Thứ Ba, 27 tháng 12, 2016

Thư gửi Mỹ Tâm: Làm gì để người mù không phải ăn mày tình thương?

Thư gửi Mỹ Tâm: Làm gì để người mù không phải ăn mày tình thương?
Bức tranh của hoạ sĩ mù người Anh Keith Salmon.

Hôm qua xem xong cái clip Tâm hát cùng bạn ca sĩ mù, chị xúc động quá. Xúc động xong rồi chị nghĩ, chả lẽ clip đó rồi cũng lại chỉ thoảng qua như bao hành động chân tình khác.

Mỹ Tâm thân mến, 
Phương Mai hơn Tâm vài tuổi, nên xưng chị cho gần nha.
Hôm qua xem xong cái clip Tâm hát cùng bạn ca sĩ mù, chị xúc động quá. 
Xúc động xong rồi chị nghĩ, chả lẽ clip đó rồi cũng lại chỉ thoảng qua như bao hành động chân tình khác, dù thành tâm và lay động con tim, nhưng cuối cùng cũng chỉ là một kỷ niệm đẹp trong lòng bạn ca sĩ tật nguyền, một hình ảnh đẹp của Tâm trong lòng khán giả, một chút niềm vui trong cái xã hội mà những tin xấu xa lừa đảo nhau đến chết đã quá đủ với chúng ta.
Thư gửi Mỹ Tâm: Làm gì để người mù không phải ăn mày tình thương? - Ảnh 2.
Mỹ Tâm song ca cùng người khuyết tật trong đêm Giáng sinh khiến nhiều người xúc động.
Người khuyết tật ở xứ mình chịu thiệt thòi vì nhiều lẽ. 
Thứ nhất là dân số đông nên nguồn lao động không khan hiếm để khiến chính quyền có động lực giúp đỡ họ tham gia lao động. 
Ở nhiều nước phát triển, người khuyết tật đóng góp ngang hàng với người lành lặn, và ý thức lao động của  họ tốt hơn hẳn. Công ty có nhân viên khuyết tật đạt chỉ số hài lòng của khách hàng cao hơn 14%, nhiều phát minh sáng kiến hơn 7%, và dòng kiến thức được chia sẻ cao hơn 55%. 
Một số công ty còn bắt đầu chỉ tuyển nguời khuyết tật, vì "khuyết tật" của họ thực ra lại là điểm mạnh trong công việc. Thiết kết phần mềm chẳng hạn, SAP và Microsoft thậm chí còn đặt mục tiêu phải tuyển ít nhất mỗi năm 1% người bị tự kỷ vì họ là những lập trình viên tuyệt vời nhất. 
Em thấy không, đó là cú phản đòn tuyệt vời khiến định kiến phải thua một bàn ngoạn mục. Đó là khi những kẻ chúng ta cho là thiếu may mắn không chấp nhận tên mình là Bất Hạnh, và dùng chính những thứ người đời cho là khiếm khuyết để tung cánh lên cao khiến chúng ta phải ngước nhìn. 
Đó là khi người mù coi việc không nhìn thấy ánh sáng là cơ hội để cảm nhận âm thanh hàng trăm lần tốt hơn người thường và đem đến cho chúng ta những bản nhạc bất hủ như Stevie Wonder. Đó là khi một cô gái tàn tật từ chối coi mình là tàn tật và biến chính sự khác biệt của cơ thể mình thành chủ thể nghệ thuật và trở thành nghệ sĩ nổi tiếng thế giới như Frida Kahlo. 
Thư gửi Mỹ Tâm: Làm gì để người mù không phải ăn mày tình thương? - Ảnh 3.
Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai là chuyên gia đào tạo về kỹ năng mềm, và giảng dạy môn đàm phán/giao tiếp đa văn hóa tại Đại học Khoa học ứng dụng Amsterdam, Hà Lan.
Thế giới đang chứng kiến những con người dũng cảm thách thức khái niệm của đám đông về "thiếu hụt", "khiếm khuyết" hay "tàn tật". 
Điều thiệt thòi thứ hai của người khuyết tật tại Việt Nam là những đứa trẻ bị khuyết tật nếu có diễm phúc được gia đình chăm sóc thì cũng vẫn lén lút bị coi như nỗi xấu hổ. Cha mẹ không dám khoe, không dám lộ liễu yêu thương, và không bao giờ mang theo niềm hy vọng hay tự hào của gia đình, cả đời bị coi là gánh nặng. 
Hồi nhỏ gia đình bạn chị cứ thấy có khách đến là giấu tiệt đứa con bị câm điếc vào phòng ngủ. Có lẽ niềm tin vào nhân quả khiến họ cho rằng tật nguyệt ở đời F1 là kiếp nạn họ phải trả cho những lỗi lầm kiếp trước chăng? 
Năm ngoái trên đường ra sân bay, chị thoáng thấy một sân khấu do người khiếm thị biểu diễn trên đường đê Hà Nội. Cái sân khấu xấu xí, bé tý, phông nàn còn tệ hơn trò cắt dán thủ công của trẻ con, loa đài to át cả còi xe. 
Trên sân khấu, một bạn ca sĩ đang cầm míc đứng nghiêm trang hát một bài hát não lòng. Không có ai dừng lại xem. Mà có muốn dừng lại cũng không được vì sân khấu dựng ngay trên vỉa hè sát lòng đường. Họ đứng lại thì sẽ cản trở giao thông. 
Bạn ca sĩ ấy hát, trơ trọi, cô đơn, nhạt nhoà, không thần sắc, trên một sân khấu tồi tàn. Nếu như chị có thể dừng lại và đóng góp, hẳn là vì THƯƠNG, chứ không phải vì HAY. 
Vấn đề là, người mù và khiếm thị, cũng như tất cả những người khuyết tật trên đời này, họ có cần tình thương của chúng ta không? Có. Nhưng nếu chỉ có tình thương thì nó chả mấy chốc mà thành thương hại. Từ thương hại đến khinh khi chỉ có vài li. Họ, cũng như chúng ta, cần hơn hết là sự Tôn Trọng và Cảm Phục. 
Thế giới đã chuyển biến rất nhiều trong quan điểm về người khuyết tật. Họ không những là một thị trường kinh doanh màu mỡ mà còn là những người lao động giỏi, thậm chí giỏi hơn những kẻ lành lặn vì họ có đạo đức nghề nghiệp và tinh thần lao động cao. 
Chúng ta đã từng sai lầm biết bao khi cho rằng người mù thì chỉ có thể làm một số việc nhất định, cũng như người bị điếc hay các dị tật khác. 
Bộ não của chúng ta rất kỳ diệu. Nó có khả năng biến đổi cấu trúc và chất liệu để giúp chúng ta thích nghi với cuộc sống hàng ngày. 
Người nào thường xuyên phải đa-zi-năng, làm nhiều việc một lúc thì não sẽ biến đổi để họ ngày càng đa-zi-năng hơn. Ai lái xe nhiều ắt sẽ giỏi lái xe. Nguời khuyết tật cũng vậy, não của họ dần dần phát triển các khối nơ ron rất khác người thường để giúp họ nhận biết cuộc sống hoàn chỉnh. 
Khi hoạ sĩ mù Esref Armagan vẽ tranh, phần não phụ trách hình ảnh của ông không đen kịt mà sáng loà như một cây thông Giáng Sinh, như thể ông đang vẽ với con mắt sáng bình thường vậy.
Trên thế giới, hầu như không có một nghề nghiệp nào mà người khuyết tật, hay chi tiết hơn là người mù, không làm. Ngoài những công việc khá phổ biến như ca sĩ, nhạc sĩ, người mù có thể là giáo viên, luật sư, vũ công, nhà thiết kế, kế toán, nhà khoa học, nhà toán học. 
Tommy Edison là nhà phê bình phim nổi tiếng, Erik Weihenmayer là người mù đầu tiên chinh phục đỉnh Everest, mở đường cho hàng triệu người mù là vận động viên thể thao khác như Alan Lock - người chèo thuyền vượt Đại Tây Dương và trượt tuyết tới cực Nam. 
Bức tranh chị chọn đây là của hoạ sĩ mù người Anh Keith Salmon. Trên thế giới có rất nhiều bác sĩ bị mù, tiêu biểu là Jacob BolotinSadly. Ông mất sớm ở tuổi 36 và đám tang ông có hơn 5000 bệnh nhân đưa tiễn. 
Người mù rất giỏi làm chính khách, thống đốc bang New York David Paterson dù bị mù từ năm 3 tuổi nhưng vẫn có một sự nghiệp chính trị lừng lẫy. 
Bà Dawn Wiseman là một nhà thiết kế tóc thời trang tài ba, và bà hoàn toàn không nhìn thấy tóc của khách hàng, chỉ dùng những ngón tay để cảm nhận. 
Người mù có thể sử dụng nhưng dụng cụ lao động mà người lành lặn cũng phải cẩn thận như cưa, dao, kéo...Christine Hà là người mù đầu tiên tham dự cuộc thi nấu ăn nổi tiếng Master Chef. 
Người lành lặn chúng ta phải cảm ơn những nhà phát minh bị mù vì họ đã đem lại vô số sáng chế, một trong những thứ đó là công năng chạy tự động ở xe ô tô. 
Ralph Teetor cảm thấy bực mình vì luật sư của ông không thể vừa lái xe vừa nói chuyện nên đã sáng chế ra tính năng cruise control. Chiếc xe mà Tâm yêu cầu quay đầu lại để em có thể hát với bạn ca sĩ bị mù hôm nọ chắc chắn có tính năng này. 
Vậy người mù ở Việt Nam đang làm gì? Họ có nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ để sống cuộc đời không phải ăn mày tình thương? 
Chị không có nhiều kinh nghiệm, nhưng những sản phẩm của người mù đến tay chị thường là tăm tre và chổi đan. Tăm thì xấu, mua vì thương, xong vứt đi. Chổi cũng không khác mấy. Tệ hơn, họ còn gọi đây là "sản phẩm tình thương". Chả khác gì những bài hát trên cái sân khấu tồi tàn dựng ở ven đường. 
Bạn ca sĩ ấy kể rằng có lần còn bị ném trứng vào mặt vì người dân xung quanh không thích sự ồn ào. Thương thắt cả ruột, nhưng cũng phải tự hỏi mình: Nếu có cái sân khấu ấy ngày nào cũng oang oang hoặc ê a ngay cạnh nhà, thì chị phải làm sao? 
Cái loa phường mỗi tuần một lần có nửa tiếng thôi mà đã làm mình phát điên lên muốn cắt dây điện cho rồi. Tình thương mà bị thử thách khắc nghiệt như vậy, thương bao lâu thì trở thành khó chịu? 
Mà sao lại phải là tình thương? Thế giới đã bắt đầu không nhìn người khuyết tật như những kẻ đáng thương mà là những người "lành lặn theo kiểu của họ", thì tại sao chúng ta vẫn để đồng bào mình phải sống bằng tình thương khi họ hoàn toàn có khả năng sống bằng năng lực của chính mình? 
Em là nghệ sĩ nổi tiếng Mỹ Tâm à. Cái sân khấu chòi canh ấy không có khán giả và mãi mãi sẽ không có khán giả nếu không có em bất ngờ quay đầu xe lại. Em đi thì khán giả cũng đi theo
Clip đăng lên người ta tung hô em chứ không thay đổi quan điểm về chàng ca sĩ. Ngày mai họ cũng vẫn sẽ đứng một mình nghiêm trang trên cái sân khấu bé tý xấu xí. Họ hát và tưởng mình đang biểu diễn nghệ thuật. Họ nhận tiền và tưởng đó là phần thưởng của tài năng. 
Chị biết trái tim em nhân hậu. Chị uớc sao em có thể bắt đầu từ sự nhân hậu ấy và dùng tài năng cũng như sức ảnh hưởng của mình để làm thay đổi cuộc sống của những con người mà em từng ấm lòng chia sẻ. 
Chị mạnh dạn gợi ý nhé: 
1. Mời một vài bạn thực sự có chất giọng, đào tạo và tham gia biểu diễn cùng em trên sân khấu lớn để tạo sự thay đổi về nhận thức. Hôm nọ chị vừa xem buổi biểu diễn cuả nghệ sĩ Hà Lan nổi tiếng André Rieu, và trong dàn vũ công nhảy điệu van đôi (Waltz) của ông có hàng chục cặp ngồi xe lăn xoay tròn trong tiếng nhạc. Ai cũng thấy đẹp và xúc động.
2. Cùng các bạn nghệ sĩ và nhà thiết kế khác giúp thực hiện một tụ điểm sân khấu ca nhạc đúng tiêu chí nghệ thuật. Khán giả đến xem mua vé, có giờ giấc đàng hoàng, không ảnh hưởng đến dân cư xung quanh. 
Các bạn ca sĩ và đạo diễn có thể huấn luyện để dần dần họ có cảm nhận sân khấu, có thể biểu diễn theo đúng từ "biểu diễn", và ăn mặc như một nghệ sĩ chứ không phải bộ quần áo nhàu nhĩ với cái bảng tên lủng lẳng trước ngực như bây giờ. 
3. Thiết kế một chương trình truyền hình The Voice - The Heart cho các bạn mù và khiếm thính. Phiên bản Việt Nam, bản quyền Việt Nam. Nếu thực hiện thành công, cả thế giới sẽ phải khâm phục sự nhân ái của người Việt và khả năng của nghệ sĩ mù Việt Nam. 
Hãy tưởng tượng sự chuyển biến thần kỳ của một người đứng im và hát cho đến ngày họ có thể biểu diễn điệu nghệ không khác gì một ca sĩ tài năng.
Em nghĩ xem sao nhé.

Đại học miền Nam trước 1975: Hồi tưởng và nhận định

511px-saigonuniversitycollegeofpedagogy
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Gs Lê Xuân Khoa*
Khi được một thành viên trong Ban chủ biên Kỷ yếu Humboldt 200, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Xanh, mời viết một bài về Đại học Miền Nam cho tập Kỷ yếu đánh dấu 200 năm Đại học Humboldt, tôi rất vui vì có cơ hội tham gia vào một công trình có ý nghĩa của một tập hợp trí thức trong và ngoài nước quan tâm đến sứ mệnh giáo dục Đại học ở Việt Nam. Tuy nhiên, tôi đã rất ngần ngại nhận lời, không chỉ vì tôi đã rời xa ngành giáo dục Việt Nam trên 35 năm mà còn lo ngại ký ức của tôi không còn nhớ nhiều về tổ chức và hoạch định chính sách cho nền giáo dục Đại học Miền Nam trước 1975. Quả thật, ngoài 15 năm giảng dạy một môn học rất xa thực tế là “Triết học Upanishad” và “Thiền học Việt Nam” ở Đại học Sài-gòn (sau này có dạy thêm “Văn minh Việt Nam” ở Đại học Đà-lạt,) tôi chỉ tham gia vào bộ phận điều hành ở Bộ Giáo dục, Viện Đại học Vạn Hạnh và Viện Đại học Sài-gòn trong những thời gian rất ngắn, từ năm tháng tới một năm. Tôi cũng ít có dịp hợp tác trực tiếp với những nhà lãnh đạo Đại học, trừ bốn người là cố Giáo sư Nguyễn Quang Trình (ĐH Sài-gòn), cố Linh mục Nguyễn Văn Lập (ĐH Đà-lạt), Thượng Tọa Thích Minh Châu (ĐH Vạn Hạnh) và cố Bác sĩ Nguyễn Ngọc Huy (ĐH Sài-gòn). Nhưng tôi đã được TS Nguyễn Xuân Xanh thuyết phục khi anh nhắc nhở rằng một bài viết về Đại học miền Nam của một “người trong cuộc”, dù ít dù nhiều cũng là điều không thể thiếu trong tập kỷ yếu Humboldt 200, trong đó có phần lịch sử Đại học Việt Nam từ thời cổ, triết lý và quá trình phát triển của nó trong 30 năm chiến tranh (1945-1975) và 35 năm sau thống nhất, đặc biệt là những vấn đề của hiện tại và nhu cầu “đổi mới để nhanh chóng vươn lên với thế giới”.
Vì đã có nhiều tác giả viết về lịch sử, triết lý và hệ thống tổ chức của nền giáo dục miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) từ Tiểu học tới Đại học, tôi thấy không cần thiết phải mô tả lại hệ thống giáo dục này. Tôi sẽ chỉ trình bày một số nhận xét và kinh nghiệm riêng của tôi về chính sách và điều kiện sinh hoạt Đại học trong khung cảnh chung của nền giáo dục ở miền Nam trước 1975, sau khi đã kiểm lại một số dữ kiện với hai bạn đồng nghiệp cũ là Giáo sư Nguyễn Thế Anh và Giáo sư Lê Thanh Minh Châu, cả hai đều từng giữ chức vụ Viện trưởng Viện Đại học Huế. Tuyệt nhiên đây không phải là một bài nghiên cứu hay luận thuyết mà chỉ là một bài ghi nhận  một số sự kiện đáng được lưu ý trong lịch sử ngắn ngủi 20 năm của nền giáo dục đại học ở miền Nam, từ ngày đất nước chia đôi đến ngày thống nhất. Do sự suy giảm của trí nhớ, tôi có thể đã bỏ sót hay không nhớ đích xác một số sự kiện diễn ra trên dưới 50 năm về trước.
Từ trung ương tập quyền đến tự trị đại học 
Nói đến giáo dục Đại học hiện đại không thể không nói đến quyền tự trị của Đại học. Đó là xu thế chung của đại học ở các nước dân chủ như một điều kiện sine qua non cho sự phát triển của con người và xã hội. Điều 10 trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa năm 1967 ghi rõ: “Nền giáo dục Đại học được tự trị”. Điều này phản ánh tinh thần khai phóng trong triết lý giáo dục miền Nam được xác định trong Đại hội giáo dục lần thứ nhất năm 1958, với ba nguyên tắc căn bản là “nhân bản, dân tộc, khai phóng”. Đại hội này được tổ chức với sự tham gia của đại diện giáo chức các cấp trên toàn quốc cùng một số trí thức độc lập bên cạnh các đại diện của Bộ Giáo dục. Mọi quyết định của hội nghị đều là kết quả của những cuộc thảo luận và biểu quyết hoàn toàn tự do không có bất cứ sự can thiệp nào của chính quyền. Tinh thần khai phóng ở Đại học được thể hiện rõ rệt nhất trong việc tiếp thu những kiến thức khoa học tiến bộ và những giá trị văn hóa nhân bản của thế giới nhằm hiện đại hóa đất nước và phát triển toàn diện con người. Điểm này sẽ được đề cập chi tiết hơn ở một đề mục dưới đây.
Thật ra cho đến năm 1975 Đại học miền Nam vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt tình trạng chuyển tiếp từ truyền thống trí thức hàn lâm của Đại học Pháp sang truyền thống thực dụng của Đại học Mỹ. Năm 1955, trước khi Pháp hoàn tất việc chuyển giao tất cả các cơ sở công quyền cho Việt Nam, hai nước đã ký kết một bản thỏa hiệp có hiệu lực mười năm về hợp tác và trao đổi văn hóa. Lý do là chính phủ Pháp muốn duy trì sự hiện diện và ảnh hưởng của văn hóa Pháp ở Việt Nam trong lâu dài, trong khi chính phủ mới ở miền Nam cũng cần phát triển giáo dục từ một nền tảng đã có sẵn, nhất là vì các nhà lãnh đạo chính quyền và trí thức đại học đều được đào tạo bởi nền giáo dục Pháp. Trong mười năm đó, chính phủ Pháp cấp học bổng cho nhiều giáo sư trung học sang Pháp tu nghiệp ngắn hạn hay tiếp tục học để lấy bằng tiến sĩ. Nhưng dần dần ảnh hưởng Pháp mờ nhạt đi kể từ khi Việt Nam bắt đầu gửi công chức và sinh viên sang Hoa Kỳ, Úc, Tân-Tây-Lan và các nước khác vào những năm cuối thập kỷ 1950.
Truyền thống giáo dục cổ điển của Đại học Pháp bắt nguồn từ bản Hiến Pháp năm 1791 (hai năm sau Cách Mạng 1789) xác định vai trò của quốc gia trong giáo dục, bảo đảm mọi công dân có cơ hội đồng đều về giáo dục ở mọi cấp và mọi ngành. Những nghị định năm 1806 và 1808 dưới thời Napoléon I đặt toàn thể hệ thống giáo dục từ tiểu học tới đại học dưới sự điều hành và kiểm soát của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chính sách trung ương hóa nền giáo dục toàn quốc có mục đích kiện toàn nền thống nhất của quốc gia và tinh thần đoàn kết trong nhân dân Pháp. Định chế toàn quốc ấy đã tồn tại cho đến tận ngày nay, nhưng qua nhiều lần cải cách, chức phận điều hành và kiểm soát của Bộ Giáo dục đã được nới lỏng để con người được phát triển đầy đủ và tự do hơn. Đặc biệt ở cấp Đại học, sự kiểm soát không nhắm vào các hoạt động hàn lâm mà chú trọng đến sự hợp lệ trong các thủ tục điều hành ngân sách và nhân viên.
Chịu ảnh hưởng truyền thống cổ điển của Pháp, giáo dục đại học ở miền Nam không được tự trị về cả ba phương diện ngân sách, nhân viên và học vụ. Quả thật các Viện Đại học Sài-gòn, Huế, Cần Thơ, Đại học Bách Khoa Thủ Đức, các trường Cao đẳng và Đại học Cộng đồng của chính phủ đều được đặt dưới quyền điều hành của Bộ Giáo Dục. Các quyết định quan trọng như tuyển dụng hay thăng ngạch trật của giáo sư, mua sắm vật liệu hay chi phí xây dựng đều phải trình cho Bộ trưởng duyệt ký. Riêng chức vụ Viện trưởng là do Tổng thống bổ nhiệm, nhưng dưới thời Đệ nhị Cộng hoà thì việc bổ nhiệm Viện trưởng phải được Quốc hội thông qua sau một buổi điều trần về đường lối và tổ chức Đại học. Tiếp theo đó, Thủ tướng bổ nhiệm các Phó Viện trưởng theo đề nghị của Viện trưởng nhưng không cần phải thông qua Quốc hội. Chữ ký của Viện trưởng trên các văn bằng Đại học luôn luôn theo sau dòng chữ “Thừa ủy nhiệm Bộ trưởng Giáo dục”. Các khoản viện trợ từ bên ngoài cho phảt triển Đại học cũng phải qua ngân sách của Bộ Giáo dục ngoại trừ dưới hình thức hiện vật như sách vở, dụng cụ, máy móc, hay giáo sư thỉnh giảng (visiting professors) không do chính phủ Việt Nam trả lương. Nguồn viện trợ thường là các chương trình ngoại viện của các chính phủ Pháp, Mỹ, Úc, Tân-Tây-Lan . . . Về học vụ, mặc dù nội dung chương trình giảng dạy thuộc thẩm quyền của Đại học, việc tổ chức các phân khoa, thi cử và văn bằng cùng với mọi sáng kiến thay đổi hay dự án mới đều phải được sự chấp thuận của Bộ Giáo dục. Tóm lại, Bộ Giáo Dục giữ vai trò điều hợp tổng quát các đại học để thống nhất về mặt triết lý giáo dục, quản trị nhân viên và tài chánh (trừ Học Viện Quốc Gia Hành Chánh huấn luyện công chức là trực thuộc phủ Tổng Thống).[1]
Công bằng mà nói thì truyền thống đại học của Pháp không hẳn là một di sản xấu khiến cho đại học Việt Nam bị yếu kém về phẩm chất, như nhận xét của hai tác giả Thomas Vallely và Ben Wilkinson trong bản phúc trình của Đại học Harvard năm 2009. Nhận xét này đã bị Giáo sư Tạ Văn Tài phản bác rất đúng khi ông trả lời cuộc phỏng vấn của Đài Á châu Tự do, nhấn mạnh rằng những giáo sư đại học Việt Nam do Pháp đào tạo đều là những trí thức ưu tú không thua kém gì những đồng nghiệp người Pháp hay ngoại quốc khác. Họ đã xây dựng vững chắc nền đại học miền Nam từ 1954 và hầu hết sinh viên của họ khi ra nước ngoài đi làm hay học lấy bằng cấp cao hơn cũng đều là những nhân tài xuất sắc.[2] Có bậc thày không chỉ có công đào tạo ít nhất là hai thế hệ sinh viên mà còn là tấm gương sáng về đạo đức nghề nghiệp. Chẳng hạn, Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, người có công gây dựng Đại học Văn Khoa từ những ngày đầu ở Hà Nội vào năm 1949-1950; bên Y khoa không mấy ai không biết đến Giáo sư Phạm Biểu Tâm là một vị thày thuốc điển hình của truyền thống Hippocrate.
Ở miền Nam, khi ghi trong Hiến pháp năm 1967 là “Nền giáo dục Đại học được tự trị,” các nhà làm chính sách giáo dục đã xác nhận sự cần thiết phải hội nhập với thế giới dân chủ, nhất là theo mô hình của Mỹ. Nhưng việc trao cho đại học quyền tự trị, nhất là về quản trị nhân viên và sử dụng ngân sách, từ những định chế lâu đời như Bộ Giáo dục, Tổng Nha Công vụ và Tổng Nha Ngân sách đòi hỏi những sự thay đổi hay điều chỉnh thích hợp về luật lệ và thủ tục, do đó cần phải có thời gian thực hiện theo một tiến trình chuyển tiếp.
Dù sao trong tiến trình tự trị hóa, Đại học miền Nam đã được hưởng nhiều ưu đãi. Các đề nghị của Hội đồng đại học về nhân viên hay ngân sách thường được chính phủ chấp thuận mau chóng ngoại trừ những quyết định thật quan trọng. Do sự tín nhiệm sẵn có đối với lãnh đạo đại học, sự chấp thuận của chính phủ được căn cứ vào sự hợp lệ về hành chánh và khả năng ngân sách hơn là xét về nhu cầu và giá trị của đề nghị. Về mặt học vụ, sự chấp thuận của Bộ Giáo dục lại càng có tính hình thức hơn nữa vì không khi nào Bộ ra chỉ thị hay can thiệp vào việc ấn định nội dung các môn học, thể lệ thi cử và chấm thi, các công tác nghiên cứu và giảng dạy, miễn là không trái ngược với ba nguyên tắc căn bản là nhân bản, dân tộc và khai phóng. Chính sách uyển chuyển này đối với lãnh đạo đại học đưa đến thái độ mặc nhiên chấp thuận cho đại học thử nghiệm sáng kiến mới để rốt cuộc chính thức công nhận kết quả của thử nghiệm. Một thí dụ: khoảng giữa năm 1965, tôi được biệt phái từ Đại học Văn khoa Sài-gòn sang Viện Đại học Vạn Hạnh trong một năm để giúp tổ chức và soạn thảo chương trình cử nhân cho Phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn.  Sau khi hội ý với Thượng Tọa Viện trưởng Thích Minh Châu và được sự đồng ý của Thượng Tọa, tôi bắt đầu soạn thảo các môn học theo hệ thống tín chỉ (credits) thay thế cho các chứng chỉ cử nhân nhưng vẫn duy trì chế độ niên khóa. Tôi trở về Đại học Sài-gòn khi xong công việc và được biết dự án cải cách dung hòa cũ-mới này sau đó được Hội đồng Viện hoàn chỉnh và lần lượt áp dụng vào các Phân khoa khác. Điều đáng chú ý là khi Viện ĐH Vạn Hạnh trình dự án này lên Bộ Giáo dục xin ý kiến, Bộ không chính thức chấp thuận hay bác bỏ, nhưng các văn bằng cử nhân của Đại học Vạn Hạnh đều được Bộ công nhận. Những buổi lễ phát bằng tốt nghiệp cho sinh viên luôn luôn có sự hiện diện của Bộ trưởng Giáo dục. Từ đầu thập kỷ 1970, hệ thống tín chỉ chính thức được áp dụng ở các Đại học Cộng đồng và Đại học Bách khoa Thủ đức của chính phủ.
Sự nảy nở các đại học cộng đồng (hay đại học sơ cấp hai năm) từ 1971 đáp ứng nhu cầu thực tế về nhân lực của địa phương và thể hiện tinh thần dân chủ vì có sự tham gia trực tiếp về tài chính và quản lý của địa phương đó. Sự thành lập Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1973 được phỏng theo mô hình California Polytechnic State University đích thực là một đại học đa khoa, không chỉ gồm những phân khoa thiên về nghiên cứu mà bao gồm cả các ngành thực tiễn như nông nghiệp, kỹ thuật cơ khí, điện tử . . . là những ngành cần thiết cho nền kinh tế tại Đô thành và các tỉnh lân cận. Một đặc điểm trong chương trình đại học cộng đồng hồi đó là chương trình giáo dục bổ túc dành cho những sinh viên do hoàn cảnh chiến tranh nên thiếu căn bản vững chắc để theo các lớp đại học. Chương trình này cũng nhắm vào những quân nhân giải ngũ, nhất là khi đất nước hòa bình, cần được cập nhật và bổ túc kiến thức sau một thời gian bị gián đoạn việc học. Như vậy, việc cải cách giáo dục đại học theo xu hướng thực dụng và dân chủ hóa đã thật sự bắt đầu từ năm 1971.
Tự do học thuật và phát triển con người
zpfile000
Gs Phạm Biểu Tâm nói chuyện với SVYK trong một giảng đường
Mặc dù một phái đoàn của Đại học Michigan đã đến Sài-gòn từ năm 1954 để giúp cải tổ chương trình đào tạo cán bộ ở Học viện Quốc gia Hành chánh, ảnh hưởng giáo dục đại học Mỹ chỉ bắt đầu ba bốn năm sau và đến những năm đầu thập kỷ 1970 mới có sự tăng tốc trong tiến trình đổi mới, với sự nâng cấp một số trường Cao đẳng Chuyên nghiệp, sự ra đời của một loạt Đại học Cộng đồng và của trường Đại học Bách Khoa Thủ Đức. Thế hệ trí thức theo truyền thống cũ của Pháp cũng ý thức được nhu cầu đổi mới và lợi ích của tự trị đại học trong công cuộc phát triển xứ sở nên cũng sẵn sàng chuyển hướng theo triết lý giáo dục của Mỹ. Tuy nhiên, mọi nỗ lực dân chủ hóa và thực tiễn hóa giáo dục đại học không có đủ thời gian thành tựu khi chế độ Cộng Hòa ở miền Nam sụp đổ năm 1975.
Tự trị học vụ trong qui chế tự trị đại học thường bị lẫn lộn với một chức năng liên hệ là tự do nghiên cứu và giảng dạy nay đã trở thành một truyền thống đại học ở các nước dân chủ. Đến đây, cần phải nhắc đến triết lý giáo dục của Đại học Humboldt nhấn mạnh vào sứ mệnh của trí thức đại học là phát triển toàn diện con người bằng khoa học và văn hóa, và điều kiện của phát triển là tự do nghiên cứu, sáng tạo và giảng dạy. Phát triển con người bằng khoa học là tinh thần khai phóng, phát triển con người bằng văn hóa là tinh thần nhân bản. Đó là hai nguyên tắc chính yếu đã được đưa vào triết lý giáo dục các cấp ở miền Nam cùng với nguyên tắc thứ ba là tinh thần dân tộc, theo thứ tự “nhân bản, dân tộc, khai phóng,” phù hợp với nhu cầu và sứ mệnh của một quốc gia đang mở mang muốn vươn lên và hội nhập thành công trong cộng đồng thế giới.
Giáo dục nhân bản lấy con người làm cứu cánh nên chú trọng vào việc xây dựng đạo làm người, phát triển mầm mống tốt ở con người, phục vụ nhân sinh để tiến đến một xã hội hoàn thiện, đúng như đã được định nghĩa trong sách Đại học của Nho giáo (Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện). Đạo Nho có những giáo điều phong kiến lỗi thời nhưng những nguyên tố để đào tạo mẫu người lý tưởng như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đều có giá trị phổ quát và vĩnh viễn. Người “quân tử” hay “kẻ sĩ” thời phong kiến khác với người “trí thức” thời dân chủ về trách nhiệm cụ thể, nhưng hoàn toàn giống nhau về tư cách đạo đức và tinh thần trách nhiệm. Giáo dục dân tộc nhằm bồi dưỡng tinh thần hiếu hòa nhưng nhiệt tình yêu nước của giống nòi Hồng Lạc qua hơn hai nghìn năm lịch sử, bảo tồn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Tinh thần dân tộc được thể hiện ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng Ba 1945 và trao trả độc lập cho chính quyền Bảo Đại/Trần Trọng Kim: nền giáo dục Việt Nam lập tức được Việt hóa với chương trình Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Giáo dục khai phóng tiếp thu những tri thức khoa học, kỹ thuật và tinh hoa văn hóa của các nước Tây phương một cách không định kiến. Rút kinh nghiệm mất nước vì chính sách tự cô lập với thế giới của vua chúa nhà Nguyễn, giáo dục khai phóng cũng du nhập những tư tưởng mới về triết học và chính trị, chuẩn bị cho học sinh sau khi tốt nghiệp tiểu học hay trung học có điều kiện trở thành những công dân hữu ích cho xã hội.
Tinh thần khai phóng được thể hiện đầy đủ nhất ở Đại học qua sự thành lập các trường đại học mới, bổ sung tính chất nghiên cứu hàn lâm bằng khuynh hướng thực dụng để gia tăng khả năng phát triển kinh tế và công nghệ hóa miền Nam. Trong hai năm đầu, miền Nam mở thêm hai đại học, một công là Đại học Huế và một tư là Đại học Đà-lạt, cùng thành lập trong năm 1957; từ 1964 đến 1972 có thêm một đại học công là Đại học Cần Thơ (1966) và năm đại học tư là ĐH Vạn Hạnh (1964), ĐH Phương Nam (1967), ĐH Hòa Hảo (1970), ĐH Cao Đài (1971) và ĐH Minh Đức (1972). Sự gia tăng con số đại học tư—tổng cộng sáu đại học tư đều do bốn tôn giáo chính ở Việt Nam thành lập—cho thấy một đặc tính dân chủ ở miền Nam, mặc dù sự phát triển tự do này có vẻ biểu hiện nhu cầu xác lập vai trò và ảnh hưởng của mỗi tôn giáo trong xã hội hơn là nhu cầu thật sự về giáo dục đại học. Một đặc điểm khác của tinh thần khai phóng là quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo và giảng dạy của các giáo sư. Các chứng chỉ, văn bằng và các môn học vẫn phải được Bộ Giáo dục duyệt y, nhưng nội dung các môn học và phương pháp giảng dạy đều do mỗi giáo sư tự ý quyết định.
Đáng tiếc là do tình hình chiến tranh, các hoạt động tự do học thuật này không phát triển được đến mức độ cao như mong đợi. Quả thật các giáo sư Đại học miền Nam được tự do nghiên cứu và giảng dạy, nhưng họ lại thiếu điều kiện để phát huy khả năng của họ. Trước hết là sự thừa kế truyền thống đại học cũ của Pháp từ thời Đại học Đông Dương. Trong những năm đầu chuyển tiếp từ 1954, Đại học Sài-gòn còn giảng dạy bằng tiếng Pháp ở các Phân khoa, trừ trường Văn Khoa, Cao đẳng Sư Phạm. (Ở trường Luật, nhờ những nỗ lực đặc biệt của GS Khoa trưởng Vũ Quốc Thúc và các đồng nghiệp của ông như Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Cao Hách, việc giảng dạy bằng tiếng Việt đã thực hiện được từ niên khóa 1955-56.)[3] Ngay cả khi đã hoàn toàn Việt hóa, Đại học miền Nam vẫn theo mô hình cũ của Pháp về tổ chức học theo năm và thói quen giảng bài hay phát bài cho sinh viên học thuộc lòng, trừ một số bộ môn khoa học như Toán và Vật lý. Giáo sư ít có những công trình nghiên cứu riêng, giữ nguyên bài giảng hàng năm hoặc chỉ thêm bớt đôi chút, không hoặc ít hướng dẫn cho sinh viên đọc sách tham khảo và thảo luận trong lớp học. Điểm bài thi cuối năm cao hay thấp phần lớn là tùy theo mức độ thuộc bài của sinh viên. Cho đến những năm cuối thập kỷ 1960, truyền thống cũ mới bắt đầu được thay đổi do sự trở về nước của một số giáo sư sau thời gian du học hay tu nghiệp ở những quốc gia ngoài hệ thống của Pháp như Anh, Đức, Úc, Tân-Tây-Lan, Nhật và Hoa Kỳ. Thật vậy, số người đậu tiến sĩ ở những nước này về Việt Nam dạy học gia tăng từ những năm giữa thập kỷ 1960, nhưng trách nhiệm lãnh đạo về học vụ vẫn ở trong tay thế hệ chịu ảnh hưởng của Pháp, vừa có thâm niên vừa chiếm đa số. Hệ thống giáo dục Đại học vì thế vẫn còn khá bảo thủ. Sự kéo dài tình trạng chuyển tiếp được thấy rõ ở Đại học Y khoa vào những năm cuối cùng: thành phần giảng huấn gồm các giáo sư Việt, Pháp và Mỹ, nhưng một số giáo sư người Việt khi giảng dạy vẫn pha lẫn tiếng Pháp và các bài giảng được viết bằng Pháp văn, đem đánh máy và in ronéo cho sinh viên học thuộc lòng để làm bài thi cuối năm.
Trong thời gian chuyển đổi từ ảnh hưởng của Pháp sang ảnh hưởng của Mỹ, một số giáo sư do Pháp đào tạo được đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ và khi về nước đã cập nhật kiến thức và phương pháp mới vào việc giảng dạy. Mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng mới và cũ tan biến mau chóng ngay cả ở Y, Dược khoa và sinh viên rất thích thú được hướng dẫn tra cứu thêm những sách báo y học và khoa học của Mỹ. Bên Luật khoa, các giáo sư trẻ mới du học về đưa ngay vào học trình một số môn mới trong hệ thống đại học Mỹ như kinh toán học, thống kê, phương pháp các khoa học xã hội, chính trị, bang giao quốc tế. Từ nay, thay vì chỉ ghi chép bài giảng của thày và học thuộc lòng để cuối năm sẽ viết ra y hệt (cours magistral), sinh viên đã có dịp áp dụng các phương pháp  tự tìm kiếm tài liệu nghiên cứu, do đó tập được thói quen tự học suốt đời, và có dịp tranh luận  trong lớp để huấn luyện óc phê bình, sáng tạo. Bên Văn Khoa thì bất kể là giáo sư xuất thân từ đại học Pháp hay Mỹ, đều “trăm hoa đua nở”, tự do giới thiệu và phê bình các hệ tư tưởng triết học, các khuynh hướng văn học, nghệ thuật, tức là rất sát với trào lưu quốc tế. Thí dụ, hồi đó triết học hiện sinh  (existentialisme) của Kierkegaard, Heidegger, Sartre và Merleau-Ponty được thảo luận sôi nổi nhất, và những tiểu thuyết hiện sinh của Albert Camus hay Simone de Beauvoir là những tác phẩm thời thượng.  Lại có giáo sư không ngần ngại lập ra trường phái mới như Giáo sư Linh mục Kim Định viết cả ngàn trang sách về tư tưởng “Việt Nho”. Các giáo sư trong Tạp chí Đại học thì nghiên cứu và phê phán không thiếu vấn đề gì, từ triết học, văn học đến chính trị. `Đại học Văn Khoa còn có một sồ giáo sư là Thượng Tọa và Linh Mục, như TT Thích Mãn Giác, TT Thích Quảng Liên, LM Trần Thái Đỉnh, LM Hoàng Sĩ Quý. Nói chung, dù xuất thân từ bất cứ đại học nào và thuộc khuynh hướng nào, các giáo sư văn khoa và các ngành khoa học nhân văn đều áp dụng phương châm giáo dục của Kant là “không chỉ giảng dạy cho sinh viên các tư tưởng mà dạy cho họ biết tư tưởng.”
Một câu chuyện đáng ghi nhớ về tự do tư tưởng của trí thức Đại học miền Nam là vào năm 1965, ngay sau khi chính phủ quân nhân cầm đầu bởi Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ được thành lập. Khi đó, Giáo sư Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh, giao trách nhiệm đọc bài khai giảng niên khóa toàn trường cho Giáo sư Tạ Văn Tài, một trí thức trẻ mới ở Mỹ về,  xác nhận rằng ông có quyền tự do phát biểu. Giáo sư Tài đã trình bày tóm lược bản luận án tiến sĩ của ông ở Mỹ về vai trò của quân đội tại các nước Đông Nam Á, phân tích ưu khuyết điểm của chế độ quân nhân ở những nước láng giềng như Thái Lan, Miến Điện, Indonesia, nhấn mạnh đến quyết định sáng suốt của một số chính quyền quân đội đã mau mắn trao trả quyền lực cho nhân dân qua bầu cử, tránh được những cuộc đấu tranh chính trị gây đau thương chia rẽ trong cộng đồng dân tộc và kìm hãm sự phát triển của đất nước. Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ cử Đại tá Dương Hồng Tuân đến tham dự và lấy bài giảng về làm tờ trình cho Hội Đồng Quân Lực. Sau đó, Tổng Thư ký Hội đồng Quân lực là Trung tướng Phạm Xuân Chiểu nhận trách nhiệm nghiên cứu bản luận án của Giáo sư Tài nhưng không thấy công bố kết quả hay phản ứng của Hội Đồng Quân Lực như thế nào.
Ngoài truyền thống bảo thủ của Pháp, một lý do quan trọng khác làm chậm sự phát triển đại học là tình hình kinh tế thời chiến và nạn thiếu giáo sư so với tỉ lệ gia tăng của sinh viên và số đại học được mở thêm khiến nhiều giáo sư phải nhận dạy ở nhiều trường, có khi còn kiêm nhiệm chức vụ khác nữa. Mỗi lần đi dạy xa như từ Sài-gòn ra Huế hay Đà-lạt hay Cần Thơ, giáo sư cần phải ở lại địa phương trung bình hai, ba ngày. Công việc nghiên cứu chuyên môn lại càng bị hạn chế, sáng kiến và phương pháp giảng dạy mới cũng không được phổ biến khi những người có hiểu biết và đầu óc đổi mới lại chính là những người được giao phó thêm chức vụ mà công việc hàng ngày thường chiếm nhiều thì giờ hơn là dạy học. Riêng cá nhân tôi, trước khi được bổ nhiệm Phó Viện trưởng Đại học Sài-gòn đặc trách nghiên cứu và phát triển năm 1974, tôi đã kiêm nhiệm hai chức vụ trong khu vực tư là Giám đốc Nhà Xuất bản Hiện Đại do Hội Việt-Mỹ bảo trợ và Phó Tổng Giám đốc của Mandarin Garment Co., một công ty hợp tác đầu tư Việt Nam-Hong Kong-Tây Đức, trong khi vẫn giảng dạy ở Đại học Văn Khoa. Dự án cải cách và phát triển Đại học Sài-gòn của tôi bị đình trệ vì phải huy động giáo sư và sinh viên tham gia công tác cứu trợ khẩn cấp đồng bào di tản vì chiến tranh từ các tỉnh miền Trung.
Nhà Xuất bản Hiện Đại là một dự án văn hóa có những đóng góp không nhỏ cho những hoạt động tự do, khai phóng của Đại học. Vì sự gia tăng cường độ của chiến tranh, công cuộc phát triển Đại học gặp phải nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc gửi sinh viên đi du học nước ngoài. Bộ Giáo dục và Viện Đại học đã phải mời một số giáo sư ngoại quốc tới giảng dạy nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu. Khi làm Đổng lý Văn phòng tại Bộ Văn hóa Giáo dục năm 1965, tôi đã có dự án du nhập trí tuệ bằng việc mời giáo sư nước ngoài và dịch sách nghiên cứu để giải quyết nạn thiếu giáo sư và mở rộng kiến thức của sinh viên. Khi nói chuyện với các cơ quan viện trợ văn hóa nước ngoài, khẩu hiệu “We want to bring the brain in” của tôi có sức thuyết phục nhưng chưa kịp làm được gì thì chính quyền dân sự Phan Huy Quát đã phải ra đi. Năm 1971, cùng với sự nở rộ của các đại học tư và đại học cộng đồng kiểu Mỹ, tôi có cơ hội quan hệ với Hội đồng Quản trị Hội Việt-Mỹ và đề nghị chương trình dịch tài liệu giáo khoa của Mỹ cho giáo sư và sinh viên đại học Việt Nam bên cạnh chương trình phổ biến kiến thức phổ thông về văn học, khoa học và nghệ thuật mà Hội Việt-Mỹ đang thực hiện. Dự án được chấp thuận, Hội Việt-Mỹ phụ trách điều đình với các nhà xuất bản ở Mỹ về quyền được dịch sách và NXB Hiện Đại ra đời với sự hợp tác của nhiều giáo sư và học giả có uy tín cho đến những ngày cuối tháng Tư 1975.
Trong bốn năm hoạt động, NXB Hiện Đại đã hoàn thành được 45 tác phẩm trong đó 30 cuốn là sách nghiên cứu về kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật. Điển hình là : Căn bản Chính trị của Phát triển Kinh tế của Robert T. Holt và John E. Turner, Vũ Quốc Thúc dịch; Sự Biến đổi của Quốc tế Công pháp của W. Friedman, Tạ Văn Tài dịch; Chính trị và Bang giao Quốc tế của Hans J. Morgenthau, một nhóm chuyên viên dịch, Nguyễn Mạnh Hùng chủ biên; Thế Quân bình Thế giới và Tương lai của Á châu của Robert Scalapino và William Griffith, Phạm Thiên Hùng dịch; Á châu và các Đại cường của Robert A. Scalapino, Nhóm Toàn Hưng dịch; Văn minh Dân chủ của Leslie Lipson, Vũ Trọng Cảnh dịch; Nguyên tắc Quản trị: Phân tích các Chức vụ Quản trị của Harold Koontz và Cyril O’Donnell, Trần Lương Ngọc và Cung Thúc Tiến dịch; Xã hội học của Joseph Fichter, Trần Văn Đĩnh dịch; Khía cạnh Kinh tế của Phát triển Nông nghiệp của John W. Mellor, Nguyễn Đăng Hải dịch; Năng lượng và Thế giới Ngày mai của Hal Hellman, Ngô Đình Long dịch; Ký giả Chuyên nghiệp của John Hohenberg, Lê Thái Bằng và Lê Đình Điểu dịch. Đáng chú ý là bộ Kinh tế học của Paul Samuelson, người được giải Nobel Kinh tế năm 1970, Cung Thúc Tiến, Nguyễn Minh Hải và Trần Lương Ngọc dịch, Nguyễn Cao Hách hiệu đính, mới in xong tập I (700 trang) khoảng giữa tháng Tư 1975, chưa kịp bán. Năm 1990, khi tôi và phái đoàn SEARAC gặp cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ở New York để vận động việc định cư cựu tù nhân cải tạo ở Mỹ, nhân dịp đề cập đến kế họach đổi mới của Nhà nước, ông Thạch báo tin vui là bộ sách của Samuelson đang được dịch sang tiếng Việt. Tôi kể lại chuyện năm 1975 NXB Hiện Đại để lại hai nghìn bản dịch cuốn sách này còn thơm mùi giấy mới và nói thêm: “Chắc lúc đó các anh đã cho đốt hết rồi.”  Ông Thạch trả lời bằng một nụ cuời xòa.
Ngoài chương trình dịch sách của các tác giả người Mỹ, NXB Hiện Đại cũng xuất bản sách dịch từ Pháp văn và sách viết bằng tiếng Việt của tác giả người Việt. Cuốn sách tiếng Pháp làm sôi nổi dư luận thế giới hồi đó là cuốn Ni Marx, Ni Jesus của triết gia Pháp nổi tiếng Jean-François Revel được Nguyễn Khắc Nhân dịch sang tiếng Việt là Không theo Marx, không theo Jesus. Ba cuốn sách viết bằng tiếng Việt do Hiện Đại xuất bản là Từ điển Quản trị và Hành chánh của Bùi Quang Khánh và Vũ Quốc Thông, William Faulkner: Cuộc đời và Tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ và Nguyễn Văn Nha, và Đặc khảo về Dân nhạc ở Việt Nam của Phạm Duy.
Tại mỗi phân khoa đại học, các giáo sư cũng đưa những công trình nghiên cứu chuyên môn của mình vào những ấn phẩm của phân khoa, như Y Dược có tạp chí Acta Medica Vietnamica, trường Luật có Luật học Kinh tế Tạp chí, Học Viện Quốc gia Hành chánh có Tập san Nghiên cứu Hành chánh, Văn Khoa Sài-gòn có tập san Nghiên cứu Sử Địa, Đại học Huế có tạp chí Đại Học do một nhóm giáo sư phụ trách với sự hợp tác của nhiều giáo sư ở Sài-gòn. Về bên Khoa học, tôi chỉ nhớ có cuốn sách nổi tiếng được ngoại quốc biết đến nhiều là cuốn Cây Cỏ Miền Nam của GS Phạm Hoàng Hộ. Tôi không thể kể ra hết danh tính của những giáo sư đã có công đóng góp vào sự nghiệp phát triển đại học miền Nam, nhưng có thể khẳng định một cách tổng quát là những người trong ban giảng huấn đại học ở mọi cấp bậc đều được đào tạo theo hệ chính quy, trong nước hay ngoại quốc, có khả năng và tư cách nghề nghiệp xứng đáng được tôn trọng. Họ là một lực lượng trí thức Tây học đông đảo chưa từng có trong lịch sử đất nước, có đầy đủ tinh thần và phẩm chất của người trí thức ở các nước phát triển, không thua kém về trình độ so với các nước trong khu vực, có tư duy độc lập, có thái độ rất dấn thân và tâm huyết cho sự nghiệp phát triển nước nhà. Nếu có điều kiện tiếp tục phát triển hoà bình, chắc chắn họ sẽ tạo nên sự thăng hoa cho đất nước, như giới trí thức, khoa học gia đã từng làm cho nước Đức thế kỷ 19.
Ngoài sự nghiệp giáo dục đào tạo, giới trí thức đại học hồi đó cũng thấy rõ nhu cầu phát triển xã hội trong thời chiến đồng thời với công cuộc chuẩn bị tái thiết đất nước trong thời bình. Bởi vậy mặc dù ít thì giờ cho những công trình nghiên cứu lâu dài, một số trí thức vẫn đóng góp ý kiến với những nhà làm chính sách bằng những bài luận thuyết về những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trí thức đại học chưa nghĩ đến việc thành lập “think tank” như ở Mỹ nhưng đã tụ họp với nhau trên các diễn đàn độc lập có những tiếng nói đáng kể như tạp chí Quê Hương do GS Nguyễn Cao Hách và đồng sự chủ trương, Văn Hóa Á châu (thêm ấn bản tiếng Anh Asian Culture) của Hội Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á châu, Thế kỷ Hai mươi do GS Nguyễn Khắc Hoạch chủ nhiệm, và Phát triển Xã hội (thêm ấn bản tiếng Anh Social Development) do tôi và một số đồng nghiệp phụ trách. Ngay cả những tạp chí của chính quyền như Pháp lý Tập san của Bộ Tư pháp, Tập san Quốc phòng của Bộ Quốc Phòng cũng có sự tham gia của nhiều giáo sư đại học và trí thức độc lập. Cũng cần nhắc đến bản Phúc trình Thúc-Lilienthal của “Nhóm Nghiên cứu Kế hoạch Hậu chiến” là kết quả hợp tác giữa trí thức đại học Việt Nam và các chuyên gia về chính sách của Hoa Kỳ.
Kết luận
Đại học miền Nam chỉ tồn tại có hai mươi năm trong đó mười năm đầu còn chịu ảnh hưởng Pháp khá sâu đậm do thỏa hiệp hợp tác văn hóa Việt-Pháp năm 1955. Chỉ từ 1965 Đại học miền Nam mới có cơ hội tiếp cận với tinh thần thực dụng và chế độ tự trị đại học của Mỹ và tìm cách áp dụng vào hệ thống đại học Việt Nam. Tuy nhiên, ngay từ những năm còn theo truyền thống cũ của Pháp, Đại học miền Nam đã được hưởng nhiều sự dễ dãi của Bộ Giáo dục về các thủ tục hành chánh, tài chánh, nhất là về học vụ. Các giáo sư được tự do nghiên cứu và giảng dạy mặc dù còn thiếu nhiều điều kiện giúp cho việc phát triển tiềm năng. Mười năm sau (1965-1975) vẫn được coi như thời kỳ chuyển tiếp vì khuynh hướng thực dụng và những thay đổi theo mô hình đại học Mỹ chỉ có cơ hội nảy nở từ những năm đầu thập kỷ 1970.
Sự gia tăng cường độ của chiến tranh kéo theo tình trạng bất ổn về xã hội và khó khăn về kinh tế đã hạn chế rất nhiều khả năng nghiên cứu, cập nhật kiến thức và phương pháp giảng dạy của các giáo sư. Nhiều người đậu tiến sĩ ở ngoại quốc chưa muốn trở về nước giảng dạy vì bất mãn với chính quyền miền Nam. Nạn thiếu giáo sư càng trầm trọng trước sự gia tăng số sinh viên và số truờng đại học mới mở khiến cho những giáo sư giỏi phải đi dạy ở nhiều trường hoặc đảm nhận thêm công việc khác.
Trong những điều kiện hạn chế và khó khăn như thế, Đại học Việt Nam vẫn cố gắng phát triển, nâng cấp những trường cao đẳng chuyên nghiệp, mở thêm các đại học cộng đồng và đại học bách khoa, áp dụng hệ thống tín chỉ . . . Môi trường đại học đích thực là một môi trường tự do của hoạt động trí thức. Nhiều giáo sư, dù bận dạy nhiều trường hay có việc làm thêm, vẫn cố gắng đóng góp ý kiến qua những diễn đàn trí thức về những vấn đề quan tâm chung. Tiếc rằng vào thời điểm những năm đầu thập kỷ 1970, chưa có ai nghĩ đến việc thành lập “think tank” để tư vấn cho những nhà làm chính sách, có lẽ khái niệm về những cơ quan nghiên cứu tư vấn kiểu Mỹ này còn khá xa lạ đối với Việt Nam.
Tôi không muốn so sánh Đại học miền Nam trong 20 năm chiến tranh trước 1975 với nền Đại học Việt Nam hiện nay, sau 35 năm đất nước hòa bình và thống nhất. Nhưng tôi thành thật nghĩ rằng nếu hiệp định Paris 1973 giữa bốn phe tham chiến được thi hành nghiêm chỉnh, thực hiện những đìều khoản đã thỏa thuận về “hòa giải và hòa hợp dân tộc” (chương IV, điều 10, 11 và 12)[4] thì miền Nam Việt Nam dưới một chính quyền mới sau cuộc tổng tuyển cử đã có triển vọng giàu mạnh không thua kém Nam Hàn, và Đại học miền Nam cũng đã đạt được “đẳng cấp quốc tế.” Kết quả này cũng chắc chắn đã diễn ra, dù chậm trễ hơn nhiều năm sau khi đất nước thống nhất, nếu đường lối đổỉ mới thật sự của những nhà lãnh đạo có tầm nhìn như Nguyễn Cơ Thạch hay Võ Văn Kiệt không bị trở ngại trên bước đường thực hiện.
Cũng may là ở Việt Nam ngày nay vẫn còn có những trí thức không quên theo đuổi lý tưởng của người làm thày cao hơn người làm quan (tiến vi quan, đạt vi sư), nhất là không quên sứ mạng “lương sư hưng quốc”. Họ đã không ngừng tuyên dương và cố gắng phát huy truyền thống đại học Humboldt, trong đó tự do nghiên cứu và giảng dạy là điều kiện thiết yếu để đào tạo con người và phát triển xã hội. Các nhà lãnh đạo Nhà nước cũng đã nhấn mạnh đến sự cần thiết xây dựng đại học “đẳng cấp quốc tế”, đang tiếp cận với các nền giáo dục phát triển phương Tây, đặc biệt nền giáo dục đại học Hoa Kỳ, nhưng đến bao giờ thì mới thật sự tạo điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu này? Thời gian không chờ đợi trên vũ đài thế giới.
Irvine, California
Tháng Mười, 2010
*Giáo sư Lê Xuân Khoa là một “chứng nhân” của nền giáo dục đại học trước 1975, vì ông từng giữ những chức vụ quan trọng như giáo sư triết học phương Đông tại ĐH Văn khoa Sài Gòn, thứ trưởng Bộ Giáo dục (1965) và phó viện trưởng (như phó hiệu trưởng đại học ngày nay) của Viện Đại học Sài Gòn (1974-1975). Ông định cư ở Mĩ năm 1975, trở thành giáo sư thỉnh giảng tại trường Cao học Nghiên cứu Quốc tế thuộc Ðại học Johns Hopkins. Ông là tác giả cuốn sách “Việt Nam 1945-1995, Tập I” rất có giá trị, và tác giả của nhiều tiểu luận đáng chú ý.
Tham khảo
  1. Wikipedia, tiếng Việt, “Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa”.
  2. Nguyễn Hữu Phước, Contemporary Educational Philosophies in Vietnam,1954-1974, luận án tiến sĩ tại University of Southern California, 1974.
  3. Đỗ Bá Khê, “Phát triển Đại học miền Nam trước 1975”, trang 152-157, trong Giáo dục ở miền Nam tự do trước 1975 , Nguyễn Thanh Liêm chủ biên, Lê Văn Duyệt Foundation  xuất bản, Santa Ana, California, 2006.

Chú thích:

[1] Điều này khác với mô hình các đại học ở Liên Xô mà Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã áp dụng cho đến những năm gần đây: Đại học ngành nào thuộc Bộ ngành đó, thí dụ Y khoa thuộc Bộ Y tế, Luật khoa thuộc Bộ Tư pháp. Từ 1994 các khoa mới được tập trung thành Đại học Quốc gia. Sau 30.4.1975, trường Luật và trường Quốc gia Hành chánh bị bãi bỏ, nhưng dưới thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt thì được tái lập, có lẽ vì chính quyền mới đã nhận ra vai trò đóng góp vào nền pháp trị của trường Luật ở miền Nam. Trong khi đó, kiến thức và kinh nghiệm của ban giảng huấn Học viện Quốc gia Hành chánh cũng cần thiết cho việc cải tổ hành chánh. Một số giáo sư chế độ cũ được mời giảng dạy và làm tư vấn về hành chánh cho Thủ tướng.
[2] Đài Á châu Tự do phỏng vấn GS Tạ Văn Tài ngày 19.10.2009, đăng lại trong Đặc San Luật Khoa 2010 của Câu Lạc Bộ Luật Khoa Việt Nam, Houston, Texas.
[3] Về điểm này, phải kể đến sự đóng góp quan trọng của GS Vũ Văn Mẫu, soạn giả tập Từ Điển Pháp-Việt: Pháp, Chính, Kinh, Tài, Xã Hội.
[4] Thí dụ: Chương IV, Điều 11 ghi rằng: “Ngay sau khi ngưng chiến, hai bên miền Nam sẽ: (1) thực hiện hoà giải và hoà hợp dân tộc, chấm dứt hận thù, cấm đoán mọi hành động trả thù và kỳ thị đối với các cá nhân và đoàn thể đã hợp tác với bên này hay bên kia; (2) bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm việc, quyền tư hữu, và quyền tự do kinh doanh.”

Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2016

Con gái à, ông già Noel luôn có thật


Anna của ba,
Mấy hôm nay đi ngoài đường, bằng giọng bập bẹ, con cứ kêu lên đầy thích thú: “Ba, ông già Noel kìa ba. Cây Noel kìa ba”. Đến khi về nhà, con muốn ba mở những bài nhạc Giáng Sinh mà con vừa nghe trên trường. Tên bài hát bằng tiếng Anh, còn con chỉ mới hơn 2 tuổi, nên ba phải cố gắng lắm, vừa nghe vừa đoán để mở cho đúng bài hát.
Thế rồi, khác với mọi đêm luôn yêu cầu ba kể chuyện bà phù thủy, trước khi ngủ con hỏi ba: “Đêm nay ông già Noel có tới nhà mình không ba?”. Ba vội trả lời: “Có chứ, ông già Noel đến thăm con”.
Anna à, ba luôn muốn nói nhiều hơn với con về ông già Noel và lý do tại sao ông già Noel luôn có thật trên đời. Hơn 100 năm trước, năm 1897, một đồng nghiệp của ba, nhà báo Francis P. Church – Chủ bút tờ báo New York Sun, đã đích thân viết thư trả lời một cô bé bạn đọc 8 tuổi tên Virginia O’Hanlon khi cô này gửi thư đến hỏi: “Ông già Noel có thật không?”. Ông chủ bút đã trả lời: “Đúng thế, Virginia à, ông già Noel có thật”
“Ông có thật cũng như tình yêu và lòng quảng đại luôn hiện diện quanh ta, nhờ đó mà cuộc sống của chúng ta được vui tươi và hạnh phúc. Nếu không có Ông Già Noel thì thế giới của chúng ta thật ảm đạm biết bao…” Nhà báo Francis P. Church, viết “Chưa ai tận mắt gặp Ông Già Noel bằng xương bằng thịt cả, nhưng điều đó không có nghĩa là Ông Già Noel không có thật. Những điều chân thật nhất trong thế giới chúng ta là những điều mà trẻ em và người lớn đều không thể thấy được…” Lá thư này trở nên nổi tiếng và luôn được đăng lại vào mỗi dịp Giáng Sinh đến.
Phải đó Anna, ba luôn muốn nói với con và với tất cả các bạn nhỏ khác rằng hãy tin vào ông già Noel cũng giống như con luôn tin rằng trong “rừng”, thật ra là một bãi đất cây cối um tùm trên đường ba chở con đi học, luôn có con chó sói chờ những em bé không ngoan.
Ông già Noel, thật ra, ở ngay bên cạnh con và ba khi con chìa tay ra cho một cô bé đi bán vé số cùng mẹ, ở ngay bên cạnh con khi con nhường cho em trai con bình sữa rồi hỏi ba: “Mình thương em phải không ba?”
Cũng như Anna, ba tin và nhiều khi cũng cần đến ông già Noel.
Đó là khi, ba cùng nhiều người lớn quanh ba cảm thấy mình bất lực và có lỗi khi để tụi con phải lớn lên trong một xã hội còn nhiều những câu chuyện thương tâm, đau khổ.
Đó là khi, ba được mời một bữa cơm tối trong ánh đèn tù mù ở một ngôi nhà lụp xụp bên bìa rừng. Chủ nhà là thân nhân của một bị cáo trong phiên tòa với nhiều dấu hiệu oan sai. Bữa cơm đó với họ là thịnh soạn, có đứa nhỏ bằng tuổi con cứ đứng nhìn thòm thèm, người chủ nhà suốt bữa ăn gọi ba và các đồng nghiệp của ba là “thầy”. Ở người nông dân nghèo đó, họ rất quý những người sống bằng nghề chữ nghĩa như ba vì họ tin “các thầy nhà báo” có thể giúp họ mang lại lẽ công bằng. Phiên tòa kết thúc như dự đoán ban đầu, các dấu hiệu oan sai không được giải quyết, khi đó, ba lại tự hỏi mình ông già Noel của ba đang ở đâu!
Đó là khi ba gặp được một người cha kể lại hành trình mải miết đi tìm con gái của mình suốt gần 35 năm, kể từ khi người con gái, khi ấy mới là một bé gái, bị hải tặc cướp đi khi họ đang trên đường vượt biển. 
Còn nhiều, nhiều nữa những câu chuyện mà ba nghĩ vì đó nên cần phải có ông già Noel trong cuộc đời. Nếu có ai đó không tin và cố gắng làm người khác không tin rằng ông già Noel là có thật, thì đó là một bất hạnh của họ.
Phải lâu nữa con mới đọc và hiểu được lá thư này và từ hôm nay cho đến ngày đó con còn trải qua thật nhiều niềm vui và phải có cả nỗi buồn nữa. Khi đó, con sẽ lớn lên nhưng ba chỉ mong rằng con sẽ giữ được cái nhìn trong veo về mọi thứ chung quanh, rằng con vẫn tin rằng ông già Noel luôn có thật. Bởi vì, chỉ có tình yêu con người mới giúp người ta đỡ phiền muộn, tiếp tục có niềm tin vào điều mình đang làm, đang sống. Khi đó mỗi đêm ông già Noel đều đến nhà thăm chúng ta đó, Na à.

Trung Bảo 

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2016

Bloomberg: Người Trung Quốc đang đưa cả thế giới “từ bàn ăn ra nghĩa địa” như thế nào?

Dù các cơ quan chức năng của nhiều nước đã cố gắng nhưng những món tôm, thủy sản Trung Quốc giúp đưa người tiêu dùng từ bàn ăn đến nghĩa địa nhanh hơn vẫn xuất hiện tràn lan trên thị trường.



    Bloomberg: Người Trung Quốc đang đưa cả thế giới “từ bàn ăn ra nghĩa địa” như thế nào?
    Nếu nhìn từ trên không, vùng đồng bằng sông Châu Giang-Trung Quốc nhìn chằng chịt những khối ao nuôi tôm cá của hàng trăm nghìn hộ dân nằm xen kẽ với hàng loạt các chuồng trại nuôi gia súc. Không có gì khó hiểu khi đây là cùng trung tâm của ngành nông nghiệp nuôi trồng thủy sản tại quốc gia sản xuất nhiều hải sản nhất thế giới.
    Ngành nông nghiệp Trung Quốc hàng nghìn năm nay đã quá quen thuộc với hình thức vườn ao chuồng, khi những chất thải của chăn nuôi chuồng trại được làm thức ăn cho cá tôm nuôi. Tuy nhiên, với đà phát triển của kháng sinh cũng như sự đam mê lợi nhuận, mô hình này giờ đây đã bị ảnh hưởng mạnh.
    Tại các trang trại ở Giang Môn hay một số vùng Quảng Đông-Trung Quốc, những người nông dân trộn rất nhiều kháng sinh vào thức ăn lợn và chất thải từ những chuồng lợn này với hàm lượng kháng sinh cực cao lại được để nuôi tôm cá.
    Thông thường, nông dân Trung Quốc sẽ trộn tối thiểu 3 loại kháng sinh trong thức ăn lợn bao gồm cả Colistin, một chất kháng sinh bị cấm dùng cho chăn nuôi ở Mỹ.
    Nếu nhìn những thùng rác quanh các trại chăn nuôi này, người ta có thể dễ dàng thấy vỏ hộp của khoảng 9 loại kháng sinh khác nhau. Trong đó 7 loại bị Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh giá là có ảnh hưởng rất lớn đến cơ thể người.
    
Vỏ thuốc kháng sinh bị vứt bừa bãi quanh các trại nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi ở Quảng Đông
    Vỏ thuốc kháng sinh bị vứt bừa bãi quanh các trại nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi ở Quảng Đông
    Siêu vi khuẩn và cái chết không báo trước
    Hiện tượng lạm dụng kháng sinh đang tạo nên những loại siêu vi khuẩn và bệnh dịch kháng thuốc làm đau đầu các nhà nghiên cứu. Chính phủ Anh ước tính hàng năm có khoảng 700.000 người trên thế giới tử vong do vi khuẩn chống lại được kháng sinh. Nếu tình trạng này vẫn tiếp diễn mà không có hành động từ chính phủ các nước, con số này có thể đạt 10 triệu người mỗi năm vào năm 2050, cao hơn cả số người bị tử vong do ung thư.
    Năm 2015, các nhà khoa học đã công bố một thông tin chấn động toàn thế giới. Họ đã phát hiện ra một gen kháng Colistin ở Trung Quốc, qua đó biến hàng tá vi khuẩn và dịch bệnh ở nước này thành những siêu vi khuẩn chống lại kháng sinh hiện hành.
    Tồi tệ hơn, kể từ đó đến nay người ta đã tìm được các gen này trong hàng loạt bệnh nhân, thực phẩm hay những mẫu môi trường tại hơn 20 nước khác nhau, đặc biệt là những quốc gia nhập nhiều thực phẩm từ Trung Quốc.
    Theo giáo sư Mrtin Blaser của trung tâm y tế Langone-Mỹ và là Chủ tịch hội đồng cố vấn của Tống thống Obama về vấn đề siêu vi khuẩn nhận định chính nguồn thực phẩm Trung Quốc là nguyên nhân lớn nhất khiến cả thế giới bị lây lan rủi ro về siêu vi khuẩn.
    Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khoảng 90% kháng sinh trong thức ăn cho lợn được đào thải qua nước tiểu và phân, vốn là nguồn dinh dưỡng thiết yếu cho chăn nuôi thủy sản ở Trung Quốc. Thêm vào đó, người nông dân cũng trộn cả kháng sinh cho thức ăn chăn nuôi thủy sản, khiến nồng độ thuốc trong tôm cá và nước ao hồ ở đây lên mức cao chưa từng có.
    
Nông dân Trung Quốc thường trộn rất nhiều kháng sinh vào thức ăn chăn nuôi
    Nông dân Trung Quốc thường trộn rất nhiều kháng sinh vào thức ăn chăn nuôi
    Nguy hiểm hơn, những dòng nước thải của các khu vực chăn nuôi này được xả thẳng ra sông hồ. Cụ thể, những trại chăn nuôi ở Giang Môn xả thẳng nước thải ra lưu vực sông phía Tây Trung Quốc, qua đó làm ô nhiễm toàn bộ vùng đồng bằng sông Châu Giang, bao gồm Quảng Đông, Hồng Kông, Macao, Thẩm Quyến...
    Một nghiên cứu năm 2013 cho thấy mỗi năm khu vực sông hồ tại đây nhận khoảng 213 tấn kháng sinh xả thải hàng năm, một con số khiến nhiều người lo sợ.
    Số liệu của Liên hợp quốc (UN) cho thấy kim ngạch thương mại thủy sản của Trung Quốc vào khoảng 90 tỷ USD và chiếm 50% giao dịch trên toàn thế giới. Quốc gia này cũng cung cấp khoảng 60% thủy sản cho thị trường toàn cầu và đang là nhà xuất khẩu hải sản lớn nhất thế giới.
    
Một khu vực chăn nuôi thủy sản tại Quảng Đông
    Một khu vực chăn nuôi thủy sản tại Quảng Đông
    Ngay cả chính phủ Mỹ cũng đã nhận ra được sự nguy hiểm từ thực phẩm Trung Quốc trong hơn 10 năm qua nhưng họ không thể ngăn chặn hoàn toàn. Một cuộc khảo sát năm 2006 của Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) đối với hàng thủy sản nhập khẩu Trung Quốc cho thấy có đến 1/4 số mẫu chứa các loại chất cấm hoặc những phụ gia không an toàn.
    Vào cùng năm đó, chính FDA đã phải ban hành quy định tất cả các lô hàng tôm và hải sản nhập khẩu từ Trung Quốc phải bị tạm giữ tại cảng chờ xét nghiệm rồi mới được thông qua.
    Tuy vậy, quy định này cũng không khiến hàng thủy sản Trung Quốc an toàn hơn tại Mỹ khi các doanh nghiệp có vô vàn cách khác nhau để trốn tránh nhà chức trách, như cách họ đã làm với mặt hàng thép. Theo đó, các công ty này di chuyển mặt hàng thủy sản qua nhiều nước để xóa xuất xứ và nhập khẩu vào Mỹ, một hệ thống tinh vi mà các chuyên gia đánh giá là không khác gì các băng đảng tội phạm đang rửa tiền.
    Chính phủ bất lực
    Chính quyền Bắc Kinh cũng đã nhận ra tình trạng dùng kháng sinh vô tội vạ tại các trại chăn nuôi và từ năm 2011, Trung Quốc đã thực hiện các chương trình nhằm hạn chế việc sử dụng kháng sinh trong y tế. Kể từ đó, tỷ lệ dùng kháng sinh tại một số nơi như thành phố Thượng Hải đã giảm 31% và mới đây còn có đề xuất cấm sử dụng Colistin trong chăn nuôi tại Trung Quốc.
    Dẫu vậy, tình hình đã trở nên quá nghiêm trọng khi Trung Quốc đang là nước có tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh cao nhất thế giới. Khảo sát trên toàn Trung Quốc cho thấy 42-83% số người khỏe mạnh được thử nghiệm có chứa siêu vi khuẩn đủ khả năng chống lại kháng sinh Penixilin cũng như những biến thể của nó.
    Trong khi đó, khảo sát thị trường tại Thượng Hải cho thấy hầu hết các sản phẩm thủy sản ngoài chợ có chứa những vi khuẩn không thể tiêu diệt bằng kháng sinh thông thường. Một nghiên cứu kéo dài trong khoảng 2006-2011 đã thu thập số liệu ở Thượng Hài và có kết luận 1/3 số hải sản ở đây chứa Sa;monella, loại vi khuẩn gây viêm dạ dày ở người và điều nguy hiểm là 43% mẫu vi khuẩn tìm thấy ở Thượng Hải có khả năng kháng thuốc mạnh.
    Trước đây, nhiều chuyên gia cho rằng sự lây lan của những siêu vi khuẩn chủ yếu thông qua bằng đường du lịch, vận chuyển khi những người nước ngoài tiêu thụ thực phẩm, thuốc ở những nước khác. Dù những nghi ngờ về thực phẩm Trung Quốc là nguyên nhân chính thay vì du lịch đã manh nha từ sớm nhưng chưa có bằng chứng khoa học cụ thể nào chứng minh được điều đó cho đến năm 2015.
    
Các cửa hàng bán kháng sinh chăn nuôi có khá nhiều tại Trung Quốc với khâu kiểm định chất lượng rất kém
    Các cửa hàng bán kháng sinh chăn nuôi có khá nhiều tại Trung Quốc với khâu kiểm định chất lượng rất kém
    Khi đó, một nghiên cứu của phòng phân tích vi sinh học quốc gia NML-Canada cho thấy tất cả những mẫu dương tính với siêu vi khuẩn từ các sản phẩm thủy sản đều đến từ Đông Nam Á và Trung Quốc.
    Kể từ thập niên 90, lượng tiêu thụ tôm hàng năm của người Mỹ đã tăng gấp đôi và trở thành một món ăn chủ đạo. Vào thập niên 80, phần lớn tôm Mỹ được nuôi trồng trong nước nhưng tình hình này đã phải thay đổi khi nhu cầu tăng quá mạnh.
    Trong khoảng 1990-2006, lượng tôm nhập khẩu vào Mỹ đã tăng gấp đôi, đạt khoảng 0,6 triệu tấn mỗi năm hiện nay và khoảng 90% số tôm trên bàn ăn người Mỹ hiện được nuôi trồng từ nước ngoài.
    Năm 2003, tỷ lệ tôm nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ đã đạt mức kỷ lục trong 11 năm trước đó với 16% thị phần và đến năm 2004, Bộ thương mại Mỹ đã phải áp thuế chống bán phá giá 112% cho sản phẩm này.
    Một hệ thống không khác gì rửa tiền
    Nhằm đối phó với các rào cản thương mại của Mỹ về thực phẩm, các doanh nghiệp Trung Quốc đã xây dựng nên một hệ thống tinh vi nhằm xóa bỏ xuất xứ các hàng thủy sản đông lạnh xuất khẩu.
    Theo thống kê của chính phủ Mỹ, lượng nhập khẩu tôm từ Malaysia năm 2004 bất ngờ tăng gấp 10 lần sau khi Mỹ bắt đầu áp thuế chống bán phá giá cho tôm từ Trung Quốc. Lượng tôm nhập khẩu này tăng đều và chiếm tới 5% thị trường tôm tiêu thụ tại Mỹ trong khoảng 2008-2011.
    Hiện nhiều quan chức Mỹ cho rằng lượng lớn tôm nhập khẩu từ Malaysia thực chất là từ Trung Quốc bởi nước này sản xuất tôm tùy thuộc vào mùa vụ. Năm 2015, nước này chỉ sản xuất được 32.000 tấn tôm và khoảng 18.000 tấn đã được tiêu thụ trong nước, 12.000 tấn được xuất sang Singapore nên số còn lại không đủ để chiếm lĩnh các thị trường khác.
    Một sự trùng hợp thú vị là lượng nhập khẩu thủy sản từ Trung Quốc vào Malaysia lại tăng đột biến trong 10 năm qua với mức bình quân 20.000 tấn/năm.
    
Năm 2011, 75% số tôm chứa các chất cấm được nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ, chỉ 6% là từ Malaysia. Tuy nhiên năm 2015, có 77% số tôm chứa chất cấm nhập vào Mỹ là từ Malaysia.
    Năm 2011, 75% số tôm chứa các chất cấm được nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ, chỉ 6% là từ Malaysia. Tuy nhiên năm 2015, có 77% số tôm chứa chất cấm nhập vào Mỹ là từ Malaysia.
    Theo các nhà chức trách Mỹ, việc vận chuyển tôm từ Trung Quốc sang Malaysia và đổi giấy xuất xứ là chuyện vô cùng bình thường khi các công ty dịch vụ môi giới có thể hoàn thành thủ tục giấy tờ dễ dàng.
    Tháng 4 vừa qua, FDA đã phải cảnh báo có thể sẽ bắt giữ và kiểm tra tất cả các lô hàng tôm, thủy sản từ Malaysia và một số nước để tiến hành xét nghiệm trước mỗi quan ngại làm giả giấy tờ cũng như xuất xứ của các mặt hàng này. Đáp lại, Bộ y tế Malaysia cam kết sẽ thắt chặt việc kiểm soát các nhà máy chế biến tôm cũng như thẩm quyền cấp giấy chứng nhận xuất xứ từ phòng thương mại.
    Không dừng lại đó, mặt hàng đông lạnh thủy sản còn được các doanh nghiệp Trung Quốc xuất sang nhiều nước trước khi được xuất khẩu sang Mỹ nhằm tránh sự truy tra của các cán bộ hải quan khi Malaysia đã bị nghi ngờ. Một trong những nước được Trung Quốc nhắm đến hiện nay là Ecuador khi lượng tôm nhập từ Trung Quốc vào đây để tuồn vào Mỹ thời gian qua bắt đầu tăng lên.
    Rõ ràng, lợi nhuận của ngành thủy sản khiến các doanh nghiệp Trung Quốc không từ thủ đoạn nào để tuồn những thực phẩm bẩn từ nước họ sang các thị trường khác. Dù các cơ quan chức năng của nhiều nước đã cố gắng nhưng những món tôm, thủy sản Trung Quốc giúp đưa người tiêu dùng từ bàn ăn đến nghĩa địa nhanh hơn vẫn xuất hiện tràn lan trên thị trường.