Trong buổi bình minh của nhân loại, khi con người còn hoang sơ, cuộc sống còn phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, người ta đã nghĩ và tin rằng, quyền lực thuộc về tự nhiên, do các thần linh nắm giữ. Sau đó, nhờ trình độ nhận thức tăng lên, con người đã dần dần nhận ra và phân biệt được sức mạnh của tự nhiên và sức mạnh của mình trong chế ngự tự nhiên và quản lý xã hội. Từ đó quyền lực bắt đầu xuất hiện.
Quyền lực, khởi nguyên là của nhân dân, của cộng đồng mà không phải cá nhân ai bỗng nhiên có được. Khi mọi người tự nguyện đồng lòng tôn vinh ai đó là thủ lĩnh, là người phụ trách để thay mặt họ xử lý công việc chung, thì đồng thời cũng là trao quyền lực cho người ấy. Bắt đầu từ đó, người thủ lĩnh, người phụ trách có quyền lực. Về bản chất thì quyền lực không phải của họ mà họ được nhân dân trao quyền, ủy quyền để sử dụng cho mục đích chung.
Quyền lực, khởi nguyên là của nhân dân, của cộng đồng mà không phải cá nhân ai bỗng nhiên có được. Khi mọi người tự nguyện đồng lòng tôn vinh ai đó là thủ lĩnh, là người phụ trách để thay mặt họ xử lý công việc chung, thì đồng thời cũng là trao quyền lực cho người ấy. Bắt đầu từ đó, người thủ lĩnh, người phụ trách có quyền lực. Về bản chất thì quyền lực không phải của họ mà họ được nhân dân trao quyền, ủy quyền để sử dụng cho mục đích chung.
Khi quyền lực được trao cho người có nhân cách tốt thì nó được sử dụng đúng mục đích, bảo vệ và đem lại lợi ích cho cộng đồng. Người xưa có câu: “Đức trọng, quyền cao”. Câu ấy có thể hiểu là dựa trên cơ sở của đạo đức, nhân cách mà trao quyền lực. Người có đạo đức là mười thì có thể trao quyền lực đến bảy, tám, tức là trao quyền lực ít hơn, càng không trao vượt quá. Người có đạo đức ít, thấp mà trao quyền lực nhiều, cao thì vô cùng nguy hiểm, giống như “gửi trứng cho ác”, sai lầm, tai họa là nhất định không tránh khỏi. Theo đó, người có chức quyền càng lớn thì đạo đức, nhân cách phải càng lớn hơn. Không biết từ bao giờ, câu “Đức trọng, quyền cao” lại bị người ta nói chệch sang là “Chức trọng, quyền cao”, tức là trọng chức tước chứ không phải trọng nhân cách.
Khi quyền lực trao cho người không đủ nhân cách, thì nó trở thành công cụ phục vụ cho lợi ích cá nhân, “lợi ích phe nhóm”, thậm chí là công cụ để làm việc ác. Trong lịch sử thế giới và Việt Nam đã có nhiều trường hợp nhân dân trao quyền và bị mất quyền, trở thành đối tượng cho quyền lực cai trị. Như vậy, quyền lực có thể đem lại công bằng, hạnh phúc và cũng có thể đem lại tai họa, đau khổ cho con người. Điều đó phụ thuộc vào việc quyền lực được trao vào tay ai.
Trong thực tế đời sống xã hội có nhiều trường hợp quyền lực của một cộng đồng đã bị người khác (hoặc một nhóm người) dùng thủ đoạn tước đoạt, tranh cướp mất. Quyền lực vốn là của nhân dân, nhưng trong chế độ chiếm hữu nô lệ, các chủ nô đã chiếm giữ và sử dụng nó để cai trị xã hội, biến nhân dân (vốn là chủ nhân của quyền lực) thành những người bị mất quyền, phải làm nô lệ. Trong chế độ phong kiến, quyền lực của nhân dân rơi vào tay vua và tập đoàn phong kiến, còn nhân dân nói chung không có quyền, ngoài một số quyền ít ỏi nào đó do nhà vua ban cho; ngay cả đến quyền sống cũng không có, “ý vua là ý trời”, vua đại diện cho pháp luật, muốn giết ai thì giết, thậm chí giết luôn cả dòng họ, cả mấy đời (tru di tam tộc, tru di cửu tộc) của người đó. Thời kỳ đầu của chế độ tư bản chủ nghĩa, quyền lực do giai cấp tư sản, nhất là giới tài phiệt chi phối, chiếm giữ và sử dụng. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tiến bộ rất nhiều theo hướng dân chủ, tuy vậy, nhìn chung, giới tài phiệt ở các nước vẫn còn chi phối đáng kể quyền lực. Dân chủ là một vấn đề khách quan, tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, nhất là trình độ dân trí, quan trí và sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
Quyền lực luôn có mặt trái là làm tha hóa những người nắm giữ và sử dụng quyền lực nếu như họ không đủ nhân cách. Với những người như vậy, nếu quyền lực mà họ nắm giữ càng lớn thì nguy cơ tha hóa của họ càng nhiều. Một người khi giữ chức vụ thấp hơn thì nguy cơ tha hóa ít hơn. Mặc dù vậy, nói chung phần lớn quan chức đều tham vọng có nhiều quyền lực. Không có gì hấp dẫn, cám dỗ bằng quyền lực. Nó là “ma túy” gây nghiện, là “ma quỷ” xui khiến. Khi có quyền lực là có thể có gần như tất cả, nếu muốn. Vì vậy, quyền lực hấp dẫn bằng các thứ hấp dẫn khác cộng lại. Người ta đam mê nó, suốt ngày nghĩ về nó, dùng mọi thủ đoạn sống chết để giành và giữ lấy nó, dù phải mất nhân cách, dù phải làm việc ác. Có quyền lực rồi thì muốn có quyền lực lớn hơn, lớn rồi vẫn chưa đủ lại muốn lớn hơn nữa. Cứ thế, gần như không có điểm dừng, thậm chí không cần biết có nhiều quyền lực để làm gì. Bản thân việc ấy đã là biểu hiện của sự tha hóa. Quyền lực làm tha hóa con người một cách nhanh nhất. Không ít người chỉ cần sau một cuộc bỏ phiếu hoặc sau một quyết định phong chức, họ có thể bỗng nhiên khác hẳn, họ bắt tay theo kiểu khác, chào hỏi kiểu khác, dáng đi bệ vệ hơn, nói năng ra oai hơn...
Quyền lực không chỉ làm tha hóa mấy con người cụ thể, mặc dù đúng là bắt đầu từ đó, mà còn làm tha hóa cả một chế độ, một vương triều. Nhìn lại các triều đại phong kiến Việt Nam, hầu hết, lúc đầu được nhân dân ủng hộ lên nắm quyền, làm được nhiều việc lớn cho đất nước, dân tộc nhưng sau đó thì bị tha hóa bởi quyền lực, từ tha hóa ở một số người đến một bộ phận rồi thành việc phổ biến của một vương triều, rồi sụp đổ, vương triều khác lên thay, sau một thời gian lịch sử lặp lại y như vậy. Nhà Ngô, nhà Đinh, Tiền Lê có công lớn nhưng mỗi triều đại chỉ tồn tại trong khoảng 15 - 30 năm. Nhà Lý, nhà Trần nhiều lần đánh thắng quân Tống và quân Nguyên nhờ biết “lấy dân làm gốc” mà chiến thắng, cầm quyền được lâu nhất, trên dưới 200 năm mỗi triều đại, dù vậy nhưng cuối cùng cũng do bị tha hóa mà kết thúc. Nhà Hồ tồn tại quá ngắn, mặc dù có một số tư tưởng và chủ trương cải cách nhưng ngay từ khi mới lên đã không được dân chúng đồng tình, mâu thuẫn quyền lực trong giới quý tộc và mất nước vào tay ngoại xâm. Nhà Hậu Lê (Lê sơ) mặc dù lúc đầu được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ, đứng lên làm khởi nghĩa Lam Sơn, thắng giặc Minh hung bạo, nhưng khi lên cầm quyền rồi lại tha hóa, sát hại các trung thần vì họ can ngăn những việc làm sai trái và sợ họ chi phối quyền lực. Nguyễn Trãi cũng bị mưu hại trong giai đoạn này. Nhờ có minh quân mà nhà Hậu Lê gượng lại được một thời gian gần trăm năm, nhưng cuối cùng cũng tha hóa. Nhà Mạc cũng vậy, chỉ tồn tại khoảng 65 năm. Tiếp theo là thời kỳ vừa có vua, vừa có chúa, chúa giành nắm hết quyền lực, nhiều khi vua chỉ là hình thức cho có vì, các chúa cũng tranh giành nhau quyền lực, đến mức phải cát cứ vùng này, vùng kia, chia cắt đất nước ra để mỗi bên cai trị một vùng. Triều Tây Sơn với chiến công oanh liệt, lẫy lừng là thế, vậy mà sau khi Quang Trung mất thì tha hóa, tham nhũng và sụp đổ, tồn tại chỉ có 24 năm. Phần lớn các triều đại ấy đã thoái hóa ngay cuối đời vua thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, chứ không lâu, ngoại trừ một ít trường hợp. Lâu nay lịch sử nước ta đã ghi lại khá rõ các chiến công lừng lẫy của cha ông, nhưng lịch sử chưa viết kỹ về thời kỳ suy thoái, sự tha hóa quyền lực và nhất là nguyên nhân của nó. Đây rất có thể là một khiếm khuyết trong viết sử. Chính vì vậy mà không rút được kinh nghiệm đầy đủ để phòng ngừa, nên tha hóa quyền lực cứ lặp đi lặp lại.
Liên Xô trước đây cũng vậy, thời kỳ đầu thực hiện khá tốt tư tưởng nhà nước của dân, quyền lực về tay các xô-viết là cơ quan thật sự đại diện cho đại đa số nhân dân, làm việc vì nhân dân nên đã lập nên nhiều công tích lớn lao, vĩ đại, đánh thắng 14 nước đế quốc đến bao vây, bảo vệ được chính quyền nhân dân non trẻ, chiến thắng trong Đại chiến thế giới thứ 2, cứu nhân loại khỏi thảm họa phát-xít, thực hiện thành công công nghiệp hóa ở một đất nước rộng lớn nhất thế giới trong thời gian ngắn, đưa một nước chủ yếu còn nông nghiệp, thủ công lên thành một nước công nghiệp hàng đầu thế giới, một cường quốc, dẫn đầu nhiều lĩnh vực; vậy mà sau đó không lâu giới lãnh đạo đất nước bị tha hóa về quyền lực, về đạo đức, bảo thủ và giáo điều, không chịu đổi mới, ai nói khác thì bị quy chụp là “xét lại”, là “muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”... và cuối cùng thì Liên bang Xô-viết bị sụp đổ đến mức khó hiểu nổi. Trước đây có nhiều lần giải thích rằng, Liên Xô đổ là do các thế lực thù địch phá bằng thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Địch thì lúc nào chẳng phá, do nó phá nên mới gọi là địch, mà phá sao bằng trước đó, khi 14 nước đế quốc đến bao vây Nhà nước Xô-viết còn non trẻ, khi trong Đại chiến thế giới thứ 2 quân đội phát-xít tập trung toàn lực tấn công Liên Xô làm chết hàng chục triệu người. Liên Xô sụp đổ chính là “tự đổ”, do suy thoái, tha hóa mà đổ. Liên Xô đã tự đánh gục chính mình.
Sự tha hóa về quyền lực có thể dẫn đến cha con, anh em, chồng vợ giết nhau, người ta giết cả vua, gây ra những cuộc chiến tranh mất bao nhiêu sinh mạng để tranh giành quyền lực, thậm chí người ta bán rẻ Tổ quốc và đem dân tộc làm nô lệ cho ngoại bang để đổi lấy ngai vàng.
Tất nhiên trong xã hội thời nào cũng có nhiều người tốt, nhiều nhân cách đáng trọng. Đối với họ, quyền lực được giao là để phụng sự nhân dân, dùng để bảo vệ dân, đất nước và bảo vệ lẽ phải, đạo nghĩa, chống gian trừ tà. Họ luôn sẵn sàng trao trả quyền lực trở lại cho nhân dân khi đủ điều kiện. Đã có những ông quan thanh liêm treo ấn từ quan vì xét thấy mình không còn đủ sức gánh vác chuyện sơn hà hoặc là không muốn có lỗi với dân vì không ngăn cản nổi những điều ngang trái. Đã có những ông vua từ bỏ ngai vàng, trao quyền lực cho lớp người trẻ, kể cả vào chùa để thúc đẩy các công việc thánh thiện cho đời và cho muôn dân.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, giành lại được một đất nước đã mất, người có công lớn nhất lãnh đạo cuộc cánh mạng là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng lúc đầu Người kiên quyết từ chối làm Chủ tịch nước, không muốn công danh quyền lực. Chỉ khi tập thể phân tích đây là trách nhiệm trước quốc dân đồng bào, là gánh vác trọng trách và khó khăn, Người mới nhận lãnh trách nhiệm, phát biểu trước đồng bào sẽ làm hết sức mình để phụng sự nhân dân và mong nhanh có người thay thế để được về vui sống với điền viên, giản dị và thanh bạch. Chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng cũng là một con người như vậy. Khi đang ở ẩn trong vườn mít ở miền tây tỉnh Quảng Nam, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra làm Phó Chủ tịch nước, rồi làm Quyền Chủ tịch nước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp, ông không cần mong vinh hoa phú quý, chỉ đem toàn bộ tâm lực phục vụ nhân dân. Đó là những con người có nhân cách lớn, quyền lực không đe dọa được và cũng không cám dỗ được. Thời gian vừa qua, ở nơi này nơi khác, thỉnh thoảng có những đồng chí bí thư thành ủy, thường vụ tỉnh ủy đã tự nguyện chủ động từ chức sớm, khi chưa hết tuổi và chưa hết nhiệm kỳ, để những vị trí lãnh đạo cho các đồng chí trẻ hơn... Tất cả những con người ấy đều đáng trân trọng, không được “vơ đũa cả nắm” đối với những người có quyền lực được trao.
Ngược lại, trong xã hội, ở chốn quan trường, không ít người đầy tham vọng quyền lực. Khi quyền lực được gắn với chữ “tham”, lòng tham, thì đó chính là động cơ, nguyên nhân và biểu hiện của tha hóa quyền lực. Không thể hy vọng và tin tưởng gì ở họ, ngược lại phải hết sức cảnh giác, đề phòng bị lừa phỉnh, phủ dụ, mị dân, đừng “gửi trứng cho ác”, đừng đem sự nghiệp của dân, của nước trao vào tay họ.
Mặt khác, quyền lực không thể trao cho ai mà không cần kiểm soát. Nó là con dao hai lưỡi. Nó có thể biến người sử dụng nó từ một người chưa xấu trở thành người xấu, biến người sử dụng nó thành nô lệ cho nó. Mấy chục năm sau khi thống nhất đất nước, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng. Nội dung các văn bản ấy nhìn chung đều đúng, không sai, việc tổ chức thực hiện cũng tích cực, thậm chí có lúc vất vả nữa, nhưng tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “mua quan bán chức”,... gọi chung là thoái hóa, không dừng lại mà còn tăng lên, lan rộng hơn, gây nhức nhối hơn, làm cho lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước tiếp tục giảm sút đến mức báo động. Vì sao vậy? Chắc chắn không phải việc chống các tiêu cực ấy là ta chủ trương giả vờ, không chống thật; mà là chống chưa được, chưa hiệu quả. Vậy còn thiếu cái gì? Có hai vấn đề còn thiếu, coi như chưa làm, mà nếu không làm thì không khắc phục được tình trạng trên và có thể nó sẽ còn tiếp tục trở nên xấu hơn, không tránh được. Đó là tập trung kiểm soát quyền lực và bổ sung mạnh các cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội.
Quyền lực, như đã nói, luôn có mặt trái là làm tha hóa những người nắm giữ và sử dụng nó mà không đủ nhân cách. Nó như con dao hai lưỡi, con ngựa bất kham, luôn lồng lên quật ngã những người cưỡi nó, nếu họ không đủ nhân cách, bản lĩnh, năng lực cầm cương. Nhất thiết phải kiểm soát quyền lực, không thể chủ quan, lơ là, không thể đùa với lưỡi dao nhọn. Đã có rất nhiều bài học thực tiễn, thực tế đã chứng minh điều đó; phải bàn kỹ và có quyết tâm chính trị để thực hiện. Đảng ta phải tập trung cao, tích cực lãnh đạo công việc này. Đây là công việc quan trọng vào bậc nhất, trong đó có các việc, như cơ cấu và phân bổ lại chức năng, quyền hạn của các cơ quan nhà nước theo hướng kiểm soát và điều chỉnh lẫn nhau (để Nhà nước thật sự là một cơ thể thống nhất và tự kiểm soát, tự điều chỉnh được mình, có sức đề kháng cao với căn bệnh thoái hóa quyền lực, có khả năng sửa sai nhanh nhất...); đổi mới căn bản nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó có phương thức lãnh đạo xây dựng Nhà nước thật sự của nhân dân, bảo đảm quyền lực là của nhân dân. Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước. Ủy quyền mà không mất quyền. Ủy quyền và kiểm soát được quyền lực, không để lộng quyền.
Một dân tộc muốn tiến lên cần phải có bộ tham mưu chiến lược. Có sự lãnh đạo của một đảng chân chính và trí tuệ là yêu cầu khách quan. Nhưng khi trở thành đảng cầm quyền thì hoạt động của đảng không tránh khỏi có nhiều việc liên quan với quyền lực. Đảng ta luôn ý thức về sự lãnh đạo của mình chủ yếu phải bằng giá trị (văn hóa) chứ không phải bằng quyền lực, và Đảng phải nghĩ ra các cơ chế để đảng viên, nhân dân và pháp luật kiểm soát mình, kể cả nhân cách và việc sử dụng quyền lực, để Đảng được rèn luyện liên tục, thường xuyên; từ đó mà không bị thoái hóa và ngày càng trưởng thành hơn. Thực hiện điều ấy bằng cơ chế kiểm soát quyền lực và cơ chế thực thi dân chủ. Để có thể thành công, bản thân Đảng phải gương mẫu, từng cấp ủy và từng cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, vượt qua chính mình. Đảng phải là “con” của nhân dân, là “con nòi” của dân tộc, là đứa con trung hiếu và trưởng thành, để “lòng dân yêu Đảng như là yêu con” như cách nói của Bác Hồ và nhà thơ Tố Hữu. Làm được như vậy, Đảng sẽ được nhân dân luôn tin yêu, nhờ đó mà giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình để làm tròn sứ mệnh phụng sự nhân dân và Tổ quốc./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét