện ra một số dê trong đàn sau khi ăn một cành cây có hoa trắng và quả màu đỏ đã chạy nhảy không mệt mỏi cho đến tận đêm khuya. Họ bèn đem chuyện này kể với các thầy tu. Sau đó các thầy tu đã đi xem xét khu vực ăn cỏ của bầy dê và phát hiện ra một loại cây có lá xanh thẫm và quả giống như quả anh đào. Như vậy có thể nói rằng nhờ đàn dê này mà con người đã biết đến cà phê!

Cây và trái cà phê

Hương vị cà phê thế nào thì những người nghiện hay không nghiện cà phê đều đã có dịp trải qua. Nhưng mùi hoa cà phê tôi chắc chỉ một số ít người được thưởng thức và tôi tự hào thuộc số ít người đó. Rất tình cờ, trong một chuyến du lịch xuyên Việt với đoàn sinh viên Mỹ lên vùng cao nguyên, khi xe vào địa phận Kontum đã thoảng một mùi hương êm dịu.

Chưa thấy cây cà phê mà đã cảm nhận được một sự khác lạ, hương thơm ngào ngạt. Xe tiến vào sâu hơn và từ từ hiện ra trước mắt hai mảng màu xanh-trắng hòa quyện với nhau. Thật may mắn, chúng tôi đến đây đúng vào mùa cà phê nở hoa trắng xóa hai bên đường…

Đám sinh viên nhao nhao đòi dừng xe để thấy tận mắt cây cà phê, ngửi tận mũi hoa cà phê. Có điều, mùi hương thoảng theo gió rất dịu nhẹ nhưng đến gần mùi đó trở thành hăng hắc. Một số người có thể bị dị ứng với hoa cà phê khi đến gần cũng tựa như một người đẹp nhìn từ xa thấy “mát mắt” nhưng nếu đến gần lại mang nỗi thất vọng vì lý do nào đó! Khổng Tử đã dạy: “Kính nhi viễn chi” là vậy.   

Hoa cà phê

Chuyện dê phát hiện ra thứ nước uống “thần kỳ” thuộc về… thần thoại. Nhưng nhiều học giả vẫn quả quyết là tỉnh Kaffa của Ethiopia tận bên Phi châu là vùng đất trồng cây cà phê đầu tiên trên thế giới từ thế kỷ thứ 9. Đến thế kỷ thứ 14 những người buôn nô lệ đã mang cà phê từ Ethiopia sang vùng Ả Rập nhưng tới thế kỷ thứ 15 người ta mới biết rang hạt cà phê lên và sử dụng nó làm đồ uống.

Cách thức pha chế cà phê truyền thống của người Ethiopia dĩ nhiên là cách thức cổ xưa nhất. Họ để hạt cà phê vào một cái chảo sắt to và rang lên, sau đó được nghiền vụn hoặc cho vào cối giã thành bột cà phê. Chỗ hạt giã vụn đó được trộn với đường trong một cái bình gọi là “jebena” (một loại bình cổ thon có quai) và được nấu lên rồi đổ ra bát. Thế là đã có “bát” cà phê thơm ngon để thưởng thức.

Theo nhiều tài liệu, quán cà phê đầu tiên được mở ở Ba Tư, tức Iran ngày nay. Trong những quán nhỏ ở vùng Tiểu Á, Syria và Ai Cập người ta gặp nhau tại đây để thưởng thức loại thức uống kỳ lạ. Kể từ năm 1532, các quán cà phê này luôn đông nghịt khách.

Vào thế kỷ 17 cây cà phê được trồng phổ biến tại các thuộc địa của Hà Lan, đưa nước này lên vai trò thống trị ngành thương mại cà phê. Ở Constantinopolis (Istanbul ngày nay) cà phê được biết đến lần đầu tiên vào năm 1517. Đến năm 1645, quán cà phê đầu tiên của Ý được mở ở Venezia, tức thành phố sông nước hữu tình Venise.

Tại Anh, lần lượt xuất hiện các quán cà phê từ năm 1650 ở Oxford và năm 1652 ở London. Ở Pháp những quán đầu tiên được khai trương vào năm 1659 tại thành phố cảng Marseille và tiếp đó là Paris vào năm 1672.

Vào năm 1683, thành phố Wien (Viena), thủ đô của Áo, cũng có quán cà phê đầu tiên do một người Ba Lan làm chủ sau khi nước Áo giành thắng lợi trước Thổ Nhĩ Kỳ và tịch thu được… 500 bao cà phê “chiến lợi phẩm”. Wien sau đó trở thành một thành phố với những quán cà phê nổi tiếng nhất.

Một quán cà phê cổ ở Palestine (Ảnh Wikipedia)

Người Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc địa và họ cũng thiết lập tại đây những đồn điền trồng các loại cây mà sau này gọi là “cây công nghiệp”: cây cao su tại miền Nam từ năm 1879, cây cà phê năm 1888 tại miền Bắc và sau đó là cây chè (1924). Chính phủ bảo hộ lập đồn điền cà phê đầu tiên tại Kẻ Sở ở Tonkin (Bắc Kỳ) với giống cà phê Arabica, hay còn gọi là cà phê chè, được mang từ đảo Bourton sang. Sau khi thu hoạch cà phê được mang thương hiệu Arabica du Tonkin và xuất cảng sang Pháp.

Giống Arabica có năng suất thấp và chất lượng kém nên sau đó được du nhập thêm giống Robusta (gọi là cà phê vối) và  giống Mitcharichia được gọi là cà phê mít kể từ năm 1908. Đồn điền cà phê được thành lập tại nhiều nơi ở Bắc kỳ như Hà Tĩnh (1910), Yên Mỹ, Thanh Hóa (1911), Nghĩa Đàn, Nghệ An (1915). Mãi đến năm 1925 mới được trồng ở vùng cao nguyên phía Nam như Ban Mê Thuột, Kontum và Di Linh.

Thuở ban đầu người Việt chỉ biết cắm cúi trồng và chăm sóc cây cà phê, đến khi ra trái người Pháp lại “xuất cảng” về chính quốc. Uống cà phê vào thời đó là một cái thú của các quan thuộc địa và một số ít người bản xứ “có máu mặt”. Công nhân các đồn điền cà phê chỉ biết “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”, bán sức lao động để kiếm cơm. 

Claude Bourrin, nhân viên sở thuế đã từng sống và làm việc ở Hà Nội, ông cũng là  cây bút viết ký sự về Bắc kỳ xưa, đã ghi lại một số những quán “cà phê Tây” từ năm 1885 trên đường Pháp Quốc (sau đổi thành Paul Bert và nay là đường Tràng Tiền) như quán cà phê Thương MạiSĩ QuanHòa Bình,ParisQuảng Trường...

Chủ quán cà phê Sĩ Quan là De Beire, người phụ nữ hiếm hoi có mặt rất sớm ở Hà Nội. Đây là nơi tụ họp của những người lính viễn chinh, họ đến quán để gặp bạn bè, đánh bài và giải khát. Đôi khi nước giải khát được thêm vào những cục đá lạnh được chở đến từ Hải Phòng.

Những quán cà phê Pháp ở Hà Nội là cả một xã hội thu nhỏ giữa cánh nhà binh phiêu bạt và giới cai trị đầy uy quyền của chính phủ bảo hộ. Claude Bourrin cũng mô tả thân phận người bản địa bên phố cà phê, đó là những đứa trẻ đói rách, giành giật nhau để được giữ ngựa cho khách.

Cối xay cà phê ngày xưa

Miền Nam, nói theo ngôn ngữ bây giờ là “đi sau, về trước” trong lịch sử cà phê vì cây cà phê được trồng trước tiên tại miền Bắc nhưng những quán cà phê lại mọc lên như nấm tại miền Nam. Theo nhà văn Sơn Nam [1], tại Sài Gòn khoảng năm 1864, đã thấy xuất hiện hai tiệm cà phê do người Pháp làm chủ, đó là quán Lyonnais trên đường De Lagrandière (sau đổi thành đường Gia Long và nay là đường Lý Tự Trọng) và Café de Paris trên đường Catinat (sau đổi thành đường Tự Do và ngày nay là Đồng Khởi).

Khách sạn Continental bên cạnh Nhà hát Thành phố cũng có một khu vực cà phê lộ thiên, nói theo ngôn ngữ bình dân là “cà phê vỉa hè”, nhưng ngược lại, đây là nơi sang trọng dành cho khách Tây thuộc địa. Tại khu vực quận nhất, nhiều quán cà phê cũng nhanh chóng xuất hiện như Café de la MusiqueGrand Café de la TerrasseCafé des Fleurs... để phục vụ lính viễn chinh lẫn người bản địa giàu có, sớm hấp thụ lối sống phương Tây.

Thời chiến tranh Việt Nam cũng là lúc các quán cà phê mọc lên như nấm sau mưa. Edith Lederer, nhà báo lão thành của Associated Press, hồi tưởng lại chuyện các quán cà phê Sài Gòn: “Văn phòng của AP nằm trong tòa nhà Eden. Nhà báo chúng tôi ngồi ở Givral, Brodard và La Pagode nói đủ chuyện trên đời và nghe ngóng tin tức”.

Cái gọi là “Trục Cà Phê” La Pagode-Givral-Brodard đã từng một thời là trung tâm báo chí của chiến tranh Việt Nam, nơi quy tụ những phóng viên hàng đầu về báo chí như Peter Arnett, Larry Burrows... Từ đây những thông tin nóng hổi về cuộc chiến đến tay người đọc khắp thế giới.

Cũng ở cái “Trục Cà Phê” đó, “Tướng Givral” Phạm Xuân Ẩn quanh năm la cà ở cà phê Givral ngay dưới chân văn phòng của hãng thông tấn AP. Tuy nhiên, ít ai ngờ người phóng viên tờ Time này lại là một nhà tình báo của… “phía bên kia”.

Cà phê “vỉa hè” tại Khách sạn Continental

Giới bình dân có rất nhiều “địa chỉ” để lui tới với cà phê. Trước nhất là những quán cà phê của các Chú Ba gốc Quảng Đông. Vào đây, khách thường uống cà phê kèm với các món ăn sáng như hủ tiếu, mì hoằn thắn, bánh bao, xíu mại… Khách chỉ có loại “cà phê vớ” hay “cà phê kho” để thưởng thức, có người còn nhúng dầu-cha-quẩy (miền Bắc gọi tắt là “quẩy”) vào ly cà phê, thế là xong một bữa ăn sáng.   

Cà phê “vớ” (dzớ, vợt) là thứ cà phê được để trong một cái túi bằng vải hình phễu. Vợt chứa cà phê để trên miệng siêu (loại siêu sắc thuốc) trước khi chế nước sôi vào, thế là có ngay một ly cà phê thơm phức. Gọi là cà phê “kho” vì chứa trong siêu, nấu đi nấu lại như kho. Nếu “kho” nhiều lần có thể sánh lại, mất hẳn mùi thơm của cà phê, chỉ còn vị như… thuốc bắc trong siêu!  

Siêu đựng cà phê trong các tiệm cà phê của người Tầu

Hồi xưa, người “sành điệu” còn nhắp cà phê qua đĩa chứ không uống qua ly. Người ta giải thích khi đổ cà phê từ ly vào đĩa cà phê sẽ mau nguội hơn. Các cụ già còn có thế ngồi một chân chạm đất còn chân kia để trên ghế như vậy sẽ cảm thấy “thoải mái” hơn khi nhâm nhi cà phê sáng.

Người “sành điệu” cho rằng cách pha cà phê vợt và cách chứa trong siêu đất sẽ giữ độ nóng của cà phê lâu hơn cách pha cà phê trong “phin” (filtre) làm bằng kim loại. Cũng vì thế nhiều người lớn tuổi vẫn trung thành với “cái vợt” hơn là “cái phin” khi việc pha cà phê được cải tiến.

Vợt pha cà phê

Trong Sài Gòn Tạp Pín Lù học giả Vương Hồng Sển [2] có viết về một quán cà phê của Sài Gòn xưa như sau, nhưng ông không nói cà phê ở đây pha bằng vợt hay bằng phin:

“... Từ 1950 cho đến trào ông Diệm, khi quán cóc trước cửa Thảo cầm viên chưa bị trục xuất để chỉnh trang vườn bách thảo và đô thành. Lúc ấy nơi trước cửa vườn mé bên Ba Son có một quán nhỏ bán cà phê, người chủ quán vì tai nạn chiến tranh bị cắt mất một chân nên có biệt danh là “quán thằng Cụt”. Cụt ta đi nạng chống và mỗi lần xê dịch vẫn nhảy cò thọt còn mau lẹ hơn chim nắc nước. Và Cụt sở trường pha cà phê rất đậm rất ngon, cà phê buổi sáng hơi nghi ngút giá chỉ có một đồng rưỡi một tách không sữa”.

Sang đến thập niên 60 đã có nhiều bước tiến bộ trong cả cách pha chế lẫn không gian cà phê. Góc đường Lê Lợi – Nguyễn Trung Trực có nhà hàng Kim Sơn với bàn ghế bày ra hiên để các văn nghệ sĩ vừa được dịp uống cà phê vừa được “rửa mắt” ngắm nhìn những người đẹp “bát phố Bonard”. Chủ Kim Sơn là người Tầu nhưng đã biết khai thác tiệm theo kiểu cà phê “lộ thiên” của Paris.

Cà phê Kim Sơn

Gần Bệnh viện Sài Gòn trên đường Lê Lợi ngay cạnh rạp Vĩnh Lợi cũng có một nhà hàng với món nổi tiếng là cà phê sữa đá. Sinh viên sĩ quan Thủ Đức sáng chủ nhật được đi phép thường ngồi đây thưởng thức một đĩa bánh mì thịt nguội hay một tô “suông” cho bõ những ngày trên thao trường đổ mồ hôi.

Lại nói về sinh viên sĩ quan Thủ Đức về phép Sài Gòn. Một số người chọn cà phê Hân trên đường Đinh Tiên Hoàng, khu Đa Kao. Cà phê ở đây không có gì xuất sắc nhưng bầu không khí ấp áp và đặc biệt là cô ngồi caisse khiến nhiều anh cứ Chủ Nhật rời quân trường là đến “trồng cây si”.

Sau 1975 đi học tập về tôi có ghé cà phê Hân thường xuyên, không phải để uống cà phê vì quán đã đóng cửa mà là kèm Anh văn cho gia đình để sửa soạn đoàn tụ cùng người thân bên Mỹ. Bà chủ nhà thấy thầy cứ phải đi xe buýt đến dạy nên “ưu ái” cho một chiếc xe đạp cũ làm phương tiện di chuyển.

Tôi sẽ nhớ mãi chiếc xe đạp này dù ngày nay không còn nữa, chiếc xe đã để lại “tình người” nên không thể nào quên. Gia đình cà phê Hân nay đã ở Hoa Kỳ, nếu một duyên may nào đó khiến họ đọc được bài viết này, tôi xin một lần nữa nói lời cám ơn.     

Ở cà phê La Pagode khách không ngồi ghế sắt hay ghế gỗ mà ngồi trên những salon bọc da để phóng tầm mắt nhìn ra con đường Catinat, con đường đẹp và sang nhất Sài Gòn. Ðối diện khách sạn Continental là tiệm cà phê Givral phục vụ thêm các loại bánh ngọt đi kèm. Cà phê Brodard cũng nằm trên đường Catinat với phong cách Tây: có máy lạnh, mặt tiền bọc kính để khách có thể nhìn người qua lại.

Ði xa hơn một chút có quán cà phê Gió Nam trên đường Richaud (sau đổi là Phan Ðình Phùng và ngày nay là Nguyễn Đình Chiểu). Gió Nam hút khách vì có “cô hàng cà phê”, nước da trắng, hơi có vẻ xanh xao với mái tóc thề mang dáng vẻ liêu trai “hút hồn” khách vãng lai. Cô gái đã đi vào tiểu thuyết của Duyên Anh nhưng không biết nhà văn bụi đời này có trồng cây si cô hàng cà phê hay không.

Một trong những quán cà phê trang trí có hạng tại Sài Gòn thời chiến tranh phải kể đến Quán Gió trên đường Võ Tánh. Sau được đổi tên là Hầm Gió vì quán nằm sâu dưới lòng đất theo phong cách một hầm rượu ở Châu Âu. Ca sĩ Thanh Lan vẫn thường đến đây giúp vui trong bầu không khí văn nghệ.  

Khánh Ly và Trịnh Công Sơn thuở còn vô danh đã bước vào làng ca nhạc trên sân khấu của Quán Văn nằm trên bãi đất trống sau lưng Đại học Văn khoa Sài Gòn. Khách của Quán Văn là sinh viên vốn ít tiền nên cà phê tại đây cũng có giá “hữu nghị”. Họ đến đây vì tinh thần văn nghệ, Khánh Ly và Trịnh Công Sơn đã có những buổi trình diễn ngoài trời không thù lao và phần thưởng mà “nữ hoàng chân đất” gặt hái được chính là danh hiệu “một hiện tượng của tân nhạc Việt Nam” từ cuối thập niên 60. 

Sài Gòn xưa có rất nhiều quán cóc nhưng ở đó người ta có thể bắt gặp những khuôn mặt nổi tiếng như nhà thơ Bùi Giáng, nhà văn Sơn Nam… ngồi cạnh bác xích lô, chú thợ nề. Tất cả đều chung một sở thích: uống cà phê. Câu nói “đi uống cà phê” trở thành quen thuộc mỗi khi người ta rủ nhau hàn huyên tâm sự ngoài quán dù có người uống thứ nước giải khát khác, không phải là cà phê.

Cà phê vỉa hè

Cà phê Sài Gòn sau 1975 mang bộ mặt mới trong suốt 10 năm đầu sống trong thời điêu linh, bao cấp và tem phiếu. Trong thời kỳ này, người ta chỉ nghĩ đến gạo và nhu yếu phẩm… đầu óc đâu để nhâm nhi, thưởng thức ly cà phê ngày nào. Nhưng đến thời kỳ Đổi Mới, chuyện uống cà phê như “sống lại”.

Bây giờ chỉ ngay khu vực Hồ Con Rùa cũng thấy nhan nhản quán cà phê thuộc loại sang trọng. Tên gọi cũng “đổi mới”, nào là Gió Bắc, Window’s Café, Ciao Café… việc kinh doanh cà phê đã trở thành một nghề đòi hỏi tiền của để đầu tư và cả chất xám để quảng bá. 

Nổi bật nhất là một loạt 55 cửa hàng mang thương hiệu Trung Nguyên [3] tại Việt Nam và 5 cửa hàng “nhượng quyền” tại Singapore và Nhật Bản của ông Đặng Lê Nguyên Vũ, người được mệnh danh là “Vua cà phê Robusta” của Việt Nam. Đến nay, cà phê Robusta do Trung Nguyên sản xuất đã có mặt tại 60 quốc gia, ông Vũ cho biết trong một cuộc phỏng vấn:

“Cà phê Robusta không phải là chất lượng thấp hơn. Lý do chính là do những người yêu thích cà phê trên thế giới được học cách uống cà phê Arabica. Một phần lớn công việc của công ty chúng tôi là nâng cao chất lượng hạt cà phê tại địa phương. Chúng tôi làm việc với nông dân để giới thiệu cho họ về hệ thống tưới công nghệ cao, giảm sử dụng thuốc trừ sâu và tăng thu nhập cho nông dân”

Một cửa hàng cà phê Trung Nguyên tại Sài Gòn

Khi mới bước chân vào thị trường cà phê Trung Nguyên đã gặp rất nhiều khó khăn trong cạnh tranh với các đối thủ trong cũng như ngoài nước. Cuộc chạy đua quảng cáo giữa Trung Nguyên và Nestlé với thương hiệu “café hoà tan” mang nhiều điều thú vị. Khi cà phê G7 của Trung Nguyên quảng cáo"giúp suy nghĩ mạnh hơn" thì Nescafé đưa ra thông điệp: "Ngon hơn, vị cà phê mạnh hơn". Phản công lại, G7 phát đi thông điệp "vị cà phê cực mạnh", đáp lại, Nescafé đổi quảng cáo "Bạn đã đủ mạnh để thử" và Trung Nguyên phát ra khẩu hiệu: "Mạnh chưa đủ, phải đúng gu"...

Vinacafe Biên Hoà, đối thủ cạnh tranh trong nước với Trung Nguyên cũng đang hồi phục rất nhanh trong những năm gần đây nhưng đáng gờm nhất là cuộc đổ bộ vào “thánh địa cà phê Việt” của người khổng lồ StarBucks thông qua hợp tác với Tập đoàn Maxim Group (Hồng Kông) trong năm 2013.

Ông Jinlong Wang, chủ tịch của công ty Starbucks tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương cho biết:“Trong tình hình số lượng cà phê được tiêu thụ ở các nước phương Tây đang sụt giảm. Trong khi đó Việt Nam mở ra nhiều cơ hội to lớn. Việt Nam là đất nước với truyền thống yêu cà phê và số lượng người dân có thu nhập trung bình đang tăng lên”.

Trung Nguyên có vẻ như nóng nảy khi ông Đặng Lê Nguyên Vũ đưa ra nhận xét về Starbucks là "một thứ nước đường có chút mùi cà phê". Khi nói như vậy, ông Vũ chắc muốn nhấn mạnh dân ghiền cà phê ở Việt Nam đã quen uống một thứ cà phê đậm đặc với nhiều công thức pha chế bí mật. Nói như vậy cũng hàm ý người Việt có "gu" uống cà phê rất khác với nước ngoài.

Tuy nhiên, những ai chưa từng uống loại “cà phê rang đậm” (Darkroast) của Starbucks thì hãy khoan vội kết luận là người nước ngoài chỉ biết uống nước đường có chút mùi cà phê vì đó là một loại cà phê tinh khiết rất đậm mùi cà phê không lẫn lộn các mùi vị tạp nhạp khác.

Ngay tại Mỹ, giá cà phê Starbucks cũng không rẻ, ít nhất cũng phải trên $4 một ly. Xem ra người Việt trung lưu vào ngồi Trung Nguyên với giá khoảng 20.000 một ly sẽ không bén mảng tới Starbucks, nơi dành cho giới thượng lưu, giới “nhà giàu mới” hoặc giới trẻ “lắm tiền nhiều của”. Trong ngày đầu khai trương tại Sài Gòn, Starbucks đã thành công với hàng dài người xếp hàng chờ được thưởng thức… “của lạ”.

Ở Sài Gòn tôi đã có lần vào Starbucks. Cách bài trí cũng giống như các Starbucks khác trên khắp thế giới. Có bàn ngoài trời dành cho khách hút thuốc hay thích ngắm xe cộ dập dìu tại Ngã Sáu Sài Gòn. Bên trong tương đối dài nhưng hẹp, có cầu thang dẫn lên lầu để khách có thể nhìn qua khung cửa kính một thế giới di động chạy quanh tượng Phù Đổng…

Cũng như các Starbucks khác, tại quầy phục vụ khách được hỏi tên để ghi vào ly sau khi nhận hóa đơn thanh toán, bước sang khu pha chế khách chìa hóa đơn, xác nhận tên ghi trên ly và sau đó tự tìm chỗ ngồi mình thích. Có nhiều loại bánh ngọt để dùng kèm với cà phê… lại nhớ đến cái dầu-cha-quẩy thuở nào trong tiệm cà phê hủ tiếu của các Chú Ba!     

Lướt qua khách có mặt tại Starbucks ta thấy số đông là các bạn trẻ ăn mặc thời thượng, có vài người nước ngoài chắc vào đây chỉ để giải khát bình thường… Những khách có tuổi như chúng tôi cảm thấy lạc lõng như vào lầm tiệm cà phê, đó cũng là một trong những mục đích của Starbucks khi đến Việt Nam: Khai thác đối tượng là giới trẻ.

Nhân viên phục vụ Starbucks tại Sài Gòn

Để chấm dứt tản mạn về cà phê tôi xin đưa ra một câu hỏi: “Có bao giờ bạn nghĩ cà phê lại liên quan đến… tôn giáo?”. Câu trả lời của tôi là “Có” sau khi khám phá quán The Fig Lounge & Coffee. Rất tình cờ, một “thổ công Sài Gòn” đưa chúng tôi đến đây với lời giới thiệu: “Đi uống café chùa!!!”. Cứ ngỡ anh bạn chơi chữ, “chùa” là “free”, nhưng đến số 15 Nguyễn Thị Huynh (Huỳnh?) quận Phú Nhuận, tôi mới… té ngửa.

Từ ngoài nhìn vào là một khung cửa không lấy gì làm rộng cho lắm, tấm bảng hiệu “The Fig” cũng nhỏ nhắn được treo phía trên hàng rào bằng gỗ rất… “kín cổng cao tường”. Bước qua khung cửa hẹp khách gặp ngay một bức tượng Phật bằng đá ngồi tĩnh tọa. Người ta thường thấy Đức Phật ngồi trên tòa sen nhưng ở đây Ngài lại ngồi trên một hồ sen, mỉm một nụ cười từ bi nhìn ra phía ngoài.

Bức tượng Phật trên hồ sen tại “The Fig”

Màu xanh của cây cối xung quanh khiến ta bỏ lại sau lưng cả một Sài Thành xô bồ, náo nhiệt. Khách mới chợt “ngộ” ra, trong số cây đó có cây sung (the fig)… Theo Phật giáo, cây, hoa và quả sung cũng được gọi là udumbara (tiếng Phạn là hoa đàm hay ưu đàm hoa).

The Fig được chia thành hai khu vực để khách tùy chọn chỗ ngồi. Chúng tôi ngồi bên ngoài, phía sau lưng tượng Phật. Ngoài cà phê còn có cả thức ăn sáng, cả chay lẫn mặn, được giới thiệu qua tấm thực đơn rất… ấn tượng và giá cả cũng tương đối “mềm”.

Tôi tò mò mở cửa vào khu vực bên trong và thực sự bị choáng ngợp bởi cách trang trí của The Fig. Chủ đề hoàn toàn mang tính cách Phật giáo với hàng chục bức tượng, bức lớn nhất là một tượng Phật ngồi ngay “chính điện”, xung quanh là những chiếc salon nhỏ dành cho khách. Trong gian này, có lẽ khách thích nhất là bức bích họa các nhà sư áo vàng che đầu bằng những chiếc lá sen…

Bích họa trong cà phê “The Fig”

“Chính điện” được ngăn cách bởi chiếc kệ sách nhưng những bức tượng nhỏ trang trí trên kệ sách mới là điểm thu hút người chiêm ngưỡng. Gian kế bên rộng hơn, thiết trí nhiều salon hơn và trên tường nổi bật nhất là 6 bức tượng các nhà sư ôm bình bát tạo thành một hàng dài tăng lữ khất thực.

Sáu nhà sư khất thực… trên tường

Chúng tôi bị cuốn hút vào lối trang trí tôn nghiêm nên quyết định dời từ bên ngoài vào ngồi bên trong để có dịp thưởng thức bầu không khí trang nghiêm bên ly cà phê. Buổi sáng cuối năm trời Sài Gòn bỗng trở lạnh nhưng vẫn thấy ấm lòng giữa không gian tĩnh mịch của The Fig Lounge & Coffee.

Một góc ấm áp của “The Fig”

Saigon không thiếu gì cà phê ôm, cà phê võng, cà phê bệt, cà phê cóc, cà phê vỉa hè… nhưng tìm được một quán cà phê “chùa” là cả một duyên may.

***

Chú thích:

[1] Đọc thêm về nhà văn Sơn Nam, “Sơn Nam: Nhà văn miệt vườn” tại

[2] Vương Hồng Sển (1902-1996): bút hiệu Anh Vương, Vân Đường, Đạt Cổ Trai, là một nhà văn hóa, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng. Ông được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Khi chết ông đã hiến tặng ngôi nhà mang tên Vân đường phủ (tại số 9/1 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, Quận Bình Thạnh) và toàn bộ sưu tập đồ cổ của mình cho Nhà nước Việt Nam (tổng cộng 849 cổ vật khác nhau) với hy vọng thành lập một bảo tàng mang tên ông.

Vương Hồng Sển sinh ngày 27/9/1902, tại Sóc Trăng, mang ba dòng máu Việt, Hoa, Khmer. Nguyên tên thật ông là Vương Hồng Thạnh hay Vương Hồng Thịnh, khi làm giấy khai sinh người giữ sổ lục bộ nghi nhầm là Sển (theo cách phát âm tiếng Triều Châu). Ông mất ngày 9/12/1996 tại Sài Gòn, thọ 94 tuổi.

Một số tác phẩm:

·         Thú chơi sách (1960)
·         Sài Gòn năm xưa (tập I, II 1960, III 1992)
·         Hồi ký 50 năm mê hát (1968)
·         Phong lưu cũ mới (1970)
·         Thú xem chuyện Tàu (1970)
·         Thú chơi cổ ngoạn (1971)
·         Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa (1972)
·         Sài Gòn tạp pín lù (1982)
·         Hơn nửa đời hư (1992)
·         Tự vị tiếng Việt miền Nam (1994)
·         Nửa đời còn lại (1995)

[3] Tập đoàn Trung Nguyên là một doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, chế biến, kinh doanh cà phê; nhượng quyền thương hiệu; dịch vụ phân phối, bán lẻ hiện đại và du lịch. Cà phê Trung Nguyên là một trong những thương hiệu nổi tiếng hàng đầu tại Việt Nam và đang có mặt tại hơn 60 quốc gia trên thế giới.

·         16/06/1996: Trung Nguyên được thành lập tại thành phố Ban Mê Thuột
·         20/08/1998: Cửa hàng đầu tiên khai trương tại Sài Gòn
·         2000: Nhượng quyền cửa hàng tại Nhật Bản
·         2002: Nhượng quyền cửa hàng tại Singapore.
·         12/2002: Nhãn hiệu cà phê hòa tan G7 của Trung Nguyên ra đời
·         2008: Thành lập văn phòng tại Singapore
·         2010: Trung Nguyên xuất khẩu cà phê ra thế giới
·         2012: Trung Nguyên trở thành thương hiệu cà phê được người tiêu dùng Việt Nam yêu thích nhất.