Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2021

"Nhất Nam võ phái" - môn võ thuần Việt

 

Thực tế cho thấy ta không thể đối kháng với họ theo lối đối đòn và trả miếng bằng sức mạnh cơ bắp. Muốn khắc chế được võ Tầu, người Việt cổ đã tìm ra một thế mạnh riêng, đó là tập luyện cho thân pháp cực kỳ mau lẹ, tránh né cho thật thuần thục để những đòn đánh cương mãnh của đối phương không trúng đích, rồi chọn cơ hội nhắm vào các điểm hở, điểm yếu, chỗ hiểm của địch mà ra đòn tấn công dứt điểm.



 

Nhất Nam là 1 môn phái võ thuật có lịch sử phát triển lâu đời của dân tộc ta. Đất tổ của môn phái nằm trên vùng đất tối cổ châu Hoan, châu Ái ( tức vùng Thanh Hoá , Nghệ An hiện nay ) địa thế như gốc một chiếc quạt xoè ra.

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, các môn võ , bài võ cổ đã lưu truyền ẩn hiện trong dân gian, trong các dòng họ trau dồi , sáng tạo , giao lưu tiếp thụ những tinh hoa của các môn võ của các dân tộc khác mà hình thành nên những đặc điểm riêng biệt phù hợp với thể tạng và tầm vóc của người Việt Nam.

Phái võ Nhất Nam là một môn phái võ có tính qui mô và tính tổ chức cao. Hệ thống môn công đồ sộ , toàn diện: quyền , binh khí, công phu luyện nội , ngoại … cùng với một hệ thống lý luận về tâm pháp, yếu pháp làm cơ sở và nền tảng lý luận cho người luyện tập, giao đấu và đối nhân xử thế. Hệ thống môn công của phái Nhất Nam được đúc kết, sáng tạo dựa trên sự vận hành của khí huyết , những đặc điểm tâm – sinh lý và cơ chế vận động cơ bắp của con người ; huy động tối đa sức mạnh của bản thân, lợi dụng sức mạnh của đối phương để đánh đối phương.

1.

Phái Nhất Nam đưa ra các bài tập đặc thù có tính liên tục trong các đòn thế chuyên để luyện các môn công như: tay xà, tay trảo, tay đao, tay quyền… hoặc đặc dị hơn là các bài “ Ma quyền “ , “ Ảo quyền “ , “ Hoa quyền “ … về binh khí có 9 bài kiếm, 9 bài côn, 5 bài rìu… ngoài ra còn có một môn binh khí độc đáo nữa là “ nhung thuật ” chuyên dĩ nhu chế cương, sử dụng giải lụa 2 đầu có vật nặng để chiến đấu ; vừa có sự mềm mại uyển chuyển trói bắt binh khí dối phương, vừa có thể công phá mục tiêu với sức khó có binh khí nào đạt tới được.

Đồng thời với việc học tập và rèn luyện quyền cước , binh khí, công phu nội , ngoại… người học võ Nhất Nam cũng được học tập cả Tâm pháp ; nó là nhưng đúc kết kinh nghiệm xương máu trong chiến đấu , tập luyện và đối nhân xử thế, với nguyên tắc :

– Học lấy tinh không cần nhiều

– Hiểu cần nhiều nhưng luyện ít

– Học lõi không học vỏ, học vỏ để chứa lõi

– Giác đầu thành tay, thành chân

– Cần chí hơn lý ở đầu

2.

Dù công hay thủ người luyện võ không được coi nhẹ môn công nào, từ bộ tay, bộ chân, thân pháp, tấn pháp, thủ pháp, công pháp đến kỹ thuật hoá giải, biến hoá chiêu thức… một thế chứa trăm vạn thế, trăm vạn thế thu vào một thế; dùng tĩnh chế động, dùng động chế tĩnh ; địch không động ta không động, địch động ta động trước, đòn đi sau nhưng đến trước ; dùng ít sức nhưng vẫn đạt hiệu quả cao…

Trong phái Nhất Nam mỗi một đòn thế đều được phân tích kỹ lưỡng để hiểu được sự hay dở, của mỗi đòn thế; trường hợp nào , khoảng cách nào thì đem lại hiệu qủa cao nhất, khi tấn công mà bị phản công thì phòng thủ ra sao… Do đó việc dạy và luyện võ của phái Nhất Nam trên tinh thần :

– Dạy chí trước môn công

– Dạy ý trước tay chân

– Dạy chế công lấy công làm gốc

– Dạy chế thủ lấy thủ làm gốc

– Biết chế chống công, biết công được chế

3.

Trong giao đấu cũng như trong cuộc sống thường nhật kẻ luyện võ cần có những nguyên tắc, lý tưởng để chỉ đạo tư tưởng và hành động ; người luyện võ cần hiểu được Đạo của tự nhiên, trào lưu của xã hội, tâm sinh lý con người như vậy mới có thể đưa ra phương châm xử lý đúng đắn trong mọi tình huống.

“Khéo thua không bị chết

Giỏi đánh không sợ thua

Giỏi bày trận không cần đánh

Giỏi cầm quyền không cần bày trận

Hiểu đạo không cần dụng binh .”

4.

Người làm “sống dậy” một dòng võ cổ truyền

“Tuyên hiệu” cho một dòng võ cổ không tên

Võ sư Ngô Xuân Bính xuất thân trong một gia phái võ ở thành Vinh (Nghệ An), được thân phụ và các võ sư khác vùng Thanh – Nghệ dạy võ từ tấm bé. Sau bao năm tháng miệt mài khổ luyện, ông đã kế thừa khá hoàn đủ những tri thức võ học, cùng truyền thống thượng võ của dải đất tối cổ trên đất Việt có địa thế như gốc một chiếc quạt xoè ra.

Ngày thi đậu vào trường ĐH Mỹ Thuật Hà Nội, ông đã mang theo dòng chảy âm ỉ mà mãnh liệt của di sản ấy để truyền bá, trước hết là cho các bạn học. Rồi ngày 23-10-1983, lần đầu tiên làng võ Hà Nội chứng kiến cuộc ra mắt của một phái võ nghe tên thực lạ – võ Nhất Nam. Ông chính là người “tuyên hiệu” cho dòng võ cổ không tên vùng Thanh – Nghệ, với mong muốn thống nhất, đồng nhất các chi phái, gia phái để cùng vun vén về cội nguồn, hy vọng quy tụ bầu đoàn võ của vùng sông Mã, sông Lam thành một điểm võ riêng dưới trời Nam, là “một đứa con” của làng võ cổ truyền Việt Nam.Những nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, dân tộc học … từ lâu đã tìm thấy ở vùng lưu vực sông Mã, sông Lam (châu Á, châu Hoan cổ) những bằng chứng về sự tồn tại của một dòng võ dân gian, hình thành và tồn tại từ hàng ngàn năm trước trong cuộc đấu tranh sinh tồn với giặc giã, muông thú của dân địa phương. Theo ông Mai Văn Muôn (nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TDTT) thì dòng võ này có nguồn gốc vào loại xa xưa nhất Việt Nam, không lẫn với bất cứ môn phái võ nào, dân gian gọi là võ “Hét” hoặc “Héc” (theo khẩu âm của người địa phương). Trong số các Tạo sĩ, Tạo toát (tiến sĩ võ) thời Lê Trung Hưng có nhiều người quê ở các huyện Quảng Xương, Đông Sơn, Hoằng Hoá, nhất là ở các huyện Kỳ Hoa, Tống Sơn, Thạch Hà của vùng Thanh – Nghệ, trong đó nổi bật lên là các họ Võ Tá, Nguyễn Đình, Ngô Phúc, Phạm Phúc, Văn Đình… có nhiều đời đỗ đạt cao.

5.

Lịch sử dân tộc ta đã trải qua hàng trăm cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của phong kiến phương Bắc. Khi vũ khí chưa phát triển thì võ thuật là sức mạnh vật chất có tính khởi phát giúp tổ tiên ta đánh giặc. Nhưng thắng giặc bằng cách nào, khi mà tương quan về thể lực người phương Bắc to khoẻ hơn hẳn chúng ta?. Thực tế cho thấy ta không thể đối kháng với họ theo lối đối đòn và trả miếng bằng sức mạnh cơ bắp. Muốn khắc chế được võ Tầu, người Việt cổ đã tìm ra một thế mạnh riêng, đó là tập luyện cho thân pháp cực kỳ mau lẹ, tránh né cho thật thuần thục để những đòn đánh cương mãnh của đối phương không trúng đích, rồi chọn cơ hội nhắm vào các điểm hở, điểm yếu, chỗ hiểm của địch mà ra đòn tấn công dứt điểm. Đây chính là tinh diệu của nghệ thuật quân sự Việt Nam: “Lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”. Nói như các võ sư Héc là: “học đạt cái tinh để chế cái nhiều, cái tĩnh để chế cái động, cái đột để phá cái ì, cái cong để chống cái cứng, cái thẳng để chống cái vòng…. tất cả đều phải đạt đến độ quyền biến, tức tới mức thần quyền”. Do đó về kỹ thuật cần tập trung vào các thế tấn thật cơ động, có độ biến ảo cao. Để đánh điểm huyệt đối phương và chữa chạy cho mình hữu hiệu, dòng võ này nghiên cứu kỹ hệ thống các huyệt trên cơ thể người và những bài thuốc chế từ cây cỏ, muông thú sẵn có ở địa phương.

6.

Cùng với thời gian, lớp người trước truyền lớp người sau, đã không ngừng gạn lọc, vun bồi và phát triển môn quyền ấy thành một dòng võ đặc dị, có tính quy mô và tổ chức cao, với một hệ thống môn công đồ sộ, toàn diện từ quyền cước, binh khí, ám khí đến châm cứu, xoa bóp, dưỡng sinh, công phu luyện nội, ngoại công… cùng lý luận về tâm pháp, yếu pháp làm nền tảng lý luận cho người luyện tập, giao đấu và đối nhân xử thế.

Về binh khí võ Nhất Nam coi đó là phương tiện “nối” cho tay thêm dài, thêm sắc, thêm cứng, thêm dẻo và ảo hoạt, nên các võ sư đã kết hợp tính đặc dị của các thế, miếng trong các bài quyền với tính năng sử dụng của từng loại binh khí mà sáng tạo ra những bài võ binh khí khác nhau với hàng trăm nghìn thế đánh, kết hợp nhuần nhuyễn giữa công và thủ.
Võ Nhất Nam xưa có 12 đẳng, ứng với 12 vạch, nhưng nay đã thất truyền khoảng 30 – 40 %, chỉ còn lại 9 đẳng. Lịch sử võ Nhất Nam đã trải qua bao thăng trầm, gắn với những biến động trong đời sống chính trị nước ta thời kỳ phong kiến.

Mộng Ly (tổng hợp)

Thứ Năm, 18 tháng 11, 2021

Những Địa Danh Mang Tên "Cái" Ở Miền Nam


Chợ nổi Cái Răng

Cái có nghĩa là “sông con” (đây là tiếng cổ của dân tộc Phù Nam). Ai đã từng sống ở miền Nam, đều nhận thấy rằng: Những địa danh bắt đầu bằng chữ Cái ở đây đều nằm trên một con sông nhỏ, chảy ra một con sông lớn.

Trước tiên là Tỉnh Tây Ninh, có một Vàm là Cái Răng nằm khoảng giữa từ Tây Ninh đến Bến Kéo thuộc Quốc Lộ 22 đi qua Kampuchia. Ngoài ra còn có con Rạch tên là Cái Bác, nằm trong Xã Phước Vinh, Huyện Châu Thành. Con rạch nầy nối liền sông Vàm Cỏ Ðông chảy qua Kampuchia.
Tiếp giáp Tỉnh Tây Ninh là Tỉnh Long An, tại đây có Huyện Mộc Hóa với 2 địa danh Cái Nứa, Cái Ðôi. Cũng tại đây có con sông Vàm Cỏ Tây nhận nước từ con rạch Cái Rô chảy qua Kampuchia. Long An còn có một Huyện nữa tên là Tân Hưng, có các địa danh mang tên Cái: Cái Bát, Cái Môn, Cái Sách. Ðịa danh Cái Bát có con kinh Cái Bát chảy qua gặp con Rạch Cái Cỏ rồi chảy vào Tỉnh Xvay Riêng Kampuchia.
Nằm kế bên Tỉnh Long An là Tỉnh Tiền Giang, tại Tiền Giang có một Huyện tên là Cái Bè.
Ðịa danh Cái Bè nằm trên Quốc Lộ IV (Sài Gòn về Cà Mau) nổi danh qua những vườn cây ăn trái như: Cam Mật, ổi Xá Lị, mận Hồng Ðào, vú sữa Hột Gà. Ðặc biệt có loại chuối Cái Bè ăn rất ngon (mọc từ thân cây ra). Cái Bè có 2 địa danh mang tên Cái Thia và Cái Nưa. Tại đây cũng có con Rạch Cái Thia chảy qua Ðồng Tháp Mười.
Cái Bè đã đi hết, bước sang Tỉnh Bến Tre chúng ta lại có Quận Ðôn Nhơn (bây giờ gọi là huyện Chợ Lách). Nằm trên Cù Lao Minh với 2 địa danh mang tên Cái Mơn và Cái Nhum. Hai địa danh nầy nổi tiếng có nhiều vườn trái cây, ở đây có vườn sầu Riêng của Ông Chín Hóa trồng, rất nổi tiếng (hạt lép nhiều cơm, thơm ngon ngọt). Cư dân sống ở đây đều theo đạo Công Giáo, tại đây có một ngôi giáo đường rất cổ, trước sân nhà thờ Cái Mơn, có một cây cổ thụ to gọi là cây Thiên Tuế. Cái Mơn cũng là nơi sinh ra nhà bác học Trương Vĩnh Ký, Ông biết trên 20 thứ tiếng. Ông cũng là thông dịch viên cho phái đoàn Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp (1863). Cái Nhum là quê hương của Thánh Tử Ðạo (Á Thánh Lựu) và cũng là nơi chôn thi hài của Á Thánh Phillipe Phan Văn Minh, người đã bị Vua Tự Ðức ra lệnh xử trãm tại Cái Sơn Bé (bến đò Ðình Khao) vào ngày 03-07-1853. Dưới bến đò Ðình Khao, có con Rạch tên là Cái Kè, khoảng từ Vĩnh Long đi chợ Lách. Cái Kè đi xuống một chút là tới Cái Muối, rồi qua gặp Cái Gà. Chợ Lách còn có một địa danh nữa tên là Cái Tắc thuộc Xã Hưng Khánh Trung, ngoài ra còn có cù lao tên là Cái Cát.
Ðó là Cái Nhum ở chợ Lách., còn có một địa danh mang tên Cái Nhum nữa, là Cái Nhum Huyện Mân Thít thuộc Tỉnh Vĩnh Long. Nơi đây đã xảy ra những trận đánh giữa quân Tây Sơn với quân Nguyễn Ánh cùng quân Xiêm La. Cuối cùng trận đánh kết thúc tại Rạch Gầm – Xoài Múc mà phần thắng là quân Tây Sơn.
Tại Huyện Giồng Trôm thuộc Xã Hưng Lễ có một địa danh mang tên Cái Ða Trại. Nơi đây đánh dấu bước chân của Nguyễn Ánh trốn chạy quân Tây Sơn, gần đó là Cái Mít Nguyễn Ánh cũng tá túc thời gian ngắn. Huyện Thạnh Phú có địa danh Cái Cá thuộc Xã Mỹ Hưng. Ði qua Mỏ Cày có con Rạch tên là Cái Gấm, nhận nước từ con sông Hàm Luông. Tạïi Quận Ba Tri có điạ danh mang tên là Cái Bông, đây cũng là nơi sinh ra Cụ Phan Thanh Giản. Tại Huyện Châu Thành có một Xã tên là Cái Nứa. Riêng tại Bến Tre ngay trung tâm thành phố có 2 cây cầu tên là Cái Cối và Cái Cá.
Sau đây đến Vĩnh Long: Vào ngày 25-08-1960 cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã khánh thành Khu Trù Mật Cái Sơn thuộc Tỉnh Vĩnh Long. Tại Huyện Bình Minh, tên địa phương gọi là Cái Vồn. Thời Ðệ I Cộng Hòa có Tướng Trần Văn Soái (Phật Giáo Hòa Hảo) đặt bản doanh tại đây. Ðây cũng là cửa ngỏ để đi Cần Thơ qua Bắc Bình Minh.
Ðến Huyện Tam Bình có địa danh tên là Cái Cui, thuộc Xã Hòa Lộc. Ðây cũng là quê hương của giáo sư Phạm Hoàng Hộ (Cựu Viện Trưởng Viện Ðại Học Cần Thơ).
Huyện Vũng Liêm có Cù Lao Cái Dứa, thuộc Xã Thanh Bình.
Nằm sát bên Vĩnh Long có Tỉnh Trà Vinh, đây là tỉnh có nhiều người Khmer ở, có tất cả 129 ngôi chùa Miên lớn nhỏ khắp nơi ở trong tỉnh. Tại huyện Duyên Hải có điạ danh Cái Cối thuộc Xã Long Vĩnh và Cái Ðôi thuộc Xã Long Khánh.
Ði về hướng Sa Ðéc có một địa danh tên là Cái Tàu Hạ tức Quận Ðức Tôn (trước năm 1975) nay đổi thành Huyện Châu Thành. Nơi đây có nhiều lò nung gạch, cung cấp gạch cho các tỉnh miền Tây. Chữ Cái Tàu được hiểu là “con sông nước lạt”.
Huyện Lai Vung Sa Ðéc có con Rạch tên là Cái Mít thuộc Xã Vĩnh Thới. Con rạch nầy chảy qua sông Hậu. Huyện Hồng Ngự có địa danh Cái Cái, là nơi tập trung dân chúng sống nhờ vào nguồn thủy sản cá tôm tép, từ biển hồ của Kampuchia chảy qua. Gần Cái Cái còn có Cái Tiêu, Cái Sơ nữa cũng trong Huyện Hồng Ngự. Chúng ta thấy thiên nhiên rất ưu đãi cho đồng bào sống trong vùng sông Tiền, sông Hậu. Vì chính 2 con sông nầy là nguồn lợi kinh tế cho đồng bào ở đây, ngoài nhiệm vụ cung cấp cá, tôm, nước ngọt dùng để làm ruộng, tưới nương rẫy. Mỗi năm sau mùa nước nổi, chúng ta được một lớp đất phù sa mầu mỡ, dùng để trồng trọt hay cày cấy. Bản chất đất không có làm biếng, chỉ có con người mới làm biếng.
“Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu”
Qua phần đất của sông Hậu có Tỉnh An Giang. Chúng ta thấy có địa danh Cái Tàu Thượng ở Xã Mỹ An Hưng nằm trên đường từ bắc Cao Lãnh đi Chợ Mới. Từ Bắc Vàm Cống về Long Xuyên có địa danh mang tên Cái Sơn. Trên đường Long Xuyên đi Châu Ðốc gặp một địa danh tên là Cái Dầu, đây cũng là Huyện Châu Phú thuộc Tỉnh An Giang. Ða số người dân sống ở đây (An Giang, Châu Ðốc) đều theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo , người sáng lập là Ðức Huỳnh Phú Sổ.
Giáp ranh Tỉnh An Giang có Tỉnh Kiên Giang, tại đây có 2 con sông mang tên Cái Lớn và Cái Bé. Hai con sông nầy xuất phát từ Tỉnh Chương Thiện chảy ra cửa biển Rạch Giá. Ðảo Phú Quốc có quần đảo An Thới, trong đó có hòn đảo Cái Bàn thuộc Vịnh Thái Lan.
Quay về Hậu Giang chúng ta thấy có địa danh mang tên Cái Sắn, thuộc Xã Vĩnh Trinh Huyện Thốt Nốt.
Rời Cái Sắn chúng ta đến Cần Thơ sẽ gặp ngay chợ Cái Khế. Chợ nầy nằm khoảng giữa từ bến xe đến cầu Bắc Cần Thơ, có thể nói chợ Cái Khế là ngôi chợ lớn thứ nhì sau chợ Bến Ninh Kiều của thành phố Cần Thơ. Hướng về Bến Ninh Kiều qua đường Hai Bà Trưng có cây cầu Cái Khế bắc qua đường Nguyễn Trãi. Tại Cần Thơ còn có trung tâm kỹ nghệ Cái Sơn Hàng Bàng. Là nơi sản xuất hàng thủ công nghệ và vật dụng gia đình.



Dọc theo bờ sông Hậu đi hướng về Ðại Ngãi lần lượt chúng ta thấy có những địa danh như: Cảng Cái Cui (đang xây cất) Cái Sâu, Cái Gia, Cái Ðôi rồi đến Cái Côn.
Tại đây có một con Kinh gọi là Cái Côn để đi vô Phụng Hiệp, trước khi tới Phụng Hiệp gặp nhau tại ngã bảy (7 con Kinh đi 7 hướng khác nhau). Cái Côn trước năm 1975 là quận Phong Thuận. Sau 1975 là Xã An Lạc Tây thuộc Huyện Kế Sách, từ Cái Côn đi xuống sẽ gặp Cái Cao, Cái Trâm, Cái Trưng, những địa danh nầy đều thuộc Quận Kế Sách. Tại Xã Nhơn
Mỹ có một con rạch để vô Huyện Kế Sách, được gọi là Vàm Cái Sách (theo lời ông Lê Công Tiệp là người dân cố cựu ở Mương Khai - Trà Ếch, hiện Ông định cư ở Bass Hill Sydney).
Từ Cần Thơ đi xe xuống Sóc Trăng, sẽ gặp ngay một Huyện cách Cần Thơ 5 cây số. Ðó là Cái Răng, tên Cái Răng nguyên là gốc chữ Miên đọc “carăng” nghĩa thật tên Cà Ràng. Cà Ràng là tên cái lò làm bằng đất sét, được đặt ở bếp dùng để nấu ăn. Cái Răng là một Huyện của Cần Thơ đứng hàng thứ nhứt về mọi mặt, có câu ca dao nói về Cái Răng:
“Cái răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Ðiền,
Anh có thương em cho bạc cho tiền.
Ðừng cho lúa gạo xóm giềng họ hay”
Qua 3 câu ca dao trên chúng ta thấy cuộc sống của người dân Cái Răng và những vùng phụ cận rất là sung túc của một thời trước 1975. Sau 1975 Cái Răng tách làm 2 Huyện: Châu Thành A và Châu Thành. Huyện Châu Thành có con Kinh mang tên là Cái Dầu đổ ra sông Hậu.
Ngoài ngôi chợ cố định, Cái Răng còn có một chợ nổi nữa. Ðó là chợ nổi nhóm trên sông, đây là nét sinh hoạt đặc thù của người dân miền Tây. Chợ nổi nầy chủ yếu là bán trái cây, rau, củ không giới hạn thời gian, ngày cũng như đêm đều có nhóm chợ. Trong vùng Cái Răng còn có những ngôi chợ: Cái Chanh, Cái Muồng, Cái Da.
Từ Rạch Ðầu Sấu đi vô sẽ gặp Rạch Cái Sơn, rồi đổ qua Rạch Bình Thủy.
Rời Cái Răng đi xuống khoảng 15 cây số, sẽ gặp một địa danh mang tên là Cái Tắc.
Vùng Hỏa Lựu (Vị Thanh) có 2 địa danh mang tên Cái Sình, Cái Su; ở đây trồng rất nhiều khóm.
Huyện Long Mỹ (Chương Thiện) còn có địa danh mang tên Cái Nhào, Cái Dứa.
Từ Cái Tắc đi xuống sẽ gặp Tỉnh Sóc Trăng, nếu đi Long Phú sẽ gặp địa danh Cái Oanh nằm ở gần cầu sắt Tân Thạnh (quê hương của Ðại Tướng Cao văn Viên). Ðối diện với Cái Oanh là Cái Xe và Cái Ðường thuộc phần đất của quận Mỹ Xuyên.
Tại huyện Thạnh Trị (Phú Lộc) có Khu Trù Mật Cái Trầu thuộc Xã Tuân Tuất, ở đây cũng có một con Kinh Cái Trầu chảy qua gặp Kinh Xáng Phụng Hiệp.
Trước khi tới Bạc Liêu khoảng chừng 5 cây số là Cái Dầy. Cư dân ở đây hay người dân ở Bạc Liêu, đều biết đại điền chủ Trần Trinh Trạch. Ông là một trong những người giàu có ở miền Nam, Ông có người con trai tên là Trần Trinh Huy ( Ba-Huy). Ông Trần Trinh Trạch là người giỏi kiếm tiền, thì con trai ông lại giỏi ăn chơi. Ðúng với danh gọi là Công Tử Bạc Liêu, không có chỗ nào mà thiếu vắng công tử, nếu chỗ đó là chốn ăn chơi nổi tiếng. Công Tử Bạc Liêu thể hiện đúng cá tính con người miền Nam. Tại Cái Dầy có nghĩa trang Trần Gia, Cậu Ba Huy cũng chôn cất tại đây (chết vào đầu tháng Giêng 1973).
Từ Bạc Liêu đi xuống Cà Mau, chúng ta có Cái Tràm (Xã Long Thạnh, Huyện Vĩnh Lợi). Tại Xóm Lung có con Kinh Cái Cùng, nhận nước từ Kinh Xáng Bạc Liêu rồi đổ ra biển Ðông. Tại đây đồng bào sinh sống bằng nghề làm ruộng muối, trồng nhãn. Ðịa danh Cái Cùng nằm trong Xã Long Ðiền Ðông A, Huyện Giá Rai.
Lần qua Huyện Hồng Vân có các địa danh: Cái Chanh, Cái Nhum. Ðây cũng có con Rạch Cái Chanh Lớn đổ về Huyện Phước Long.
Ðoạn đường từ Tắc Vân đến Cà Mau, có Cái Ngang ở gần đầu lộ Tân Thành. Cuối cùng chúng ta đến Cà Mau là nơi tận cùng của đất nước. Tại Huyện U Minh có con Rạch Cái Tàu, chảy ra biển Rạch Giá, cư dân ở đây trồng rẫy: Như khoai, đậu cùng vườn cây ăn trái. Bước qua Huyện Cái Nước, đây là huyện xung quanh toàn là những rừng đước. Cây đước giúp ích cho người dân rất nhiều như: Dùng làm cột nhà, cột để đóng đáy ngoài sông, biển. Còn dùng làm chất đốt như: Than, củi. Ngoài địa danh Cái Nước ra, còn có Cái Nhum thuộc Xã Hưng Mỹ, Cái Rô thuộc Xã Lương Thế Trân. Cái Ðôi Xã Phú Tâm còn có Cái Ðôi Vàm, đây là con sông đổ ra biển.
Huyện Ngọc Hiển (trước 1975 là Quận Năm Căn) ngoài ra còn có địa danh tên Cái Nải, chung quanh ở đây toàn là rừng đước.
Huyện Ðầm Dơi có Cái Keo thuộc Xã Quách Phẩm, đồng bào ở đây làm ruộng, trồng khoai lang, khoai mì và đào ao nuôi cá. Cái Ngay ở Xã Thanh Tùng, có một sân chim rất lớn có đủ loại chim: Như cò Quắm, Gương Sen, Chàng Bè. Tại Xã Tân Duyệt nổi danh qua nghề dệt chiếu, đã được cố nghệ sĩ Út Trà Ôn ca bài “Tình Anh Bán Chiếu” của soạn giả Viễn Châu. Ngoài ra còn có con Rạch Cái Bé, chảy ra biển Ðông.


Chủ Nhật, 14 tháng 11, 2021

Khẩu trang có thể gây hại cho trẻ em



Jennifer Margulis

Như nhiều quốc gia và một số tiểu bang bỏ quy định đeo khẩu trang, một nghiên cứu của Đức cho thấy trẻ em đeo khẩu trang gây hại nhiều hơn có lợi.

Bất kỳ bậc cha mẹ nào cũng có thể tận mắt chứng kiến, con cái chúng ta — từ trẻ nhỏ đến thanh thiếu niên — đã trải qua nhiều nỗi sợ hãi, căng thẳng tâm lý và thách thức về hành vi hơn kể từ khi cuộc khủng hoảng COVID-19 bắt đầu vào tháng 03/2020. Người lớn cũng vậy, thật sự rất căng thẳng và lo lắng.

Một nghiên cứu hồi cứu mới đây xem xét dữ liệu từ cuối năm 2020 và năm 2021 đã xác nhận điều mà rất nhiều người trong chúng ta đã nghi ngờ từ lâu: Việc đeo khẩu trang như một điều kiện tiên quyết để học tập trên lớp và tham gia vào cuộc sống công cộng đang gây ra tổn hại cho trẻ em cả về tâm lý và thể chất.

Nghiên cứu trên được thực hiện tại Đại học Witten – Herdecke ở Đức, bao gồm dữ liệu từ hơn 20,000 người tham gia phản ánh về trải nghiệm của tổng số 25,930 trẻ em. Thời gian trung bình những đứa trẻ đeo khẩu trang là 270 phút (4 tiếng rưỡi) mỗi ngày. 

Đa số các bậc phụ huynh (68%) đã báo cáo rằng việc đeo khẩu trang gây hại cho con cái của họ. Trên thực tế, các bậc cha mẹ đã báo cáo những tác hại về tâm lý và thể chất liên quan đến việc đeo khẩu trang ở 17,632 trẻ em. Những tác hại đó bao gồm:

  •      Khó tập trung
  •      Buồn ngủ hoặc mệt mỏi
  •      Nhức đầu
  •      Suy giảm khả năng học tập
  •      Cáu gắt
  •      Ít vui vẻ hơn
  •      Khó chịu
  •      Không muốn đến trường

Mặc dù đây là nghiên cứu hồi cứu và không nhằm mục đích thể hiện mối quan hệ nhân quả giữa việc đeo khẩu trang cho trẻ em và tác động tiêu cực của nó, nhưng nhóm các nhà nghiên cứu người Đức lập luận rằng dữ liệu này minh họa về việc người lớn phải cân nhắc rằng một số nguy cơ tiếp xúc với virus corona có thể chấp nhận được để giúp trẻ em có “chất lượng cuộc sống cao hơn mà không cần phải đeo khẩu trang”.

Tiến sĩ Jeffrey I. Barke, một bác sĩ chăm sóc chính được chứng nhận bởi hội đồng chứng nhận hành nghề tư nhân ở Nam California không tham gia vào nghiên cứu nhưng đồng ý với điều trên: “Chúng ta nên luôn luôn đặt ra câu hỏi ‘Với giá nào?’ khi xem xét bất kỳ chính sách nào”. Tiến sĩ Barke nói thẳng thắn về vấn đề yêu cầu trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ, đeo khẩu trang. 

Ông nói: “Việc đeo khẩu trang cho trẻ em gây ra tác hại trực tiếp, bao gồm gia tăng sợ hãi, trầm cảm, ý định tự tử và rối loạn khả năng học tập. Và quan trọng nhất, việc đeo khẩu trang ngăn cản sự gắn kết quan trọng giữa học sinh và giáo viên vì không thể nhìn thấy các biểu cảm trên khuôn mặt”.

Như Giáo sư danh dự chuyên ngành Tâm lý học của Đại học Yale – bà Marianne LaFrance – đã nghiên cứu trong cuốn sách của mình: “Tại sao phải cười? Khoa học đằng sau các biểu cảm trên khuôn mặt”, khuôn mặt con người là nguồn tín hiệu phong phú về cảm xúc, ngôn ngữ và xã hội đối với người khác. Bà LaFrance trả lời khi tôi phỏng vấn bà vài năm trước, biểu hiện trên khuôn mặt phức tạp hơn nhiều so với những gì mọi người nhận ra. Từ hạnh phúc đến giận dữ, khuôn mặt của chúng ta có thể và thường biểu hiện một loạt các cảm xúc — thậm chí là những cảm xúc trái ngược nhau — vào cùng một lúc.

Nhưng khi mũi và miệng của trẻ em bị bịt kín bởi khẩu trang và chúng chỉ có thể nhìn thấy mắt người khác, chúng sẽ gặp khó khăn hơn nhiều không chỉ trong việc học nói và hiểu ngôn ngữ mà còn trong việc học các tín hiệu xã hội và trí tuệ cảm xúc.

Theo một bài báo trên tạp chí Scientific American, trẻ từ 8 tháng tuổi đã bắt đầu biết đọc khẩu hình. Tuy nhiên, như Tiến sĩ David J. Lewkowicz, nhà khoa học cấp cao tại Phòng thí nghiệm Haskins của Đại học Yale đã viết trong cùng một bài báo, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ không thể tạo ra mối liên hệ giữa cử động môi và lời nói nếu chúng không thể nhìn thấy miệng của người chăm sóc.

Trẻ em trong độ tuổi đi học không phải là những người siêu lây nhiễm

Biện minh cho việc đeo khẩu trang cho trẻ nhỏ, đặc biệt ở trường học, là để tránh lây lan virus corona từ những trẻ không có triệu chứng sang người lớn. Nhưng dữ liệu từ Thụy Điển cho thấy rằng trẻ em đến trường mà không đeo khẩu trang rất ít hoặc không gây nguy hiểm cho người lớn (hoặc những trẻ trong độ tuổi đi học khác). 

Như Tiến sĩ Jonas F. Ludvigsson và ba đồng nghiệp của ông đã viết trong một bức thư đăng trên Tạp chí Y học New England, mặc dù Thụy Điển đã để cho các trường mầm non và tiểu học của họ mở cửa mà không quy định đeo khẩu trang, nhưng tỷ lệ nhiễm COVID-19 rất thấp, kể cả trong các trẻ em và trong các giáo viên của chúng.

Trên thực tế, trong số gần 2 triệu trẻ em Thụy Điển ở độ tuổi đi học tiếp tục đến trường mà không đeo khẩu trang, chỉ có 15 trẻ nhập viện vì COVID-19, tương đương với tỉ lệ 1:130,000.

Bốn trong số những trẻ này có bệnh nền nghiêm trọng (hai trẻ bị ung thư, một trẻ bị bệnh thận mãn tính và một trẻ bị rối loạn về máu.) Không có trẻ em nào bị COVID-19 tử vong.

Đeo khẩu trang cho trẻ em có hiệu quả không?

Ngoài những tác hại mà khẩu trang có thể gây ra, câu hỏi rằng liệu chúng có thực sự có tác dụng trong việc ngăn chặn sự lây lan của COVID-19 hay không vẫn còn đang bỏ ngỏ.

Vào tháng 11/2020, Tạp chí Y khoa Nội khoa đã công bố một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng để đánh giá hiệu quả của khẩu trang phẫu thuật trong việc chống lại SARS-CoV-2.

Trong nghiên cứu bao gồm hơn 6.000 người này, một nhóm các nhà khoa học Đan Mạch đã phát hiện ra rằng khẩu trang không làm giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm SARS-CoV-2. Tỷ lệ lây nhiễm cao hơn một chút ở những người không đeo khẩu trang: 42 người tham gia đeo khẩu trang (1,8%) có kết quả dương tính với COVID-19 trong khi 53 người tham gia (2,1%) trong số những người không đeo khẩu trang có kết quả dương tính. Tuy nhiên, sự khác biệt trong mẫu này không được coi là có ý nghĩa thống kê.

Một phần các nhà nghiên cứu kết luận: “Khuyến cáo đeo khẩu trang phẫu thuật để bổ trợ cho các biện pháp y tế công cộng khác đã không làm giảm tỷ lệ nhiễm SARS-CoV-2 trên những người đeo khẩu trang.”

Các tiểu bang có quy định đeo khẩu trang có tỷ lệ lây nhiễm cao hơn

Nghiên cứu độc lập khác đã phát hiện ra rằng, các bang có quy định đeo khẩu trang có tỷ lệ lây lan COVID-19 thực sự cao hơn so với các bang không có quy định này.

Khi các nhà nghiên cứu từ Rational Ground (một trung tâm thông tin về COVID-19 cung cấp “những phân tích hợp lý và dựa trên thực tế về đại dịch hiện nay bằng cách sử dụng các biểu đồ, đồ họa vi tính, video và các phương tiện chuyên sâu khác”, theo trang web của họ) phân tích dữ liệu từ 50 bang từ ngày 01/05/2020 đến ngày 15/12/2020, họ không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy quy định đeo khẩu trang đã làm chậm sự lây lan của COVID-19.

Tại các bang quy định đeo khẩu trang, đã có 9,605,256 trường hợp mắc COVID được xác nhận, trung bình 27 người trên 100,000 cư dân mỗi ngày.

Ở những bang không có quy định đeo khẩu trang, đã có 5,781,716 trường hợp mắc COVID được xác nhận, trung bình 17 người trên 100,000 cư dân mỗi ngày.

Trong một ý kiến chi tiết về dữ liệu này, ông Daniel Horowitz, biên tập viên cao cấp của TheBlaze và là người dẫn chương trình phát thanh của Tạp chí Bảo thủ, đã viết: “Gánh nặng của những người muốn vi phạm Hiến pháp với một quy định hà khắc như vậy… là đưa ra bằng chứng khẳng định rằng chúng [khẩu trang] có tác dụng. … Nhưng trong khi họ buộc chúng tôi phải chứng minh 100% rằng chúng không có tác dụng, thì những người đưa ra quy định đeo khẩu trang không phải chứng minh bất kỳ hiệu quả nào, ngay cả khi những đứa trẻ 2 tuổi bị buộc phải đeo khẩu trang trên máy bay.”

Khẩu trang thông dụng thường ít có hiệu quả 

Loại khẩu trang cũng rất quan trọng. Như Tiến sĩ Peter Weiss đã giải thích trong một bài báo trên The Epoch Times, các loại khẩu trang được sử dụng phổ biến nhất có khả năng kém hiệu quả nhất.

Tiến sĩ Weiss viết: “Khẩu trang y tế có ba lớp sợi tổng hợp và sợi siêu mịn, có tác dụng ngăn chặn các hạt lớn, nhưng lại kém hiệu quả trong việc ngăn chặn các hạt nhỏ trong lây nhiễm virus COVID-19.”

Tiến sĩ Paul Alexander, một chuyên gia y học và dịch tễ học dựa trên bằng chứng, cũng đồng ý như vậy: “Việc chúng tôi kiểm tra toàn bộ bằng chứng liên quan đến những chiếc khẩu trang vải màu trắng và khẩu trang phẫu thuật màu xanh này cho thấy chúng không hiệu quả và không mang lại lợi ích gì”. 

Ông Alexander là cựu cố vấn tổng hợp bằng chứng cho WHO/Tổ chức Y tế liên Hoa Kỳ về đại dịch COVID và cựu cố vấn cấp cao về đại dịch COVID cho Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ dưới thời chính quyền Trump. 

Ông Alexander cho biết: “Điều thực sự đáng sợ là tất cả những chiếc khẩu trang phẫu thuật màu xanh và những chiếc khẩu trang tương tự đều gây ra tình trạng hít phải sợi nhựa và có thể gây ra hậu quả tệ hại, đặc biệt là đối với trẻ em. Những chất dẻo này sẽ phân hủy rất chậm theo thời gian, và như vậy, nó có thể vẫn còn trong phổi và tích tụ đến mức nguy hiểm. Chúng tôi thậm chí không biết đâu là mức ‘có thể chấp nhận được’, vì tốt hơn hết là chúng không nên có trong phổi”.

Khẩu trang vải, loại mà hầu hết trẻ em đều đeo đến trường, cũng không hiệu quả. Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên về khẩu trang vải được sử dụng bởi nhân viên y tế trong bệnh viện ở Việt Nam, gần 97% khẩu trang bị các hạt virus xâm nhập (so với 44% khẩu trang y tế.) Ngoài ra, công nhân đeo khẩu trang vải có nhiều khả năng nhiễm trùng đường hô hấp hơn.

Tiến sĩ Weiss ví một chiếc khẩu trang vải như việc buộc một sợi dây quanh eo khi lái xe và khẳng định đó là dây an toàn. “Cũng không quá lời khi nói rằng việc đeo khăn che mặt theo phong cách Gucci… giống như yêu cầu kỹ thuật viên chụp X-quang đeo tạp dề nhà bếp của bà ngoại khi chụp X-quang”. 

Đeo không đúng cách

Khẩu trang phải được đeo đúng cách để có hiệu quả. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu trên những người đeo khẩu trang ở Nhật Bản, nơi mà đeo khẩu trang y tế là quy chuẩn văn hóa (không giống như ở Hoa Kỳ,) các nhà khoa học phát hiện ra rằng chỉ 23% người đeo khẩu trang tuân thủ các khuyến cáo. Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Quốc tế về Nghiên cứu Môi trường và Sức khỏe Cộng đồng cho thấy 77% người dân Nhật Bản không tuân thủ đầy đủ các hướng dẫn về khẩu trang.

Nếu bạn dành thời gian trong bất kỳ lớp học nào ở Hoa Kỳ nơi trẻ em được yêu cầu đeo khẩu trang, bạn sẽ nhanh chóng thấy rằng hầu hết trẻ em đều đeo không đúng cách. Các hướng dẫn của CDC quy định rằng bạn không được chạm vào khẩu trang của mình khi đang đeo nó. Nhưng trẻ em (và người lớn) liên tục chạm vào khẩu trang của họ.

Bà Angie Bowman, một bà mẹ bốn con và là một nhà giáo dục ở Medford, Oregon, cho biết: “Tôi thường không nhìn thấy những đứa trẻ đeo khẩu trang đúng cách. Tôi nhìn thấy chúng để khẩu trang xuống dưới mũi hoặc cắn vào phần giữa của khẩu trang để kéo nó ra khỏi mũi. Và tôi đã thấy những đứa trẻ dùng khẩu trang để lau mũi rồi đeo lại. Điều đó thật kinh khủng! Khẩu trang của chúng cuối cùng bị ướt, dính và có thể có nhiều vi trùng hơn trên đó. Theo quan điểm của tôi, trẻ em hoàn toàn không nên đeo khẩu trang”.

CDC khuyến cáo rằng các loại khẩu trang có thể tái sử dụng nên được giặt sạch ngay khi chúng bị bẩn hoặc ít nhất một lần một ngày. Nhưng hầu hết các bậc cha mẹ đều không biết về hướng dẫn này và cho con của họ đeo cùng một chiếc khẩu trang trong nhiều ngày liền. Khẩu trang dùng một lần, được thiết kế để vứt đi sau một lần sử dụng, thường được đeo lại trong nhiều tuần.

Tác hại ngoài dự kiến

Ảnh hưởng lâu dài của việc đeo khẩu trang và các biện pháp giảm thiểu COVID-19 khác đối với con em chúng ta là gì? Không ai có thể nói chắc chắn. Những gì chúng ta biết là tỷ lệ tự tử đang ở mức cao nhất mọi thời đại ở Hoa Kỳ, theo Tổ chức Y tế Thế giới, mặc dù tỷ lệ đó đã có xu hướng tăng lên trong một thời gian. Chúng tôi cũng đã chứng kiến ​​sự gia tăng mạnh mẽ về lạm dụng trẻ em và bạo lực gia đình kể từ khi bắt đầu áp dụng các biện pháp giảm thiểu COVID-19, cũng như các trường hợp tử vong do quá liều thuốc, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi. Theo CDC, hơn 96,750 trường hợp tử vong do sử dụng ma túy đã được báo cáo trong khoảng thời gian từ tháng 03/2020 đến tháng 03/2021, tăng gần 30% so với năm 2019.

Đồng thời, nhiều trẻ em hơn bao giờ hết được kê đơn thuốc chống trầm cảm, thuốc chống lo âu, và thậm chí cả thuốc chống tâm thần.

Người lớn cũng vậy. Theo dữ liệu của chính phủ, đã có sự gia tăng ở những người trưởng thành bị rối loạn lo âu và trầm cảm kể từ khi bắt đầu đại dịch.

Cô Sherry Syence, một bà mẹ của cặp song sinh 11 tuổi sống ở Asheville, Bắc Carolina, cho biết: “Tôi kịch liệt phản đối việc đeo khẩu trang cho trẻ em. Việc này không chỉ gây nguy hiểm cho sức khỏe thể chất của các em mà còn gửi cho các em một thông điệp rằng bản thân chúng là vật trung gian truyền bệnh. Tôi không muốn con tôi sống trong một môi trường có nền tảng là sự sợ hãi. Tôi muốn chúng trải nghiệm niềm vui trọn vẹn của tuổi thơ, được hít thở tự do và có những tương tác bình thường với những người khác mà không bị việc đeo khẩu trang làm cản trở. Các em cần được nhìn thấy toàn bộ các biểu cảm trên khuôn mặt của mọi người”.

Cặp song sinh của cô Syence theo học tại một trường học liên hợp nhỏ tại nhà, nơi việc đeo khẩu trang là tùy thuộc vào cha mẹ. Cô Syence và chồng quyết định đưa con rời khỏi trường công vì quy định đeo khẩu trang, cùng với nhiều lý do khác.

Tiến sĩ Barke nói: “Đừng bận tâm rằng khẩu trang có ít tác dụng bảo vệ chống lại virus đường hô hấp. Đừng bận tâm rằng những đứa trẻ không có triệu chứng chỉ đơn giản là không lây bệnh cho những người lớn có nguy cơ. Chúng ta phải luôn tự hỏi hậu quả của những quy định của chúng ta là gì?”

Tiến sĩ Jennifer Margulis là một nhà báo khoa học ở tiểu bang Oregon, là một nhà báo từng đoạt giải thưởng và là tác giả của  cuốn sách “Con của bạn, theo cách của bạn: Chịu trách nhiệm về các quyết định mang thai, sinh con và nuôi dạy con cái của bạn để có một gia đình hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn.” Cô từng đạt giải thưởng Fulbright và là mẹ của bốn đứa con, cô đã làm việc trong một chiến dịch sống còn vì trẻ em ở Niger, phía Tây của Phi Châu. Cô xuất hiện trực tiếp trên tivi vào khung giờ vàng tại Pháp và làm việc trong một chiến dịch sống còn của trẻ em ở Niger, phía Tây của Phi Châu. Tiến sĩ Jennifer Margulis là người nhận tài trợ của Fulbright và là diễn giả được chào đón. Tìm hiểu thêm về cô ấy tại trang JenniferMargulis.net.


Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2021

Bà Ngô Đình Nhu

Tên thật của bà là Trần Lệ Xuân. Không biết cái tên có vận vào người không, nhưng hình như có quá nhiều nước mắt đã từng chảy ra trong cuộc đời của bà Trần Lệ Xuân và của cô con gái là Ngô Đình Lệ Thủy.

Dù không phải là vợ của một vị nguyên thủ quốc gia, nhưng người ta vẫn gọi bà là “Đệ Nhất Phu Nhân”, vì tổng thống Ngô Đình Diệm không có vợ, nên bà được phong cái tước vị Đệ Nhất Phu Nhân, để thay mặt T.T. Diệm đón tiếp các vị Đệ Nhất Phu Nhân của các quốc gia khác theo đúng các nghi thức ngoại giao quốc tế. Bà là vợ của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ của T.T. Diệm. Ông Ngô Đình Nhu là cố vấn chính trị của T.T. Diệm, một nhân vật quyền lực thứ hai của Việt Nam.

Bà Ngô Đình Nhu là một phụ nữ nổi nhất đương thời. Trong thế kỷ 20, ở Việt Nam không có người đàn bà nào hoạt động chính trị mà lại có uy tín và được nhiều người biết tới cho bằng bà Ngô Đình Nhu. Bà làm chính trị, làm dân biểu, làm công việc xã hội, nên gọi bà là Đệ Nhất Phu Nhân cũng rất xứng đáng. Bọn tướng lãnh gia


nô rất sợ bóng vía bà, vì bà có cái oai của bà, bà dám nói thẳng, dám lên tiếng chỉ trích và chửi mắng những kẻ mà bà cho là phản nước, phản dân. Bà có cái khí phách, cái can đảm đương đầu với mọi nghịch cảnh bất cứ từ đâu tới. Bà phát minh ra kiểu áo dài hở cổ và mốt chơi vòng đeo tay bằng ngọc thạch, chứ không mang nữ trang bằng kim cương hay bằng vàng. Bà thường mặc áo dài màu trắng hay màu hồng nhạt. Không thấy bà mặc đồ đầm, sơ mi, quần tây, dù là thấy ảnh. Những năm 1960, áo dài bà Nhu là chiếc áo dài văn minh nhất Sài Gòn. Phụ nữ chê bai tư cách của bà trong chiếc áo dài hở cổ, nhưng không ai bảo ai, từ giới nữ sinh, sinh viên cho đến các mệnh phụ phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó.

Sau khi biết thủ đọan của Hoa Kỳ âm mưu lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, bà đã đơn phương độc mã cùng con gái qua Mỹ, diễn thuyết, họp báo để tố cáo với thế giới ý đồ giết chết anh em ông Diệm hầu dễ bề mang quân Mỹ vô Việt Nam và nắm quyền chỉ huy quân đội. Bà thừa biết rằng chống Mỹ ngay trên đất Mỹ thì tính mạng của bà coi như được treo bằng sợi chỉ mành. Coi như liều mạng để cứu nước. Nhưng sứ mạng của bà đã không thành.

Trong lúc bà và con gái đang còn ở Hoa Kỳ, bà được hung tin là chồng và anh chồng đã bị tàn sát một cách tàn nhẫn bởi lũ tướng lãnh tay sai ngu dốt. Và bà đã ra đi mà không bao giờ được về để thắp lên một nén nhang trên những nấm mồ của hai người thân yêu nhất của đời bà. Vẫn biết đời là đau khổ và đau khổ như bà Ngô Đình Nhu đến thế là cùng.

Chiến dịch bôi bẩn bà Ngô Đình Nhu

Điều ghê tởm nhất là người ta đã bịa đặt ra những chuyện vô cùng bẩn thỉu và hạ cấp để bôi nhọ bà. Người ta bảo bà đã từng “ngủ” với tướng Hinh, đã nói chuyện với nhau trên giường ngủ. Thử hỏi: lúc đó, người ta rúc ở chỗ nào mà nghe lén vanh vách như vậy? Bộ nằm ở gầm giường ư? Trong khi đó, tướng Nguyễn Khánh đã nói nguyên cái chuyện được nắm tay bà Nhu đã là một chuyện vô cùng khó khăn.

Lại có những kẻ vô lương tâm lấy hình một cô gái khỏa thân, cắt đầu đi, sau đó kiếm một tấm hình bà Nhu ghép đầu bà Nhu vào hình khỏa thân, rồi in ra cả nghìn tấm, tung ra để bôi bẩn bà. Sau đó họ còn bịa chuyện bà Nhu bắt các bà trong hội Liên Đới Phụ Nữ phải chụp hình khỏa thân để bà Nhu giữ làm hồ sơ. Và để đối phó với tất cả những điều bôi bẩn này, bà Nhu hòan tòan im lặng, theo đúng cái chủ trương của bậc quân tử: im lặng là khinh bỉ.

Tư cách bà Ngô Đình Nhu

Bà Nhu không những vừa xinh, vừa trẻ đẹp, mà còn giữ gìn gia phong nề nếp. Khi theo cha Phước đến thăm ông Nhu cùng vài người khác ngồi ở phòng khách, tôi thấy bà Nhu không dám ngồi mà chỉ đứng chắp tay vào nhau để trước bụng trong lúc chủ khách đàm đạo. Đó là cử chỉ của những gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Tôi không nói thêm cho bà cũng không nói bớt. Cung cách ấy, cử chỉ như thế, lễ giáo như thế, làm sao tôi có thể nghĩ xấu cho người phụ nữ này?

Cụ Đòan Thêm, một nhân vật rất thân cận với gia đình họ Ngô đã viết về bà Nhu như sau: Ông cho biết, ông đã làm sĩ quan tùy viên cho ông Cụ, kế cận ông Cụ ngày đêm. Trong 6 năm đó, ông chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà o khu bên kia dinh tổng thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông nói bà Nhu là người có phong cách, lịch sự và đàng hòang. Đối với T.T. Diệm, bà không có thái độ lấn quyền hoặc ra vào văn phòng ông Diệm lúc nào thì vào như lời người ta đồn đãi. Khi ăn thì chỉ có các ông Diệm, ông Nhu, Đức Giám Mục Thục mới ăn ở nhà trên, còn bà thì không.

Trần cao Lĩnh sinh năm 1925

Ông Trần Cao Lĩnh, một nhiếp ảnh gia đã được chọn để chụp hình cho gia đình cố T.T. Diệm trong các buổi lễ chính thức, đã kể lại như sau: Ông nhận xét bà Nhu là loại phụ nữ có ăn học, có giáo dục, mà còn có phong cách quý phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Bà không phải là người bờm xớp, cớt nhã, dâm đãng, mất nết như những lời bịa đặt của dư luận ác ý. Bà chẳng những nể nang, khép nép khi giáp mặt với T.T. Diệm, mà còn với Đức Giám Mục Thục và chồng của mình là ông Ngô Đình Nhu.

Nhưng bao nhiêu người có cơ hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu bà Nhu như ông Lĩnh, cụ Đòan Thêm, để rồi kính trọng nhân cách của bà? Hãy nhìn lại kể từ tháng 11-1963 đến nay bà Nhu đã làm gì? Đã nói gì? Đã viết gì? Và đã sống như thế nào?

Cụ Cao Xuân Vỹ

Kể từ sau tháng 11-1963, bà rút lui vào bóng tối. Không nói. Cắt đứt mọi liên lạc với mọi người ngay cả những người trước nay từng là những người cộng tác với ông Diệm và Nhu. Một vài người như các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Châu Lộc đã có dịp gặp bà đều nhận thấy bà sống một cuộc đời ẩn dật, sống chết với quá khứ đó. Kể như bà đã chết cùng với chồng và anh. Sự im lặng của bà mang nhiều ý nghĩa: đắng cay và tủi hận. Không những vậy, bà lại phải chịu đau khổ thêm một lần nữa khi bà mất đi cô con gái yêu quí Ngô Đình Lệ Thủy qua một tai nạn xe hơi ở Pháp. Ai hiểu được tâm trạng và nỗi buồn, nỗi đau của bà gần 50 năm nay?

Và trong thời gian đó, bà đã sống đúng nhân cách một người phụ nữ và tư cách của một “Đệ Nhất Phu Nhân”. Bà sống ẩn dật một thời gian ở Ý, rồi với số tiền do một nhà hảo tâm tặng, bà đã sang Pháp mua hai căn hộ nhỏ, một để ở, một để cho thuê lấy tiền tiêu xài. Ngày ngày bà đi bộ đi lễ nhà thờ, sau đó ở lại nhà thờ phụ giúp dọn dẹp lau chùi, lấy kinh nguyện làm lẽ sống. Bà sống như một người tu hành, nằm đất, ăn kiêng, không sa hoa, không ăn diện xe xua. Niềm vui của bà là nhìn những đứa con lớn lên thành đạt, có cháu nội ngoại, và được thấy chúng giữ đạo, đi lễ hằng ngày.

Những năm tháng ấy đã tẩy rửa những điều hàm oan về tiền bạc, con người của bà. Những ai đã từng kết án bà thì hãy nhớ rằng nếu bà là loại người tham tiền cố vị, không tư cách hay tệ hơn nữa là trăng hoa, mất nết … thì chúng ta đã thấy một bà Nhu sống buông thả, xa hoa, quen biết lung tung sau 11-1963. Nhưng không, chúng ta thấy một bà Nhu chui vào bóng tối, sống đơn sơ, giản dị, ở vậy thờ chồng, khi bà còn ở tuổi thanh xuân, còn xinh đẹp. Chỉ cần nhìn lại những tháng ngày sau 1963, tôi nghĩ thật mấy ai đã làm được như bà? Một con người như thế, tài ba, xinh đẹp, giỏi giang, quý phái, lịch sự, và phải chịu bao điều đắng cay, sỉ nhục, bao điều tệ bạc, phản trắc về thế thái nhân tình, mà vẫn có thể giữ được nhân cách và chọn lối sống ấy không phải là dễ, không phải ai cũng làm được. Ngay những kẻ thù oán chuyên đặt điều nói xấu bà cũng không có được bằng cớ nhỏ nhoi gì để bôi nhọ bà.

Ai nghĩ xấu thì đó là việc của họ. Còn tôi thì không. Ai ghét thì cứ việc. Còn tôi thì không. Nói xấu một người thì dễ. Kính trọng được một người thì mới là điều khó.

Bà Nhu đã chết, nhưng thật ra thì bà đã chết hai lần: từ ngày ấy, khi bà chết cho ông Nhu và nền đệ nhất cộng hòa, và bây giờ, bà đã chết cho chính bà, cho cuộc sống hiện nay.

Nghĩ đến hai người phụ nữ danh tiếng tài sắc trong lịch sử Việt Nam cận đại là Nam Phương Hòang Hậu và bà Ngô Đình Nhu, tôi không khỏi có chút so sánh và ngậm ngùi, thương tiếc cho hai người phụ nữ tài sắc ấy mà số phận dành cho họ thật là đáng thương.

Xin ơn trên phù hộ cho linh hồn bà Nhu sớm được về nước Chúa để được xum họp với chồng, con, anh và những người thân yêu của bà.

 GS Trần Thừa Dụ

Houston, Texas

 

Ông Ngô Đình Trác, con trai bà Ngô Đình Nhu, đã thông báo là bà Ngô Đình Nhu đã về nước Chúa lúc 2 giờ sáng ngày lễ Phục Sinh 4/24/2011 (Giờ La Mã, Ý đại lợi).

Sau hơn 40 năm, đây là lần đầu tiên Bà Ngô Đình Nhu tiếp xúc với một người VN và qua cuộc chuyện trò này, chúng ta được biết một phần nào sự thực cuộc sống hiện tại của bà Ngô Đình Nhu, bài này trích từ nguyệt san Dân Chúa Mỹ Châu số 332, tháng 10/2004. Phần nhận xét xin dành cho người đọc.

Tôi đến thăm Bà Ngô Đình Nhu vào lúc 2 giờ trưa ngày 16 tháng 3 năm 2002 tại kinh thành Paris của nước Pháp. Nắng êm dịu vừa lên sau buổi sáng ẩm ướt của những ngày đầu Xuân và Paris thì lúc nào cũng chật ních những người và xe. Thành phố có cả một kho tàng bảo vật và huyền thoại. Ở đây người đi bộ đầy đường với những tiệm ăn và quán cà phê nối tiếp chạy dài cả dẫy phố. Người Paris nhàn và ham muốn hưởng thụ, chậm chạp nhưng thon thẻ hơn người Seattle. Cuộc sống thư giãn chậm chạp của những ông Tây bà Đầm là niềm ước mơ của những người luôn phải vội vã lập cập với tốc độ từ sáng sớm đến nửa đêm ở Cali hayTexas.

Bà Nhu ở một mình trong một đơn vị gia cư (apartment) của một tòa nhà mới xây gần tháp Eiffel. Nói là mới để phân biệt với những chung cư san sát ở Paris đã được xây cả đến vài ba thế kỷ với những đường nét hoa văn cổ kính. Chung cư Bà Nhu ở có những nét kiến trúc đương đại giống như một cái hộp khổng lồ bằng kính, có lẽ đã được tạo dựng từ 30 đến 40 năm. Bà Nhu là sở hữu chủ hai (02) đơn vị gia cư ở trên tầng lầu thứ 11 của tòa nhà cao tầng ở khu vực có địa thế rất đẹp và đắt tiền nhất thủ đô Paris, ngay giữa cái nôi của văn hóa và chính trị thế giới. Nơi đây, một tấc đất chẳng biết giá tới mấy chục hay mấy trăm tấc vàng. Cả vùng này hầu như là nơi cư ngụ của các nhân viên và phái đoàn ngoại giao trên đất Pháp. Bà Nhu ở một đơn vị và cái thứ hai cho thuê để lấy tiền sinh sống. Đó là lợi tức duy nhất của Bà, cũng tiện tặn đủ sống và không cần nhờ vả đến các con. Bà sống ản dật, đi về lẻ loi thầm lặng đến nỗi một khuôn mặt quen thuộc của cộng đồng người Việt quốc gia ởParis là cựu Trung Tướng Trần Văn Trung vẫn nghĩ là Bà Nhu sống ở bên Ý.

Trên đường đến thăm Bà Nhu, tôi vẽ ra trong đầu óc qua hình ảnh của những chung cư đắt tiền ở New York hay San Francisco đã xem trên những tạp chí chuyên về địa ốc ở Mỹ và nghĩ là nơi cư ngụ của Bà Nhu chắc phải sang trọng lắm. Những apartment của Jacqueline Kennedy hay John Lennon ở New York và của các tay tài phiệt ở San Francisco gợi cho tôi một náo nức mong chờ. Các cụ mình ngày xưa vẫn nói "ăn cơm Tàu, ở nhà Tây" thì chắc là đã có một so sánh cẩn trọng. tôi bước đi vội vàng với những lung linh nơi lãnh địa của giới thượng lưu. Những dòng họ quý tộc từ bao nhiêu đời cấu trúc nên vẻ hào nhoáng phong nhã của kinh thành Ánh Sáng và dân cư ngụ dù ở chân trời góc biển nào lưu lạc tới đây cũng được nhận lãnh ấn tích của người Paris.

Chiếc thang máy nhỏ hẹp vừa đủ chỗ đứng cho một ông Mỹ quá khổ đưa tôi lên tầng 11 của tòa nhà cao tầng. Bà Nhu mở cửa đón khách trong chiếc áo kimono Nhật mầu xanh nước biển, khuôn mặt trang điểm kỹ lưỡng với giọng nói đặc Huế không vồn vã mà cũng chẳng quá lạnh nhạt. Bà Nhu sắp vào tuổi 80 nhưng rất khỏe mạnh. Bà đi đứng nhanh nhẹn, lưng thẳng, đôi mắt to và sáng. Có người nói từ năm 1963 đến nay Bà chẳng già đi chút nàọ Thật ra đó chỉ là một lối nói để diễn tả sức khoẻ sung mãn của một người tuy đã nhiều tuổi đời nhưng vãn giữ được vóc dáng linh hoạt và nét mặt không có những nếp nhăn theo thời gian. Tuy nhiên "cái già" cũng vất vưởng đâu đó trên khoé mắt vành môị Khi Bà cười thì khuôn mặt trông rất tươi trẻ phô bầy bộ răng trắng vẫn còn đầy đủ trong tình trạng hoàn hảo.

Chỗ ở của Bà Nhu tuy không nghèo nàn nhưng chẳng có gì đáng nói, ngay cả không bằng cái apartment mà tôi thuê mướn ở ngoại ô thành phố Seattle vào mùa Đông năm 1975 khi vừa đến Mỹ. Đơn vị gia cư của Bà Nhu rất tầm thường giống như những apartment rẻ tiền ở Mỹ với hai phòng ngủ và một diện tích nhỏ làm phòng khách. Phía tay trái lối đi từ của ra vào là nhà bếp. Trên tường phòng khách treo vài khung hình lớn có những tấm hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Đức Cha Ngô Đình Thục, Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, cô trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy và nhiều người thân tộc đã quá vãng. Khoảng trống phía bên tay phải là phòng khách có một bộ xa lông, bên cạnh kê bàn ăn với 6 cái ghế. Bộ bàn ghế này và cài cái tủ nhỏ kê ngoài phòng khách làm bằng gõ gụ mầu đen với những nét chạm trổ VN quen thuộc. Bà Nhu cho biết trước kia thân sinh là Ông Bà Trần Văn Chương có một apartment ở Paris và những đồ đặc này được mang từ VN qua, lâu lắm rồi. Khi hai cụ thân sinh bán cái apartment đi thì cho Bà Nhu bộ bàn ăn và hai cái tủ nhỏ nàỵ Tôi đã đọc mấy bài báo nói về khiếu thảm mỹ của Bà Nhu qua việc sắp xếp và trang hoàng Dinh Độc Lập. Giờ này được đứng ngay giữa cơ ngơi của riêng Bà mà chẳng thấy một "công trình" nào xem cho bắt mắt, có thể vì điều kiện tài chánh hay thời trưng diện của Bà đã qua.

Đứng ở nhà bếp nhìn ra ngoài có cảm tưởng như tháp Effeil sát ngay bên cạnh khung cửa kính. Tôi tiếc thầm, phải như phòng khách mà được xếp đặt ở chỗ này thì đẹp biết baọ Ngồi đây nhâm nhi ly cà phê nhìn thiên hạ từ khắp nơi trên thế giới đổ xô đến chân tháp chờ lên thang máy nhìn cả kinh thành Paris. Ngày như đêm lúc nào cũng là hội hè đình đám. "Vui với cái vui của thiên hạ" chắc lòng mình cũng phần nào đỡ trống trảị. Có lẽ cũng vì vậy mà phòng ngủ bên cạnh nhà bếp có kê một bộ xa lông để bù đắp lại sự thiếu sót to lớn của người thiết kế khu chung cư. Phòng ngủ thứ hai là chỗ làm việc của Bà Nhu với đủ loại sách báo. Cả đơn vị gia cư của một người sống lẻ loi một mình không có một cái giường nhỏ. Buổi tối Bà Nhu trải một cái chăn trên nền nhà, ở một chỗ nào đó trong căn hộ- nhỏ hẹp để nghỉ qua đêm. Bà không ngủ trên giường nệm nên mặc dầu đã lớn tuổi mà vẫn giữ được lưng thẳng và đi đứng nhanh nhẹn mạnh dạn.

Bà Nhu mời tôi ngồi trên một cái ghế ngay đầu bàn ăn cạnh khu phòng khách. Bà ngồi ghế đối diện, chân trái gác lên một chiếc ghế thấp hơn. Bà nói kỳ này khí hậu thay đổi bất thường nên cái chân hơi bị đau vì vết thương ngày trước. Bà Nhu bị gẫy chân trái trong vụ hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom Dinh Độc Lập vào ngày 27 tháng 2 năm 1962. Sau này bà đang đi bộ thì trượt chân ngã và cũng cái chân trái này bị gẫy lần thứ hai. Mặc đầu Bà không gặp khó khăn gì khi đi đứng nhưng đôi khi cũng thấy khó chịu.

Đối với tôi đây chỉ là một cuộc thăm viếng thường tình giữa người đồng hương nơi xứ lạ. Tôi không có ý định phỏng vấn Bà Nhu và chắc chắn Bà sẽ không được tự nhiên, thoải mái khi phải đóng khung trong những câu hỏi của một cuộc phỏng vấn. Phần khác tôi cũng không muốn khơi lại những đau thương mà Bà phải gánh chịu trong cơn bão táp lịch sử và bể oan cừu cay nghiệt của cuộc đời. Tôi muốn cuộc thăm viếng không bị gò bó và trói buộc vào một chủ đề, đồng thời cũng không muốn tìm tòi những gì mà cá nhân tôi và rất nhiều người được nghe đủ loại chuyện tốt xấu về Bà mà chẳng biết hư thực ra sao, và từ những mù mờ đó đã có biết bao câu hỏi về một người đàn bà một thời xe ngựa thênh thang. Tôi muốn câu chuyện được tự nhiên và để Bà chủ động bất cứ những gì Bà muốn nói. Tôi có thể dùng những tiểu xảo của kỹ thuật phỏng vấn "gài" Bà vào những sơ hở để thỏa mãn những gì tôi muốn biết hoặc chỉ nghe đồn thổi. Tôi đã không làm như vậy vì lòng kính trọng đối vơi Bà và lương tâm ngay lành của tôi.

Tôi mở đầu câu chuyện bằng mấy lời xã giao thông thường, kính chúc bà luôn được mạnh khỏe an vui. Bà bắt đầu nói về lai lịch nơi hiện cư ngụ. Rất nhiều người biết qua báo chí chuyện một người Pháp giầu có biếu Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục một món tiền lớn và Đức Cha Thục đã cho Bà Nhu để mua một đơn vị gia cư trong tòa nhà cao tầng này và sau đó Bà dành dụm mua thêm được một đơn vị nữa. Sự thật không phải như vậy. Bà Nhu trực tiếp nhận được một số tiền rất lớn từ một vị ân nhân ẩn danh. Có tiền trong tay, Bà đã nhờ một cựu bộ trưởng thời chính phủ De Gaulle giúp mua liền một lúc hai đơn vị gia cư này. Vào những năm mà người Việt vượt biển ra đi một cách rầm rộ gần như công khai, Bà Nhu cho mấy thanh niên mới bơ vơ đến Pháp tạm trú ở đơn vị gia cư thứ hai và không lấy tiền thuê mướn hay bất cứ chi phí điện nước nào cả. Một thời gian sau những thanh niên này tìm được thân nhân hay vì nhu cầu công việc ra đi tạo lập đời sống mới thì Bà Nhu cho một nhà ngoại giao Nhật Bản thuê mướn cho đến ngày nay. Vị ân nhân tặng Bà Nhu số tiền kếch xù đó là Bà Capaci, một cư dân thành Milan nước Ý và cũng là một trong bẩy người phụ nữ giầu nhất thế giới. Bà Nhu chưa được một lần gặp vị ân nhân này và mãi đến bốn năm sau khi Bà Capaci tạ thế Bà Nhu mới được biết tên cũng như thanh thế và sự nghiệp của người đã gia ân cho mình.

Trên bức tường ngăn phòng khách và nhà bếp có treo tấm hình đen trắng ngôi nhà của Ông Bà Nhu ở Đàlạt, tôi kể cho Bà nghe chuyến đi về VN nhân dịp Tết Tân Tỵ, lần đầu tiên sau 26 năm vội vã ra đi lánh nạn. Tôi đã đi ĐàLạt, ghé lại thăm ngôi nhà xưa của thời trung học, bước qua đướng đứng nhìn nhà Ông Bà Nhu một lúc lâu. Ngôi nhà của Ông Bà Nhu hiện không có người ở nhưng được bảo quản khá tốt, không thấy những đổ vở hoang tàn vì thời gian hay qua những biến động. Hiện nay Bà Nhu không có ý định về thăm VN mặc dầu Bà được nhà cầm quyền Hà Nội đánh tiếng cho biết là nếu Bà muốn về thì cũng chẳng có trở ngại gì. Những kỷ niệm về một nơi chốn thân thương xa xưa gợi lại miền ký ức dấu ái, Bà nói "tôi gặp Ông Cố Vấn năm 16 tuổi, đến năm 18 tuổi thì làm đám cưới". Bà có vẻ buồn khi nói đến ngôi nhà ở Đà Lạt. Một vùng trời mộng mơ với những kỷ niệm của ngày tháng êm đềm nơi xứ sương mù vẫn còn vương vất đâu đây. Khi nói về những người con thì Bà Nhu có vẻ bằng lòng với chút hãnh diện. Tôi cố tình không hỏi gì về trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy đã bị chết thảm trong một tai nạn xe cộ trên xa lộ vòng đai của Paris. Rất có thể đây là một âm mưu quốc tế còn nhiều nghi vấn chưa được sáng tỏ và tôi cũng không muốn khơi lại những kỷ niệm đau buồn để rồi những giọt nước mắt của bà mẹ lại một lần nữa ướt đẫm trên khuôn mặt đã có quá nhiều khỗ đau. Ông con trai lớn Ngô Đình Trác tốt nghiệp kỹ sư canh nông, năm nay cũng đã 55 tuổi, lấy vợ người Ý và có bốn con, ba trai một gái. Bà Nhu nói về những đứa cháu nội, con trai của Ông Trác, trong niềm vui "cao một mét tám, to lớn và đẹp trai lắm". Vợ ông Trác thuộc giòng dõi quý tộc rất giầu có. Ông Trác rất đam mê công việc trồng trọt chăn nuôi và đã chế tạo được nhiều dụng cụ nông cơ thích hợp cho việc canh tác những thủa đất nhỏ. Gia đình Ông Trác sỡ hữu một biệt thự to và rất đẹp trong nội thành La Mã. Ngôi biệt thự này có cách cấu trúc và đáng dấp như một tu viện. Bà Nhu đã ở đấy nhiều năm nên rất nhiều người lầm tưởng rằng Bà đã tá túc ở một tu viện Công giáo trong khoảng thời gian dài.

Người con trai thứ hai là Ngô Đình Quỳnh cũng đã trên 50 tuổi, tốt nghiệp trường E.S.E.C. (École Suprrieure de l'Economie et du Commerce) chứ không phải trường H.E.C. (Hautes Etudes Commerciales) như rất nhiều báo chí và sách vở đã sai lầm. E.S.E.C. là trường tư đào tạo các chuyên gia kinh tế và tài chánh cao cấp, có học trình gay gắt và học phí rất cao. Sinh viên được nhận vào học trường này phải vượt qua những cuộc thi cử cam go và sau khi tốt nghiệp được các cơ quan kinh tế và tài chánh trên toàn thế giới trọng vọng. Khi Ngô Đình Quỳnh hoc trường này Bà Nhu đã không đủ khả năng trả học phí nên phải làm giấy xin nợ tiền học. Hiện ông Quỳnh làm đại diện thương mại cho một số công ty Hoa Kỳ ở Bruxelles, thủ đô nước Bỉ. Ông Quỳnh không lập gia đình. Bà Nhu cười nói "Ông Quỳnh giống Bác", hàm ý sống độc thân như Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đang lúc tôi nói chuyện với bà Nhu thì một thiếu nữ người Pháp gõ cửa bước vào với một xấp hình trên tay. Cô bé 17 tuổi này vừa trở về sau chuyến đi làm công việc thiện nguyện giúp các thanh nữ Phi Luật Tân bị bệnh AIDS. Tất cả chi phí cho chuyến đi của cô bé này do ông Ngô Đình Quỳnh đài thọ. Cô bé có những lọn tóc mầu hạt dẽ khoe những tấm hình chụp chung với các nạn nhan của căn bệnh thời đại và ước mong sẽ được trở lại thủ đô của nước Phi Luật Tân để tiếp tục công viêc bác ái. Bà Nhu nói ông Quỳnh sống đạm bạc và rất tích cực trong những hoạt động từ thiện nên ước vọng của cô bé chẳng phải là một giấc mơ.

Cô con gái út Ngô Đình Lệ Quyên có bằng tiến sĩ Luật từ trường đại học Roma. Lệ Quyên là một luật gia ngành Công Pháp rất nổi tiếng nhưng chỉ được mời thỉnh giảng và tham luận ở phân khoa Luật của đại học Roma mà thôi. Lý do đơn giản là Lệ Quyên không chịu vào quốc tịch Ý. Luật lệ nước Ý không cho phép những người không có quốc tịch được quyền giảng dậy một cách chính thức trong học trình. Lệ Quyên thường xuyên được mời dự các hội nghị quốc tế và có nhiều bài tham luận xuất sắc làm sửng sốt các "cây đại thụ" của ngành công pháp thế giớị Lệ Quyên có chống người Ý, nhưng đứa con trai 7 tuổi lại chính thức mang họ mẹ trên giấy tờ hộ tịch. Bà Nhu hãnh diện nói tên cháu bé là Ngô Đình Sơn, một tự hào dòng họ hay là sự gìn giữ gốc rễ gia tộc.

Mỗi buổi sáng sớm, bất kể thời tiết. Bà Nhu đều "xuống đường" đi bộ chừng độ 10 phút đến nhà thờ Saint Léon dâng thánh lễ hằng ngày. Cũng tại ngôi thánh đường này, lần đầu tiên vào tuần lễ đầu tháng 11 năm 2001, Ba Nhu tổ chức lễ tưởng niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thông thường sau thánh lễ Bà ở lại giúp dọn dẹp nhà thờ và xếp đặt trưng bày hoa nến. Ngày chú nhật Bà phụ trách dậy lớp thánh kinh cho các trẻ nhỏ. Bà gia nhập đạo Công giáo khi lập gia đình, nhưng lúc thiếu thời được giáo dục trong các trường Công giáo nên có thể nói là Bà đã lớn lên và trưởng thành trong tín lý của đạo Chúa. Trong câu chuyện, Bà Nhu nhiều lần biểu lộ Đức Tin tuyệt đối nơi sự an bài của Đấng Tối Cao. Khi nghe tôi nói có thân nhân đang bị bệnh và rất muốn trở về Mỹ sớm hơn, Bà Nhu đi vào phòng làm việc lấy cho tôi một tượng ảnh Đức Mẹ Maria đúc bằng kẽm to hơn đồng một xu Mỹ kim. Bà nói mang tượng ảnh về cho bệnh nhân thì Đức Mẹ sẽ cứu giúp và chữa khỏi. Tôi nghĩ là vì có Đức Tin mạnh mẽ như vậy nên Bà đã vượt qua được bao cơn sóng gió ba đào mà sống mạnh khỏe đến ngày nay.

Trên đường từ nhà thờ về Bà Nhu cũng thỉnh thoảng ghé lại tiệm bán hoa và cây cảnh, mua vài bông hoa hay một chậu cảnh trang hoàng trong nhà. Ít khi Bà phải nấu nướng vì ăn rất ít và những bà bạn người Pháp thường mang đồ ăn đến cho nên cũng chẳng bận rộn gì việc bếp núc. Trước kia tôi nghe có người nói Bà Nhu chỉ ăn qua loa, hai ba lần một tuần. Tôi nghĩ là nếu ăn uống như vậy thì làm sao mà... thở được. Bây giờ tôi nghe chính Bà Nhu nói "hai ngày nay tôi chưa ăn gì cả, vì tôi không ăn nên không có bệnh". Các vị tu sĩ Ấn Độ giáo rất ít khi ăn uống nhưng người nào cũng mạnh khỏe và sống lâu trăm tuổi. Ở các nước Âu Mỹ đa phần người ta chết vì ăn chứ có ai chết vì đói.

Bà Nhu hầu như không đi sắm sửa quần áo giầy dép. Mỗi năm một bà bạn người Nhật gởi qua cho vài cái áo kimono đủ mặc trong nhà, có việc đi đâu thì mặc mấy cái quần áo cũ cũng còn tạm được. Nói đến quần áo, Bà có vẻ đăm chiêu "ở Sàigòn nóng quá nên tôi mặc áo dài hở cổ, Tổng Thống không bằng lòng". Chiếc áo dài hở cổ được đặt tên là "kiểu áo Bà Nhu" đã một thời là "mốt" của các thiếu nữ Sai Gòn và cũng là một đề tài xôn xao của những người vô công rồi nghề. Bà kể chuyện trước kia phải đại diện chính phủ tiếp đón phu nhân các vị quốc khách mà chẳng có đến một món trang sức nên thấy thiếu sót. Nhân có bà vợ một ông bộ trưởng muốn bán mấy món đồ trang sức làm bằng đá đỏ (ruby), Bà Nhu có trình và xin Tổng Thống số tiền sáu ngàn đồng bạc VN để mua lạị Tổng Thống nghe lời giãi bầy cũng hợp lý nhưng yêu cầu người bán phải viết một tờ giấy biên nhận với đầy đủ lai lịch của những món đồ trang sức này. Bà Nhu nói đó là lần duy nhất Tổng Thống cho tiền và cung chẳng còn nhớ những đồ trang sức đó bây giờ thất lạc nơi đâu.

 Nhớ lại Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới năm xưa, Bà nắm hai tay trước mắt nhìn lên trần nhà nói bằng tiếng Pháp "phụ nữ phải được giải phóng, phụ nữ phải được tôn trọng". Giấc mơ của Bà là người phụ nữ phải có chỗ đứng và tiếng nói trong xã hội. Ước vọng của Bà là người phụ nữ phải có những cơ hội thuận tiện để thăng tiến trong mọi lãnh vực của đời sống. Tiếng nói của Bà rõ ràng, chắc nịch, lên xuống với những cảm xúc làm người nghe rất dễ bị lôi cuốn rồi nhiệt tình ủng hộ.

Trong cả một buổi chiều, lúc nói chuyện này và đột nhiên nói sang chuyện khác nhưng Bà không hề đả động gì đến nước Mỹ mặc dầu Bà biết tôi đến từ một tiểu bang ở vùng Tây Bắc nước Mỹ. Nhiều người nói Bà Nhu căm thù Mỹ lắm vì những sai lầm trong chính sách đối với VN và nhất là đối với Đệ Nhất Cộng Hòa VN. Vào những ngày tháng cuối năm 1963, cả thế giới đã kinh ngạc nghe và nhìn Bà Nhu mạt sát nước Mỹ và những nhà lãnh đạo của siêu cường này ở tại một địa điểm chỉ cách Tòa Bạch Ốc một quãng đường. Tôi nghĩ là Bà dã không còn mang những "hận thù" đó trong tim óc nữa và thực sự muốn quên hết để mọi chuyện nhẹ nhàng đi vào lịch sử.

Bà kể chuyện vào mùa Xuân năm 1975, hệ thống truyền thanh NBC của Mỹ có xin phỏng vấn trong 30 phút. Lý do Bà chấp nhận lời yêu cầu của NBC và đòi mười ngàn (10,000) Mỹ kim thù lao cộng với hai vé máy bay khứ hồi hạng nhất Paris - Washington DC, vì lúc đó Lệ Quyên rất nhớ và muốn đi gặp ông bà ngoại. Bà Nhu không có tiền trang trải cho chuyến đi nhưng vì thương con nên bằng lòng trả lời cuộc phỏng vấn để có tiền đưa con gái đi gặp Ông Bà Trần Văn Chương ở thủ đô của nước Mỹ. Đối với một tổ hợp truyền thông to lớn như NBC thì những điều kiện đó thật quá nhỏ bé và họ đã vội vàng thực hiện cuộc phỏng vấn. Đó là lần duy nhất Bà đi Mỹ và cũng là lần duy nhất Bà tiếp xúc với giới truyền thông quốc tế sau năm 1963. Ngoài ra, Bà chưa từng gặp gỡ hoặc tiếp xúc với báo giới Việt ngữ dưới bất cứ hình thức nào. Trong quá khứ đã có vài tờ bào ở Đức quốc và California đăng tải bài phỏng vấn Bà Ngô Đình Nhu. Tất cả những bài "phỏng vấn" đó đều là những ngụy tạo mà độc giả rất dễ dàng nhận ra tính chất giả dối và bịa đặt của người viết.

Bà Nhu cũng không nói gì về vụ phản loạn 1.11.1963 và những người được ngoại bang thuê mướn sát hại chồng Bà. Tôi có nói xa gần đến đám quân nhân phản loạn để dò xét phản ứng của Bà nhưng không trông chờ ở một sự tức giận thường tình của một con người vì thời gian đến gần 40 năm cũng đã làm nguôi ngoai cơn thịnh nộ. Bà có vẻ buồn, nhìn qua khung cửa sổ nói một cách nhỏ nhẹ bằng tiếng Anh "đó là một bọn ngu đốt".

Đồng hồ chỉ tám giờ rưỡi tối. Những ngọn đèn của Paris kết nối làm thành một biển ánh sáng và thành phố đã bắt đầu đi vào cuộc sống ban đêm. Hơn sáu giờ đồng hồ ngồi nói chuyện, tôi đã uống hết hai ly nước bưởi to nhưng tuyệt nhiên không thấy Bà Nhu uống một chút nước nào. Tôi sợ ngồi lâu quá Bà sẽ mệt mỏi những thực sự thì chính tôi là người đã thấm mệt. Bà Nhu không tỏ ra mệt mỏi hay có một dấu hiệu nào biểu hiện sự rã rời sau một buổi chiều dài chuyện trò. Trước khi tôi xin cáo từ Bà Nhu có nói đến cuốn sách của Bà. Theo chỗ tôi được biết thì cuốn sách này sẽ được phát hành cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới bằng bốn thư ngôn ngữ: VN, Anh, Pháp và Ý. Bà viết bằng tiếng Pháp và tự dịch sang tiếng Anh và Ý. Bản dịch tiếng Việt đang trong giai đoạn nửa chừng. Cũng vì vậy mà tôi hạn chế bài viết này trong một kích thước vừa đủ, những gì độc giả muốn biết hay những gì gọi là "bí mật lịch sử" sẽ rất có thể được nói đến hoặc phân giải trong cuốn sách mà rất nhiều người chờ đợi.

Tôi chợt nghĩ đến "ông tướng phường chèo" Nguyễn Khánh. Ông này đi đến đâu cũng cầm cuốn vở học trò huyênh hoang có nhật ký của Bà Nhu trong tay. Tôi nghĩ rất có thể Ông này lượm được cuốn vở Bà Nhu ghi chép những chuyện vụn vặt của một người nội trợ trong gia đình như hôm nay đi chợ cần phải mua những món gì, đến bao giờ thì phải đóng tiền trường cho con... Ngoài ra chẳng có gì đáng nói tới hay có một giá tri gì cả. Tôi cũng không hiểu được lý do tại sao khi bị đuổi ra khỏi nước mà đương sự còn ôm theo "báu vật" đó để làm gì. Đặt trường hợp "báu vật" đó mang lại danh vọng và lợi lộc hoặc là một thứ vũ khí để để mạt sát nhục mạ Bà Nhu thì chắc chắn độc giả đã được đọc từ lâu rồi.

Tôi bước ra chỗ thang máy để xuống phố lang thang với người Paris mà trong lòng xôn xao niềm vui vì không ngờ một "bà cụ" gần 80 tuổi đã vật vã với bao sóng gió phũ phàng của cuộc đời mà lại còn có một sức khoẻ thật sung mãn, trí óc minh mẫn đến như thế. Ở vào tuổi đời như vậy mà còn giữ được thể chất và tinh thần trong một tình trạng gần như lý tưởng thì thật là hiếm có. Bà Nhu đã thực sự lánh xa những tục lụy phù phiếm của trần gian. Bà sống trong hơi thở nhịp tim của đời sống tận hiến và phó dâng với niềm cậy trông tuyệt đối với sự quan phòng của Đấng Tạo Hóa. Tôi cầu chúc Bà luôn mạnh khỏe, an vui.

Trương Phú Thứ

 

BBC

'Bà Nhu như tôi từng biết'

Người được coi là như là cựu 'Đệ nhất Phu nhân' của nền Đệ nhất Cộng hòa ở miền Việt Nam, bà Trần Lệ Xuân, vừa qua đời ở tuổi 87. Bà là vợ của ông Ngô Đình Nhu, em trai Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tin bà Trần Lệ Xuân qua đời được loan báo tới các phương tiện thông tin đại chúng từ luật sư Trương Phú Thứ, một trong số ít người có tiếp xúc, trò chuyện với bà trong những năm gần đây.

Từ Seattle, Hoa Kỳ, ông Trương Phú Thứ cho BBC biết: Tôi được biết bà Nhu nằm viện đâu chừng ba tuần lễ trước khi qua đời. Khi bà thấy mệt quá thì bác sỹ họ đưa vào trong nhà thương nằm trong tình trạng rất yếu, gần như không nói được nữa.

Tới Chủ nhật vừa rồi thì tôi nhận được điện thoại của gia đình bà từ bên Rome, nói bà đã qua đời vào lúc 2 giờ sáng giờ địa phương. Tất cả ba con của bà đều có mặt lúc ấy.

Trước khi mất khoảng ba năm, bà Nhu ở nhà với con trai cả là Ngô Đình Trác, tại Rome (Ý). Cô con gái út là Ngô Đình Lệ Quyên cũng ở nhà đó, trong tầng hầm. Cả gia đình ở với nhau rất vui vẻ hòa thuận. Vậy cho nên bà qua đời là cả gia đình có mặt. Con trai thứ của bà Nhu là Ngô Đình Quỳnh thì sống và làm việc bên Bỉ.

BBC: Vậy thông tin nói bà Trần Lệ Xuân sống một mình trong biệt thự xa hoa lộng lẫy mà bạn của bà tặng thì là tin thất thiệt?

LS Trương Phú Thứ: Tin đó cũng như tin mà một vị tự xưng là sử gia tung ra, rằng bà Nhu có tới 17 tỷ Mỹ kim từ những năm 1960-1961. Tôi chỉ hỏi liệu hồi đó mang cả Sài Gòn ra bán có thu được 17 tỷ Mỹ kim hay không!

Thứ hai nữa, sau vụ đảo chánh 1963 bà Nhu phải ở trong một căn phòng studio chật chội, không có phòng ngủ, với bốn đứa con, chứ làm gì có lâu đài xa hoa như họ nói.

Cũng như là thông tin bà bị mất trộm một số tiền lớn ở Rome, hay năm 1963 bà đi mua đồ trang sức trị giá 30.000 đôla ở New York mà quịt không trả... Toàn chuyện họ bày đặt ra, đâu có được.

 

BBC: Thưa, lần cuối cùng ông có tiếp xúc với bà Trần Lệ Xuân là khi nào?

LS Trương Phú Thứ: Lần cuối tôi nói chuyện với bà là chừng cách đây hơn hai tháng. Lần ấy bà còn khỏe lắm, tiếng nói khỏe và rất to, trong cuộc nói chuyện bà còn cười rất vui vẻ. Vậy mà tôi cũng không ngờ bà suy sụp mau lẹ như vậy.

 

BBC: Và các cuộc nói chuyện của ông với bà Trần Lệ Xuân là để bàn thảo về cuốn sách của bà ấy phải không ạ?

LS Trương Phú Thứ: Vâng, đúng là như vậy. Bà Nhu viết bằng tiếng Pháp vì tiếng Việt bà viết không được giỏi nhưng tiếng Pháp của bà thì anh bạn tôi là Nguyễn Kim Quý, tiến sỹ văn chương Pháp, phải công nhận là lối hành văn của người rất giỏi Pháp văn.

Bà học trường Tây, có tú tài phần hai và cũng sống ở Pháp nhiều năm. Hồi tôi đi thăm bà lần đầu bên Paris năm 2002, bà sống một mình trong một căn hộ bên đó.

Lại nói về điều kiện sinh sống thì căn hộ đó của bà trông cũng rất bình thường, không thể so được với nhiều căn hộ bên Mỹ, mà lại tận trên tầng lầu thứ 11. Người già mà có tiền ai người ta chịu sống như vậy chứ?

Bà cố vấn Ngô Đình Nhu

Sinh năm 1924 tại Hà Nội

Tốt nghiệp tú tài trường Albert Sarraut

Kết hôn với ông Ngô Đình Nhu năm 1943

Sống lưu vong từ năm 1963 sau khi có đảo chính ở miền Nam Việt Nam

Cuốn sách của bà Nhu thoạt ra dự tính sẽ phát hành vào tháng 9 năm nay, thế nhưng với cái chết đột ngột của bà thì chúng tôi phải tạm hoãn phát hành để truy cứu cho thật cẩn thận, không thể vội vàng được. Vậy cho nên cuốn sách chắc sẽ ra trễ hơn độ dăm ba tháng.

 

BBC: Lần đầu tiên ông yết kiến bà Trần Lệ Xuân thì ấn tượng của ông như thế nào ạ. Ông có ngỡ ngàng vì người thực khác xa với tưởng tượng không?

LS Trương Phú Thứ: Cái hình ảnh mà hồi xưa chúng ta hay xem trên báo chí là hình ảnh một phụ nữ 28-29 tuổi, trẻ và đẹp. Nhưng hình ảnh của bà Nhu khi tôi gặp bà lần đầu là hình ảnh một bà cụ, tất nhiên là có khác nhau. Tôi thì không ngỡ ngàng, vì biết ai cũng phải như thế, con người ta ai mà chẳng phải già đi. Tất nhiên vẻ đẹp bên ngoài thì không thể giống như hồi xưa.

 

BBC: Thế nhưng còn sự quyền uy của người phụ nữ từng được cho là một thời khuynh đảo chính trường, ông có cảm thấy điều này không ạ?

LS Trương Phú Thứ: Thực ra, bà Ngô Đình Nhu có quyền lực gì? Giống như một cô ca sỹ, hát một bài có người khen kẻ chê, thì bà Nhu cũng vậy.

Bà là vợ của một ông cố vấn, thậm chí còn không có sự bổ nhiệm chính thức của chính phủ. Vì ông cố vấn là em của ông tổng thống nên ông giúp ông tổng thống mà thôi chứ đâu có giấy tờ gì.

Nói vì bà Nhu khuynh đảo mà chế độ sụp đổ là điều sai lầm.

Quyết định lật đổ chính quyền Đệ nhất Cộng hòa và thủ tiêu anh em ông Tổng thống Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu, không phải là quyết định của người Việt Nam, mà là của người Hoa Kỳ. Đó là quyết định của một nhóm siêu quyền lực đứng sau tòa Bạch ốc của Hoa Kỳ, vì lợi ích của nước Mỹ mà họ làm vậy.

Ông Ngô Đình Diệm hay ai khác lúc đó làm tổng thống thì chắc đều chung số phận ấy cả.

Mà chúng ta thấy, ông Tổng thống J.F. Kennedy, chỉ có trì hoãn hoặc từ chối thi hành đòi hỏi của nhóm quyền lực đó mà cũng bị ám sát chết dưới con mắt chứng kiến của hàng nghìn người. Tổng thống Mỹ còn như vậy, huống hồ là tổng thống của nước Việt Nam?

 

BBC: Vâng nhưng thưa ông, chúng ta cũng không thể quên rằng bà Nhu được coi như Đệ nhất Phu nhân một thời vì ông Ngô Đình Diệm không lập gia đình, bà còn là dân biểu, Chủ tịch Hội phụ nữ. Và nhiều người cũng chưa quên những câu phát ngôn gây tranh cãi của bà, như trong chiến dịch đối với Phật giáo, vụ Hòa thượng Thích Quảng Đức vv...

LS Trương Phú Thứ: Tôi thì thấy rằng đa số vụ, người ta muốn nhắm vào ông tổng thống, nhưng không biết làm cách nào. Ông Tổng thống Ngô Đình Diệm không phải thánh nhân, tất nhiên ông cũng có sai lầm. Nhưng họ không bới móc tấn công được gì ông ấy, nên họ quay ra tấn công bà Ngô Đình Nhu.

Tuy nhiên, trong các cuộc nói chuyện của tôi với bà Nhu, chúng tôi không bao giờ nói chuyện chính trị cả, ngay cả những chuyện xảy ra với bản thân bà lúc đó. Chúng tôi nói những chuyện khác, những điều rồi sẽ nằm trong cuốn sách sẽ phát hành trong tương lai.

 

BBC: Cuốn sách của bà Trần Lệ Xuân, theo như ông nói là không bàn chuyện chính trị, chắc sẽ đề cập tới các chủ đề như cuộc sống, con người, về quan hệ xã hội vv..., có phải không ạ?

LS Trương Phú Thứ: Cuốn sách của bà Nhu nói về những chuyện cao hơn, xa hơn như thế nữa. Thí dụ các vấn đề tâm linh, sự hiện diện của con người, của Thượng đế...

Bà cũng nói về một vài vấn đề mà mọi người muốn biết, như chuyện gia đình, đời tư của bà từ khi còn nhỏ đi học ở Hà Nội, hay lớn lên đi lấy chồng ra sao. Tôi chắc là độc giả thì nhiều người tò mò, muốn biết những chuyện này.

Nhưng tựu chung, cuốn sách của bà Nhu sẽ nói về những chuyện cao hơn và xa hơn; và phải đợi đến khi nào sách ra thì độc giả mới có cơ hội đọc và chiêm nghiệm.

Nói về quá trình viết sách thì mấy năm qua, lúc hứng thú thì bà viết được nhiều, lúc không hứng thì có khi cả nửa tháng bà không viết chữ nào. Bản thảo đều chuyển cho tôi, và hiện tôi đang có trong tay đây. Cuốn sách hiện còn trong tình trạng dở dang, chừng độ 500 trang, nhưng phần cuối thì còn chưa hoàn tất.

Cả đời, bà chỉ biết có một mình ông Ngô Đình Nhu mà thôi. Trong suốt nửa thế kỷ qua, những người muốn công kích hay phỉ báng bà đã không tìm ra được bất cứ một điều gì về vấn đề tình cảm để mang ra công kích bà.

 

BBC: Dĩ nhiên sẽ có nhiều người tò mò muốn biết liệu khi còn khỏe, cuộc sống riêng tư của bà Trần Lệ Xuân như thế nào.

LS Trương Phú Thứ: Khi ông cố vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát, thì bà mới có chưa đầy 40 tuổi, cái tuổi có thể gọi là đẹp và mặn nồng nhất của người phụ nữ. Mà bà Nhu, như chúng ta thấy, cũng có sắc đẹp, sinh động, giỏi ngoại ngữ, nói tiếng Anh tiếng Pháp lưu loát, đại để là một người phụ nữ trên mức bình thường.

Cũng có nhiều người, kể cả chính trị gia, vì lúc đó bà Nhu hoạt động chính trường nên quen biết nhiều người lắm, cũng có lòng yêu mến kính trọng bà.

Tôi được biết có một ông kỹ nghệ gia, làm quản trị cho công ty chế tạo xe hơi Rolls Royce ở London, cũng đề nghị lập gia đình với bà Nhu, nhưng bà đã khước từ.

Cả đời, bà chỉ biết có một mình ông Ngô Đình Nhu mà thôi.

Trong suốt nửa thế kỷ qua, những người muốn công kích hay phỉ báng bà đã không tìm ra được bất cứ một điều gì về vấn đề tình cảm để mang ra công kích bà.

Bà Nhu sống thầm lặng, một mình, một cách rất đạo đức, kín đáo và đơn sơ.

 

BBC: Nói chuyện tới giờ, thì có thể thấy luật sư rất có cảm tình với bà Trần Lệ Xuân?

LS Trương Phú Thứ: Đúng thế, tôi rất có cảm tình với bà. Nói đúng ra, tôi kính phục bà.

Bà Nhu là một phụ nữ thông minh, rất thông minh. Bà giỏi, dám nói dám làm.

Nhưng có một điều mọi người nên biết, trong những ngày tháng sau này của bà thì tôi thấy bà Nhu có một đức tính mà ít người có: đó là sự tha thứ.

Bà tha thứ tất cả, cả những người cầm súng bắn vào đầu chồng bà, cả những người đi bày đặt nói xấu bà trên báo chí, trong dư luận... Bà ấy từng nói là nếu có những việc như vậy, thì bà ấy tha thứ hết, không có oán hận chuyện gì.

Đó là sự vị tha, hiếm có trong cuộc đời con người ta, vốn có yêu có ghét, có hận thù. Dường như bà Nhu đã đi xa được hơn những tình cảm bình thường đó.

 

BBC: Tài giỏi vậy, nhưng bà Trần Lệ Xuân cũng là một người khá cô độc phải không ạ?

LS Trương Phú Thứ: Không phải "khá cô độc" mà là "quá cô độc" thì có. Từ khi chồng chết, phải lưu vong ở ngoại quốc thì bà ấy không còn liên lạc với ai nữa.

Bà chỉ sống ở nhà với mấy đứa con. Theo đạo nên bà đi lễ hàng ngày, nhưng cũng chỉ đến chào hỏi cha cố, rồi các tín đồ ở đó. Bạn bè không có nhiều.

Tôi nhớ bà có một vài người bạn Nhật Bản vì khi nói chuyện với tôi, bà mặc bộ đồ kimono Nhật. Bà ấy nói với tôi rằng đó là do người bạn Nhật gửi tặng, mỗi năm vài cái để bà mặc trong nhà. Thì tôi nghĩ chắc bà ấy còn liên lạc với một số ít bạn thân thiết, ngoài ra chẳng có ai đâu.

Con cái của bà thì họ lớn lên ở ngoại quốc (ông bà Ngô Đình Nhu có bốn con, hai trai là Ngô Đình Trác và Ngô Đình Quỳnh, hai gái là Ngô Đình Lệ Thủy - tử nạn giao thông năm 1968; và Ngô Đình Lệ Quyên). Họ có những suy tư và lối hấp thụ văn hóa khác, tuy họ đều yêu thương và kính trọng mẹ.

Vậy nên tôi cũng không nghĩ họ có thể chia sẻ với bà về những suy tư hay thăng trầm của cuộc đời bà. Nhất là những chuyện quá khứ, thì khi đi khỏi Việt Nam họ còn rất nhỏ nên tôi cũng không nghĩ họ biết để mà nhắc tới.

Bà Nhu cũng là người rất độc lập, ngay cả về vật chất bà không nhờ vả gì con cái.

Những năm 63-65, gia đình bà ấy khá túng thiếu, cho tới tận sau này, có một ân nhân ẩn danh cho bà một số tiền rất lớn và bà mua được hai căn apartment ở bên Paris, quận16 gần trung tâm. +Bà Nhu ở một cái, một cái cho mướn để lấy tiền sinh sống.

 

BBC: Cơ duyên nào mà ông lại có điều kiện tiếp xúc và cộng tác với bà Trần Lệ Xuân trong khuôn khổ cuốn sách của bà ạ?

LS Trương Phú Thứ: Gia đình tôi biết gia đình của bà Nhu từ khi tôi còn bé, ở Việt Nam. Hồi ông bà ở Dinh Độc Lập thì tôi mới mười mấy tuổi đầu, nhưng bà vẫn còn nhớ.

Tôi rời Việt Nam năm 1975. Sau này ra ngoại quốc tôi liên lạc lại, bà ấy mời tôi qua chơi. Tôi cũng may mắn được bà Nhu quý mến và cho phép dịch cuốn sách của bà.

 

BÀ NGÔ ĐÌNH NHU NĂM MƯƠI NĂM CÔ ĐƠN

Tin từ Ngô Đình Trác báo cho ông bạn tôi, Luật sư Trương Phú Thứ, hay rằng Bà quả phụ Ngô Đình Nhu, nhũ danh Maria Trần Lệ Xuân, đã về Nước Chúa lúc 2 giờ sáng ngày lễ Phục Sinh, 24/4/2011, hưởng thọ 87 tuổi.

Tôi viết bài này gửi các thân hữu, bạn bè, và những người mà tôi biết chắc vẫn còn ái mộ, quý mến –hoặc ít ra không thù ghét– Bà Ngô Đình Nhu, chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, và Tổng thống Ngô Đình Diệm. Không như những phản tướng 1963, tôi chưa hề gặp mặt Bà Nhu, chưa hề nhận ân sủng nào của Bà hay của chế độ, ngoài một trăm đồng Bà tặng Hội JECU năm xưa, được Ngô Đình Lệ Thủy trao cho tôi.

Bà Ngô Đình Nhu là người nổi tiếng thuộc dòng họ Ngô Đình và người liên hệ trực tiếp với chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa duy nhất còn sống sót vừa ra đi. Dù thương hay ghét Bà, ai cũng phải công nhận Bà là một nữ lưu thông minh, có tài có sắc, một cộng sự viên đắc lực, quả cảm của chồng và anh chồng. Qua hai nền Cộng Hòa, chưa có một phụ nữ tầm cỡ public figure (người của quần chúng) Việt Nam nào làm tôi thấy cảm phục và hãnh diện như Bà Ngô Đình Nhu. Cho dù, dĩ nhiên, Bà chưa hoàn hảo, cũng như bất cứ ai trên đời. Trước và sau vụ đảo chánh 1963, Bà là mục tiêu tấn công của những nhà báo và chính khách Việt Nam và ngoại quốc, nhất là Mỹ, chưa nói Cộng sản đội lốt tôn giáo, đối lập, “cách mạng”, đã không ngần ngại vu khống, xuyên tạc, đổ lỗi, thêu dệt đủ điều, kể cả về đời tư của Bà. Đọc tất cả những tài liệu đã được giải mật, và những sách báo cũ, và những sách báo mới trên các Diễn Đàn Hải Ngoại –những diễn đàn của Đui Chột, của Thù Hận, của Ác Độc– tôi thấy bất nhẫn và buồn nôn trước sự hèn hạ, nhỏ nhen của con người, vì dù sao Bà cũng chỉ là một phụ nữ. Bọn họ, kể cả Mỹ và Tây Phương, không mã thượng, anh hùng đủ, than ôi, để đánh Bà bằng một cành hoa hồng, nhưng đã dùng mọi thứ dao búa. Họ dã man, trên phương diện tinh thần, không khác chi một Gia Long đã hành hình, về thể xác, nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái 16 tuổi bằng cách cho voi dày.

Bà là hiện thân và nạn nhân của Bất Hạnh như một nữ nhân vật chính tuyệt đẹp trong những vở bi kịch Hy Lạp. Nhưng khác với họ luôn vùng lên, phản kháng, chất vấn Thượng Đế, Bà đã im lặng, chấp nhận mệnh số nghiệt ngã, và âm thầm chịu đựng tất cả những oan khiên, bất công, suốt một nửa thế kỷ.

Một điểm nữa, ngời sáng, về con người của Bà, mà tôi tin rằng đến cả kẻ thù cũng không thể phủ nhận. Khi chồng bị thảm sát, Bà còn trẻ đẹp lắm –điều mà báo chí Mỹ thiên vị và ác độc cũng phải ca ngợi. Nhưng Bà ở vậy, thờ chồng, nuôi đàn con còn vị thành niên, không có của chìm của nổi, không lầu son gác tía, nhờ tham nhũng hoặc ăn cắp của công. Nếu phạm vào hai điều cấm kỵ này, chắc chắn báo chí và công luận Mỹ và Việt Nam, vốn hiềm khích, đã không bao giờ để Bà yên. Bà sống khép kín như một nữ tu tại gia. Không xuất hiện trước đám đông. Không cho nhân gian thấy tóc đổi màu, những dấu chân chim in trên đuôi mắt và những tàn phai bởi thời gian, theo gương những mỹ nhân tự thuở xưa. Không tuyên bố này nọ. "Thời của tôi qua rồi", bà thường nói với người những quen biết, như một lời giã biệt thế gian. Không mang tiếng, không bồ bịch, không bước thêm bước nữa. Không vì tiền bán thân cho tỷ phú. Nếu sống vào thời quân chủ, Bà xứng đáng nhận lãnh bằng khen "Tiết Hạnh Khả Phong".

Bấy nhiêu thôi cũng đủ làm tôi yêu mến Bà như một người mẹ (bà kém mẹ tôi hai tuồi). Ca ngợi Bà như một nữ chính khách một thời sáng giá, đảm lược, dám nói dám làm, như chồng bà, trước vòng vây khốn của thù trong giặc ngoài. Kính trọng Bà như một thần tượng. Làm sao tôi không xúc động khi nghe tin Bà đã bước vào một cuộc hành trình cuối cùng, ngày Chúa chết trên cây thập giá và sống lại, để từ nay vĩnh viễn thuộc về của Tuổi, nói theo Edwin Stanton, belongs to the Ages.

Nhà danh họa thuộc phái ấn tượng Auguste Renoir của những tuyệt phẩm chan hòa ánh sáng và màu sắc, những năm cuối đời, bị bệnh tê thấp hành hạ, không đứng được nữa, phải ngồi vẽ tranh một cách đau đớn với bàn tay co quắp, nhức buốt. Người học trò của ông, danh họa Matisse, thấy vậy, thương ông, đã hỏi: “Tại sao Thầy phải tiếp tục ngồi vẽ một cách khổ sở như thế?” Renoir nhìn khung vẽ, trả lời: “Đau đớn sẽ qua đi. Cái đẹp sẽ còn lại.”

Tôi muốn nhắc lời của Renoir, để nói về Bà, trong một nghĩa nào. Đau đớn tinh thần của Bà Ngô Đình Nhu sẽ qua đi. Cũng như đau đớn thân xác của nữ tướng Trần Lệ Xuân. Nhưng vẻ đẹp của Bà sẽ tồn tại. Vĩnh viễn.

Tôi biết những kẻ chống và ghét Bà sẽ khó chịu vì bài viết của tôi. Không sao. Đời mà. Tuy nhiên, xin những kẻ ấy xử sự cao thượng một chút, như một con người. Hãy để Bà yên nghỉ, ít nhất trong thời gian này. Chờ sau ba tháng, một năm, mười năm nữa, rồi hãy chìa ra nanh vuốt, cũng chưa muộn.

Tôi muốn báo tin cho các thân hữu của tôi và xin họ đọc một kinh, cầu nguyện cho linh hồn Bà mau về Cõi Vĩnh Hằng, và tìm được Bình An đích thực. Sau năm mươi năm cô đơn.

Kim Thanh

Ngày Chúa sống lại 24/4/2011