Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

“Bên thắng cuộc” viết cho ai? Ai cần đọc?

"Giá như không phải là ý thức hệ mà tự do và hạnh phúc của nhân dân mới là nền tảng hình thành chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, thì người dân đã tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, tránh được Nhân văn – Giai phẩm, tránh được biết bao binh đao xung đột trong nội bộ dân tộc, gia đình.” - Bên Thắng Cuộc - Huy Đức.

Phải nói sau khi đọc xong cuốn 2 của “Bên thắng cuộc”, có tựa đề “Quyền bính”, tôi như vừa tận hưởng “bữa tiệc” thông tin rất ấn tượng. Mà từ trước tới nay chưa được tham dự bao giờ.
Có một số ý kiến cho rằng, tác giả Huy Đức chỉ bày biện các sự kiện theo kết cấu có chủ ý một cách thật tự nhiên mà không bình luận gì nhiều… nên tác phẩm thiếu đi tính “hàn lâm”. Nhưng theo tôi, ở 2 cuốn sách này, Huy Đức đã đạt tới một thủ pháp rất cao trong cách thể hiện của một nhà báo có tầm nhìn theo phương pháp làm báo hiện đại. Đó là sự tôn trọng độc giả, tránh sự áp đặt chủ kiến của tác giả lên hiện thực khách quan của lịch sử. Khiến độc giả thay vì thụ động tiếp nhận thông tin, lại có thể chủ động tham gia vào từng sự kiện. Để tiếp nhận nó một cách chủ động, tùy theo trình độ, khả năng và cảm thụ riêng biệt của mỗi người.
Lại có ý kiến nhận xét, tác giả Huy Đức giành nhiều thiện cảm với các ông Võ Văn Kiệt và các cộng sự đắc lực của ông. Song nếu tinh ý, ta sẽ thấy, tác giả không hề né tránh khi đề cập tới trách nhiệm của ông Võ Văn Kiệt trong việc ký 2 nghị định gây nhiều hệ luỵ về mở rộng hoạt động của Tổng cục II (96/CP) và nghị định quản chế tại gia những người bất đồng chính kiến (31/CP).
Cố TT Võ Văn Kiệt trên công trường xây dựng trạm biến thế 500kv Pleiku ngày 3-11-1993 - Ảnh: Nguyễn công thành
Cố TT Võ Văn Kiệt trên công trường xây dựng trạm biến thế 500kv Pleiku ngày 3-11-1993 – Ảnh: Nguyễn công thành
Nhược điểm nữa rất cơ bản ở ông Kiệt là không những chỉ mải lo về chính sách phát triển kinh tế mà xem nhẹ công tác nhân sự (để cho Trần Đình Hoan tác oai tác quái). Với cương vị thủ tướng ông đã buông lơi cả về quốc phòng, an ninh và ngoại giao cho Lê Đức Anh thoả sức tung hoành. Rồi cả những lem nhem trong chuyện “quan hệ bất chính” (quan hệ ngoài hôn nhân) của Võ Văn Kiệt với bà Hồ Thị Minh (người dự kiến sẽ “giúp việc” cho cụ Hồ) ở chiến khu Việt Bắc. Người con ngoài giá thú Phan Thành Nam (với bà Minh) cũng được Huy Đức đưa vào tác phẩm khá chi tiết, khi mà tất cả các tài liệu chính thống đều né tránh.
Một người nữa, được cho là Huy Đức ưu ái, đó là vị Đại tướng Tổng tư lệnh – Bí thư Quân uỷ (một thời) – Võ Nguyên Giáp. Song cứ đọc những dòng sau đây, ta sẽ thấy tác giả đã rất khách quan đối với nhân vật lịch sử này:
Hình minh hoạ tướng Giáp trên bìa tạp chí Time, ngày 15/5/1972
Hình minh hoạ tướng Giáp trên bìa tạp chí Time, ngày 15/5/1972
“Mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông.”
Không chỉ có Điện Biên Phủ, trong cuộc chiến ở miền Nam trước 30.04.1975, cho dù cả 2 ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ o ép tướng Giáp một cách quyết liệt bằng việc cho bắt tất cả những cộng sự thân tín của ông Giáp trong cái gọi là “Vụ án xét lại chống đảng”. Nhưng vai trò của tướng Giáp trên cương vị Bộ trưởng Quốc phòng và Bí thư Tổng Quân uỷ TW trong Tổng hành dinh chỉ đạo bộ máy chiến tranh của Hà Nội là không ai có thể thay thế được. Vậy mà uy tín và sinh mạng của tướng Giáp dưới cái nhìn của TBT Lê Duẩn và Trưởng Ban Tổ chức TW Lê Đức Thọ thật rẻ rúng:
Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”.
(trích chương 15: tướng Giáp – Cuốn 2: Quyền bính)
Cho nên trong thời điểm tướng Giáp được giao nhiệm vụ phụ trách UB Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, ngoài dân gian đã lưu truyền vế câu đối: “Ba mươi năm chiến tranh tướng Võ không còn Nguyên mảnh Giáp” là vậy! Bởi, khi “thanh gươm trận” sắc bén của ông đã không thể bảo vệ được các chiến hữu và cả bản thân mình, hào quang của vị “Anh Cả Quân Đội” thật sự chỉ như thứ “nắng quái chiều hôm” trong mắt những kẻ nắm “Quyền bính” thật sự. Nếu tướng Giáp không “hèn” trước song Lê (Lê Duẩn, Lê Đức Thọ), chắc chắn số phận của ông sẽ đoản mệnh như hai vị tướng lừng danh nơi trận mạc (Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn) chí cốt của ông (?)
quyền bínhĐóng góp rất đáng ghi nhận của Bên thắng cuộc (BTC) là đã trả lại một phần quan trọng sự thật của lịch sử hiện đại của Việt Nam (nhất là sau 30.04.1975) như vốn dĩ nó có. Chứ không phải bằng sự thêu dệt nhằm mục đích tuyên truyền của bất kỳ phe nhóm nào. Bởi vậy, sau khi đọc xong BTC, ta càng thấy không lạ những cây viết qúa gượng gạo (theo đơn đặt hàng) khi cho rằng tác phẩm của Huy Đức là “thiên kiến”; “thiên lệch”; “bóp méo”; “nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu”; là “chém gió”. Có ý kiến của quan chức còn lấp lửng răn đe “sẽ xem xét BTC dưới góc độ của Nghị định 97/CP”.
Đối với những người chưa hề (chưa thèm) đọc tác phẩm mà đã hô hào và tích cực chống cuốn sách, thật chả đáng để chúng ta bận tâm nhiều.
Có vài chi tiết vụn vặt ở phía các tướng lãnh của VNCH như tướng Lê Văn Hưng (chuẩn tướng  – Phó tư lệnh Quân Đoàn IV) dùng súng bắn vào ngực (tim) hay bắn vào đầu? hiện vẫn chưa chính xác. Đặc biệt cách dùng từ “tuẫn tiết” (như Huy Đức dùng) hay “tự tử” (vì sợ bị trừng trị của một số ý kiến phò bên thắng cuộc) cũng có gây tranh cãi. Mặc dù vậy, những cái chết can đảm, trọng danh dự của các tướng VNCH (dù bằng sung hay bằng thuốc độc) trong và sau thời điểm 30.4.1975 như tướng Nguyễn Khoa Nam; Lê Văn Hưng; Trần Văn Hai; Phạm Văn Phú; Lê Nguyên Vỹ… cũng đáng để cho những ai yêu hoà bình, hoà hợp và hoà giải dân tộc suy ngẫm. Bởi không chỉ sự thật mà cả tình thương yêu giống nòi mới có thể là phương thuốc qúi nhằm “chữa lành các vết thương cũ”. Chứ hận thù và cố chấp sẽ chả bao giờ lấp được cái “hố ngăn cách” vốn đã qúa sâu giữa những cựu thù.
130128150319_le_duan_464x261_leduan_nocreditNgoài thái độ ngạo mạn của cặp bài trùng Lê Duẩn – Lê Đức Thọ, bỏ ngoài tai lời khuyên can hợp lý của tướng Giáp trong đợt Mậu Thân 1968, dẫn tới sự tổn thất nặng nề cả quân và dân trên toàn miền Nam. Nhờ phần phụ lục của cuốn 2 (Quyền bính) của BTC mà ta mới thấy rõ hơn chân tướng nhà độc tài hiếu chiến Lê Đức Thọ đã cư xử vô lối tới mức nào với trận chiến khốc liệt ở Quảng Trị: “Theo tướng Lê Phi Long, trong thời gian diễn ra Chiến dịch Quảng Trị: “Ông Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc! Chúng tôi, cơ quan tham mưu, không đồng tình với cách làm này nhưng không biết than thở với ai, hình như anh Văn cũng cảm nhận được điều đó…”. Chính sự chớ trêu này mà: “Thành cổ Quảng Trị thất thủ khi quân miền Bắc đã gần như hoàn toàn kiệt sức. Theo tướng Lê Phi Long: “Lực lượng chiếm giữ Thành Cổ khi đó nói là có mấy tiểu đoàn nhưng trên thực tế chỉ còn phiên hiệu, mỗi tiểu đoàn chỉ còn ba bốn chục người. Việc bổ sung quân số tiếp tế qua sông hết sức khó khăn. Nhiều sinh viên đã phải rời giảng đường để nhập ngũ. Nhiều tân binh chưa gặp mặt người chỉ huy đã ngã xuống. Nhiều cán bộ chỉ huy ngày đêm vất vả, râu tóc mọc kín mặt mà không có thời gian cắt cạo. Trong hầm phẫu ở ngay dinh Tỉnh Trưởng cũ thường xuyên có trên dưới 200 thương binh, sặc mùi hôi thối. Các lực lượng trong Thành Cổ thì chiến đấu một cách tuyệt vọng, còn các đơn vị ở các hướng khác, tuy có cố gắng đánh vào cạnh sườn để hỗ trợ cho lực lượng ở trong Thành nhưng cũng không tạo được hiệu quả. Chiến dịch Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau lòng. Ta đã tung hết lực lượng, đã kiệt quệ. Có lúc tôi đã phải điều học viên trường Lục Quân về gần thủ đô lập một lữ đoàn để bảo vệ Trung ương, vì hết cả quân”.
imagesVậy mà những màn vừa diễn ra về cái gọi là “kỷ niệm 40 năm ngày ký kết Hiệp định Paris thắng lợi” của hệ thống tuyên truyền lề đảng ầm ĩ suốt cả tuần qua vẫn cho rằng Lê Đức Thọ là nhà chính trị, nhà ngoại giao và nhà quân sự bậc kỳ tài. Trong khi bất chấp lời khuyên của Tổng hành dinh (của tướng Giáp), cùng với Lê Duẩn nhắm mắt ném quân vào “cối xay thịt” – Thành cổ Quảng trị nghiền nát 1 đại đội/ngày (81 ngày=81 đại đội) mà kết quả của hòa đàm cũng chỉ là những điều khoản do phía Mỹ đưa ra từ thời gian trước đó. Để minh định cho sự thật này, tác giả Pierre Asselin từ Hononulu gửi cho BBC ngày hôm qua (28.01) đã chỉ ra rằng:
Chiến thắng của Hà Nội là một chiến thắng trả bằng cái giá đắt, không phải là một chiến thắng vẹn toàn mà những lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặc biệt là Lê Duẩn, đã mường tượng khi cuộc chiến bắt đầu.”
Ở một đoạn khác Asselin phân tích:
“Hà Nội đánh giá thấp quyết tâm bảo vệ lợi ích của Tòa Bạch Ốc ở Việt Nam. Đợt đánh bom Giáng sinh ở Hà Nội và Hải Phòng gây chấn động tâm lý‎ cho Hà Nội, chưa kể thiệt hại vật chất. Vài ngày sau khi Hà Nội cam kết trở lại bàn thương lượng và Nixon tạm dừng đánh bom, hội đàm mở lại ở Paris.
Sự thực tế của Hà Nội, việc họ muốn kết thúc đàm phán, chấm dứt chạm súng, thể hiện rõ qua sự sẵn lòng có những nhượng bộ mới, nhất là ngôn ngữ về tình trạng khu phi quân sự sau khi ngừng bắn. Nếu Hà Nội đã có những nhượng bộ này ngay từ đầu tháng 12, cuộc đánh bom Giáng sinh đã tránh được.”
Có một điều thú vị nữa mà những ai chưa được đọc “Hoa xuyên tuyết” của tác giả Bùi Tín thì chưa hiểu được sự trắc ẩn trong con người cố TBT Nguyễn Văn Linh. Một người mà có thời được cho là linh hồn của công cuộc “đổi mới” và “cởi trói” sinh hoạt văn nghệ ở Việt Nam từ Đại hội VI (1986). Sau khi đọc xong cuốn 2 (Quyền bính), với những giữ kiện khá đầy đủ, ta mới thấy đây chính là con người ít học, bảo thủ, định kiến và thù vặt nhỏ nhen với tầm nhìn vô cùng thiển cận. Cho dù đời tư khá thanh bạch chính liêm. Nguyễn Văn Linh và những nhân vật bảo thủ giáo điều như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng… đã bóp chết tư tưởng dân chủ đa nguyên xuất hiện ở xứ ta hồi cuối thập niên 80s ngay từ trong trứng nước.
Vợ chồng cố TBT Nguyễn Văn linh - Hồ Thị Huệ thời trẻ.
Vợ chồng cố TBT Nguyễn Văn linh – Hồ Thị Huệ thời trẻ.
Công cuộc “đổi mới” với những bài báo ký tên NVL dưới thời ông Linh trị vì thực chất chỉ nhằm nâng cao vị thế của Tổng bí thư (vốn “cách nhau chỉ bằng sợi tóc” như chính lời ông Linh nói lúc nhậm chức). Để rồi sau đó quay lại hoàn toàn với giáo điều “ý thức hệ” một cách tai hại và phải chui vào vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh mà cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gọi là “Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 5 bắt đầu”. Đó là về chính trị. Còn lĩnh vực kinh tế, với tư duy giáo điều về con đường đi lên CNXH, thành phần kinh tế nhà nước vẫn cứ nắm vai trò “chủ đạo” cho dù làm ăn thua lỗ, thất thoát do không tự bơi được trong cơ chế thị trường tự do. Luôn cần “phao bơi” chả khác thời bao cấp. Cái gọi là “đổi mới” thực ra chỉ là giải pháp tình thế khi bầu sữa “viện trợ của Liên Xô” không còn. Nhiều nơi trong nước thiếu đói tới mức có người đàn ông phải cắt bắp chân của mình để nấu cháo cứu đói cho các con. Những cảnh rùng rợn như trong “Cái đêm hôm ấy đêm gì” (Phùng Gia Lộc), chỉ khi được phanh phui, người dân mới được đảng và nhà nước “đổi mới tư duy” cho bung ra làm ăn tự do để khỏi chết đói.
Khi có chút của ăn của để nhờ mở ra đa thành phần về kinh tế mang lại thì giới bảo thủ lại sợ “chệch hướng”, lại thít. Nhất là việc đưa vào Bản sửa đổi Hiến pháp 1992 điều 4 (giống điều 6 của thây ma hiến pháp Liên bang Xô Viết) về sự lãnh đạo độc tôn của ĐCS. Đặc biệt vẫn qui định đất đai thuộc “Sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý”. Như thế cái gọi là “đổi mới” theo “cơ chế thị trường định hướng XHCN” thực ra chỉ là trò bịp để cho những kẻ nắm quyền bính đè đầu cưỡi cổ hòng “ăn trên ngồi trốc” và “vinh thân phì gia” trên xương máu và mồ hôi nước mắt của muôn dân.
Như một qui luật tất yếu “cùng tắc biến”, những bế tắc về kinh tế hiện nay, biết đâu lại là cơ may cho sự thay đổi toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị. Đồng hành với những đóng góp rất trách nhiệm của hàng ngàn trí thức và nhân sỹ tiến bộ vào Bản dự thảo hiển pháp sửa đổi đang trong giai đoạn lấy ý kiến đóng góp của toàn dân, cuốn sách BTC của Huy Đức do tác giả tự phát hành vào dịp này thật rất kịp thời. Nó không chỉ dừng lại ở việc công bố sự thật để giúp chúng ta tìm ra phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà còn giúp những người đang nắm vận mệnh quốc gia không phạm các sai lầm mới” như tác giả bộc bạch ở chương cuối (chương 22 – Cuốn 2: Quyền bính) với đoạn kết sau đây:
Nhớ khi “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, Việt Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia kiệt quệ, dân chúng lầm than, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi. Nhớ khi trả lại ruộng đất và một số quyền căn bản cho dân thì đất nước hồi sinh, đời sống người dân bắt đầu cải thiện. Bản chất của đổi mới là từ chỗ Đảng và Nhà nước cấm đoán, tập trung tất mọi quyền hành, đến chỗ để cho dân quyền được tự lo lấy cơm ăn, áo mặc. 
images770206_16Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”(629). Không thể phủ nhận tầm nhìn của Hồ Chí Minh. Khi ông đưa ra tuyên bố này loài người chưa có Internet, thế giới chưa có toàn cầu hoá, độc lập dân tộc đối với người dân ở nhiều quốc gia vẫn được coi là vô cùng thiêng liêng. 
Giá như không phải là ý thức hệ mà tự do và hạnh phúc của nhân dân mới là nền tảng hình thành chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, thì người dân đã tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, tránh được Nhân văn – Giai phẩm, tránh được biết bao binh đao xung đột trong nội bộ dân tộc, gia đình.”
Thiết nghĩ, đó là tất cả tâm lành của một nhà báo dấn thân, không còn muốn “trú ngụ trong sự sợ hãi” luôn trăn trở và lao động miệt mài hàng chục năm dòng mới có được. Vậy “công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước…” (như ý kiến của giáo sư Chu Hảo – NXB Tri thức, Hà Nội) đã viết cho ai? Và ai cần đọc Bên thắng cuộc nhất?
Xin nhường lại cho người có trách nhiệm cao nhất của chế độ, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các ông trong Ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (nếu qúi vị thật lòng muốn dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh… ) trả nhời giùm!

Nhà giàu cũng trở thành dân oan


Hậu quả của việc quản lý xã hội yếu kém, các doanh nghiệp coi luật pháp là trò hề, lừa đảo và chụp giựt cũng giám làm, coi thường mọi chuẩn mực về đạo đức kinh doanh, văn hoá kinh doanh...những biểu hiện của một xã hội bát nháo, phi chính phủ.

Cư dân Hà nội biểu tình bằng xe hơi !

Từ hôm qua, các cư dân tại khu nhà thuộc công ty Hà Việt - Tung sing làm chủ đầu tư bắt đầu biểu tình bằng ...xe hơi.

Họ dán biểu ngữ lên xe, xêp xe kín lối đi vào khu nhà, phản đối việc chủ nhà tự ý nâng giá giữ, trông xe trong tầng hầm - hầm của ngôi nhà họ đã mua.







Nhà giàu cũng trở thành dân oan, hậu quả của một lề lối quản lý xã hội kiểu phi chính phủ.

 Cũng hôm qua, cư dân mua nhà của Vincom cũng biểu tình phản đối VIncom lừa dối khách hàng mua nhà, hợp đồng chào bán một đàng, họ xây dựng một nẻo. Ăn bớt chất lượng, khối lượng để giảm giá đầu tư công trình, coi khách hàng là con bò sữa của họ :




 Biểu tình phản đối trò làm ăn gian lận tại trụ sở của VINCOM tại Long Biên.

Hậu quả của việc quản lý xã hội yếu kém, các doanh nghiệp coi luật pháp là trò hề, lừa đảo và chụp giựt cũng giám làm, coi thường mọi chuẩn mực về đạo đức kinh doanh, văn hoá kinh doanh...những biểu hiện của một xã hội bát nháo, phi chính phủ.

 Dân chúng bị nhồi sọ ngu lâu nên không biết quyền của mình, chỉ đến khi quyền lợi sát sườn của mình bị xam phạm thì mới mở miệng, còn lại quyền lợi của Quốc gia Dân tộc như : lãnh hải, biên giới, tham nhũng mọt ruỗng Đất nước thì đa số dân chúng coi đó không phải là việc của mình, " đó là việc của đảng và nhà nước lo". 

Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

Sử gia Dương Trung Quốc: "Không tuyệt đối hóa Bên Thắng Cuộc"


Quốc Phương
BBC Việt ngữ

Sử gia Dương Trung Quốc đánh giá cao cuốn sách “Bên Thắng Cuộc” của tác giả Huy Đức, nhưng nói ‘không nên tuyệt đối hóa sự thật’ trong sách và cho rằng thông tin trong tác phẩm có thể ‘mới với số đông’ nhưng không hẳn ‘mới’ với giới sử học trong nước.
Trao đổi với BBC Việt ngữ hạ tuần tháng 01/2013, Tổng thư Ký hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho hay ông “không ngạc nhiên” về hiệu ứng của cuốn sách.

Ông nói: “Trước hết, tôi không lấy làm ngạc nhiên về hiệu ứng của cuốn sách trước đông đảo công chúng, không chỉ vì anh sử dụng công cụ hết sức lợi hại là xuất bản trên mạng, khiến cho rất nhiều người có thể tiếp cận rất nhanh.”
Ông Quốc cho rằng cuốn sách ‘hấp dẫn’ khi khắc phục được một nhược điểm của sử học chính thống ở trong nước vốn “vô nhân xưng,” khi để xuất hiện trong tác phẩm điều sử gia gọi là “bóng dáng con người:”
Ông nói: “Cách viết của anh đã khắc phục được một trong những nhược điểm của các công trình sử học, nhất là ở trong nước Việt Nam, là nó có bóng dáng con người.
“Sử học chính thống Việt Nam thường tiếp cận nguyên lý nhiều hơn, đề cập những nguyên lý lớn, những quy luật, nhiều hơn là nói tới số phận, thân phận và ‘cái con người’ mà chúng tôi hay thường gọi là vô nhân xưng.”
Tuy vậy, sử gia nhận xét rằng cách làm này, về mặt thủ pháp, chưa hẳn là mới. Ông nói:
“Đấy là một cái gây hấp dẫn về phương pháp, cách làm này, tôi nghĩ không phải thật mới với thiên hạ. 
“Ở Việt Nam, tôi nhớ đến Đặng Phong cũng là người khai thác phươngpháp này, trên cơ sở sử dụng rất nhiều nguồn tư liệu khác nhau, trong đó có nguồn tư liệu sống. Nhưng anh chủ yếu đề cập lịch sử kinh tế, như thế nó ít va chạm vấn đề tế nhị hay nhạy cảm như ở Việt Nam hay nói.”
‘Sử hay báo chí?’
Ông Quốc, người cũng là Chủ biên của Tạp chí lịch sử “Xưa và nay,” cho rằng ‘Bên Thắng Cuộc’ tuy có nhiều ‘tư liệu,’ vẫn thiên về ‘báo chí’ nhiều hơn là ‘sử học,’ và dẫn ra một quan niệm để phân biệt.
Ông nói: “Rõ ràng đối với anh Huy Đức, anh ấy đã biết khai thác (thế mạnh) của một cây bút nhà báo. Chúng tôi cũng biết, có một quan điểm cho rằng lịch sử đương đại, lịch sử vẫn còn tác động vào những người, nhân chứng còn sống, hoặc là hậu duệ của họ, hoặc là những hệ lụy xã hội còn tồn tại, thì thường thuộc về báo chí chứ không phải là các nhà sử học kinh điển. Vì thế tôi nghĩ đây là thế mạnh của anh Huy Đức thể hiện trong cuốn sách của mình.”
Sử gia cho rằng cuốn ‘Bên Thắng Cuộc’ không chỉ khắc phục hạn chế “ngại,” “né tránh” các chủ đề “phức tạp,” động chạm “nhạy cảm” của sử học trong nước, hay động chạm tới một diện rộng đối tượng và nhiều lĩnh vực, chủ đề, mà còn “đáp ứng được một nhu cầu” khi đề cập tới những vấn đề của lịch sử “chưa xa lắm.”
Ông nói: “Những vấn đề mà anh nêu lên thực ra động chạm tới rất nhiều con người, thậm chí hàng triệu con người, nhưng dòng sử học chính thống Việt Nam thường né tránh, ít đề cập, hoặc vì nhạy cảm, hoặc không muốn, hoặc phức tạp v.v...
“Cho nên, đó cũng là một hạn chế của dòng sử học chính thống, vì thế nên khi anh đáp ứng được một nhu cầu, đề cập tới những vấn đề lịch sử chưa xa lắm, tác động tới rất nhiều con người, nhiều gia đình... thì phải nói đây là cái mảng không phải là tò mò nữa mà người ta cảm thấy hết sức thiết thực, vì họ có thể nhìn thấy bóng dáng của mình ở trong tất cả những biến cố, những sự kiện ấy.”
‘Hiệu ứng quan trọng’
Ông Quốc nhận xét ‘Bên Thắng Cuộc’ đã “phần nào giữ được khách quan” với tác giả cố gắng “gửi gắm thiện chí” vào cuốn sách, song quan sát các phản ứng đa chiều, ông cho rằng việc cuốn sách “chia sẻ sự thông cảm được tất cả” là rất khó.
Đặc biệt, sử gia nhận xét “hiệu ứng quan trọng nhất” của cuốn sách nằm ở chỗ đã “đánh thức” mọi người, trong đó có giới sử gia chuyên nghiệp và các nhà lãnh đạo về “sự thật” và cung cách ứng xử với nó.
Ông nói: “Hiệu ứng quan trọng nhất đối với chúng tôi khi đọc cái này, nhất là những người làm nghề như chúng tôi là lịch sử là một hiện thực không thể che đậy được.”
Nhân dịp này, ông nêu quan điểm về lịch sử và nói: “Nó (lịch sử) có thể bị quên lãng lúc này, hoặc bị ít quan tâm đến, nhưng chắc chắn nó vẫn tồn tại trong ký ức, trong trải nghiệm của rất nhiều con người. Và nếu chúng ta không có một ý thức dám nhìn thẳng vào sự thật, để nhìn nhận nó trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó, phân tích để rút ra những bài học, bài học tốt, bài học không tốt, bài học xấu, thì chúng ta luôn luôn có nợ với lịch sử.”
Trở lại với ‘Bên Thắng Cuộc’, sử gia nói: “Nó cũng đánh thức những người có trách nhiệm nên nhìn vào những vấn đề rất phức tạp, rất phong phú của lịch sử Việt Nam hiện đại, trải qua thời gian không dài, nhưng còn bề bộn những công việc mà chưa được nhìn nhận một cách thấu đáo.”
“Cuốn sách của anh Huy Đức là một điều nhắc nhở là làm sao cho chúng ta dám giữ được một quan điểm dũng cảm là nhìn thẳng vào sự thật và nếu mục tiêu chúng ta mong muốn là những điều tốt đẹp thì chỉ bao giờ giải quyết được, hóa giải quá khứ, thì chúng ta mới có thể hướng tới một mục tiêu tốt đẹp như chúng ta mong muốn được mà thôi.”
‘Sự thực lịch sử?’
Khi được hỏi liệu các “sự thực lịch sử” được cuốn sách cung cấp, đề chút nhưng tư liệu tôi thấy là không có gì mới cả, ít nhất là cá nhân tôi. Nhưng (với) nhiều số đông thì nó là mới bởi vì các bạn trẻ, các bạn chưa bao giờ có cơ hội để tiếp cận những vấn đề đó.”
Bình luận về những gì có thể được xem xét là “sự thực lịch sử” hay không trong cuốn sách, sử gia cho rằng ở đây cần nhắc tới một nguyên tắc là “cố gắng tiếp cận”, ông nói:
“Những vấn đề mà anh Huy Đức nêu lên là anh đang tiếp cận với cái đó, cố gắng đưa ra những bằng chứng, đưa ra cách phân tích để có thể chia sẻ với mọi người, chứ tôi không nghĩ rằng cuốn sách của anh là nói sự thật.
“Mục tiêu muốn tìm ra sự thật thì điều đó tôi cho là có thể có, có thể thấy được, thế nhưng bảo đấy là sự thật thì chưa hẳn. Nó có thể là một cuốn sách thôi, cuốn sách của một người viết thôi, về những vấn đề nhiều người quan tâm.”
Ông Quốc cho rằng cuốn sách có vai trò như “một cú hích,” nhưng ông nhấn mạnh đây mới là “một sự khởi đầu,” sử gia nói:
“Tôi cũng rất muốn là nhân cơ hội này, như cú hích, để mọi người cùng quan tâm nghiên cứu với sự nghiêm túc, với thiện chí đối với tương lai, thì tôi nghĩ lịch sử sẽ sáng tỏ hơn. Thế còn cuốn sách này, tôi nghĩ, nó chỉ là một sự khởi đầu, tôi cũng đánh giá là cao.”
‘Về độ tin cậy’
Khi được hỏi có chi tiết nào, “sử liệu nào” trong cuốn sách, đối với riêng sử gia, cần phải được đặc biệt lưu ý để bàn lại về độ chính xác, chân xác và tin cậy, ông Dương Trung Quốc nói:
“Những vấn đề anh đề cập tới rất nhạy cảm, cho nên việc tiếp cận tương đối toàn diện các nguồn tư liệu chắc không đơn giản, còn khó khăn đằng khác.”
Sử gia cho rằng những điều mà ‘Bên Thắng Cuộc’ trình bày và cung cấp “không dựa trên một nghiên cứu toàn diện,” nhưng theo ông việc tác giả đã “khơi ra, nêu ra” được các vấn đề “đã là quý.”
Đề cập một trong những khía cạnh gây tranh cãi của cuốn sách là các cuộc phỏng vấn mà cuốn sách cho hay do tác giả thực hiện, ông Quốc nhận xét:
“Nếu đi vào cụ thể, một trong những mảng mà anh Huy Đức sử dụng nhiều nhất, mà cũng gây ấn tượng, có hiệu ứng nhiều nhất là những hồi ức và những phỏng vấn. Chúng ta biết rằng việc sử dụng những lời phỏng vấn là rất phức tạp.
“Hoặc thậm chí công bố như thế có đúng không? Và không những như thế, những người còn sống và những người hậu duệ của những người đã mất họ mới có bản quyền đối với cái đó.
Sử gia cho rằng việc vận dụng thủ pháp dựa trên trích dẫn các lời phỏng vấn này cần phải được “hết sức thận trọng” vì theo ông một mặt nó có thể “gây hiệu ứng” rất cao với độc giả, nhưng mặt khác cũng đòi hỏi “một sự thẩm định.”
Ông Dương Trung Quốc nói: “Tôi rất tin cậy anh Huy Đức với tư cách anh ấy là một nhà báo mà tôi quen biết, nhưng mà khi đã đưa vào một cuốn sách mang tính chất lịch sử như cuốn sách này, thì sự thận trọng về việc sử dụng tư liệu, tôi cho là hết sức quan trọng, nhất là bản quyền đối với những lời trả lời phỏng vấn.”
Cuối cùng, trong một đánh giá có tính tổng quan ông Quốc nói: “Cho nên tôi nghĩ rằng ở đây, chúng ta ghi nhận những nỗ lực của anh Huy Đức thôi, nhưng đừng tuyệt đối hóa đó là sự thật. Mà quan trọng là làm cho mọi người đều quan tâm đến nó và tiếp cận nó một cách hết sức nghiêm túc.
“Và cùng với thời gian, chúng ta sẽ tiếp cận gần nhất sự thật mà chúng ta mong muốn, không phải với ý thức là phê phán quá khứ mà quan trọng nhất là tìm ra những bài học tốt cho hiện tại và tương lai,” sử gia nói với BBC.



Dự thảo hiến pháp: Thử thách sự sống còn của chế độ


2013-01-24
Sau tuyên bố không có vùng cấm trong việc đóng góp sửa đổi Hiến pháp 1992 đã xuất hiện một bản dự thảo Hiến pháp gần như hoàn chỉnh của hơn 800 trí thức và được báo chí thế giới đánh giá như một cuộc cách mạng mềm trong chính trường Việt Nam.
AFP photo
TBT Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi về phía lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi khai mạc phiên họp hàng năm của Quốc hội hôm 22 tháng 10 năm 2012.

Đề nghị bỏ lời nói đầu của hiến pháp 1992

Có thể nói sự chờ đợi sửa đổi bản hiến pháp năm 1992 lần này khác hẳn như sự thay đổi Hiến pháp năm 1946 vào năm 1992. Nhà nước chứng tỏ đã chuẩn bị dư luận rất kỹ trong việc kêu gọi người dân tham gia vào tiến trình đóng góp ý kiến của mình vào bản hiến pháp này. Tuyên bố mạnh mẽ của ông Phan Trung Lý. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã tăng thêm sự mạnh dạn của quần chúng khi biết rằng không có vùng cấm nào trong các ý kiến tham gia.
Trong khi báo chí quốc doanh loan tải một vài bài viết lác đác trên hệ thống thông tin nhà nuớc không được ai chú ý thì tại nhiều trang blog như trang Bauxitvn, Basàm lại nóng lên với bản dự thảo hiến pháp được ký tên bởi hơn 700 chữ ký của các nhân vật trí thức. Bản dự thảo này ngay lập tức lan truyền rộng rãi trên mạng và các cơ quan thông tấn của Đức, Pháp, Hoa kỳ loan tin lại với những nhận xét khá tích cực về một cuộc đổi thay lớn trong mặt bằng chính trị tại Việt Nam.
Điều khiến dư luận chú ý trước tiên của bản dự thảo là đề nghị bỏ lời nói đầu của bản hiến pháp năm 1992. Đề nghị này hợp lý và hấp dẫn người theo dõi bởi tính chất bản hiến pháp của một nước không thề viện dẫn tính cao cả của bạn bè quốc tế hay sự những chiến thắng có tính giai đoạn lịch sử không thể kéo dài để biện minh cho lý lẽ cai trị của chế độ. Lời nói đầu bản hiến pháp năm 92 đã viết:
"Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc."
Vì trước mắt chưa có Chủ nghĩa xã hội cho nên trở lại với cái tên của nó là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chứ không có gì mới, chỉ là tên cũ đặt lại cho chuẩn thôi.
Ông Nguyễn Đình Lộc
Tính chất vi hiến lộ ra rất rõ khi Mác-Lê Nin và Hồ Chí Minh chỉ đạo toàn bộ hiến pháp của nước Cộng hòa Xã Hội chủ Nghĩa Việt Nam. Lời nói đầu này đã khiến Hiến pháp không còn do nhân dân Việt Nam quyết định mà rõ ràng do một chủ thuyết đã tỏ ra lạc hậu, một nhân vật không còn tinh khôi như thời cầm quyền đã ngang nhiên chiếm lĩnh đời sống chính trị cũng như toàn bộ nền tảng của một bản hiến pháp của đất nước.
Phủ nhận lời nói đầu này là phủ nhận toàn bộ tính chất áp đặt của Đảng cầm quyền hiện nay lên hiến pháp để từ đó gợi ý một nội dung khác, một tính chất khác, một hiến định khác nhằm giải tỏa những áp đặt đè nặng lên dân tộc trong nhiều chục năm qua.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học một trong những người vận động chữ ký cũng như soạn thảo bản hiến pháp cho biết:
Trong số những người có ý tưởng đề xuất bản kiến nghị này tất nhiên có những người hiểu biết luật pháp, có luật sư nên bản kiến nghị đưa ra chặt chẽ. Chúng tôi không ở trong một tổ chức nào hết mà chỉ là những con người, cá nhân, những công dân quan tâm đến vận mệnh đất nước và nhân việc nhà nước tuyên bố cần sự góp ý cho hiến pháp và không có giới hạn ngăn cấm nên chúng tôi thấy cần phải đề xuất cho đến cùng. Đến cái chỗ mà dân tộc Việt Nam hiện nay đang mong muốn, quan tâm nhất. Bản kiến nghị này hình thành là như vậy.
GS-TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cũng là người ký tên trong bản kíên nghị cho biết lý do khiến bản dự thảo hiến pháp này ra đời. Với ông không gì khác hơn là tạo cơ hội để chính quyền có tính chính danh trong khi vận hành đất nước, đặc biệt là những người Đảng viên Đảng Cộng sản có cơ hội nhìn lại mình và Đảng của mình:
Theo như ông chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý đã nói thì khi góp ý xây dựng hiến pháp sẽ không có vùng cấm nào cả. Bản thân tôi là một Đảng viên Đảng Cộng sản tôi cũng không muốn Đảng mình đóng vai trò lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo xã hội do áp đặt. Mà chúng tôi muốn lãnh đạo xã hội, lãnh đạo chính quyền một cách danh chính ngôn thuận, dựa trên uy tín, phẩm chất, năng lực thật sự của mình. Thứ hai nữa nếu bây giờ mà đặt ra trong hiến pháp điều cố định là tổ chức nào đó như Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ vĩnh viễn lãnh đạo xã hội thì đó là cách làm hư Đảng. Nó sẽ làm cho Đảng viên không còn phấn đấu, không còn phải rèn luyện, chinh phục cái tâm của người dân nữa mà dần dần sẽ hư hỏng đi, mà như thế thì làm Đảng yếu đi.

Đề nghị đổi tên nước

000_Hkg7748046-250.jpg
Công nhân kết hoa cho lá cờ Đảng và lá cờ nước chuẩn bị cho lễ Quốc Khánh 02/9/2012 tại Hà Nội. AFP photo
Bản dự thảo thay đổi Hiến pháp bác bỏ tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với nguyên nhân chính là thời kỳ xã hội chủ nghĩa vẫn chưa xuất hiện tại Việt Nam thì việc lấy cái đuôi này áp vào tên nước cho thấy tính mơ hồ của một bản Hiến pháp có giá trị của một quốc gia. Luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh cho biết:
Trong cuộc họp của “Hội đồng dân chủ pháp luật” do Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Hà Nội vừa rồi mà tôi có tham dự thì một số ý của vài vị đưa ra là chúng ta phải xác định thời kỳ này có phải là thời kỳ xã hội chủ nghĩa hay chưa? Hay là đang trong quá trình xây dựng một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa? Bởi vì thật ra khi có hiến pháp năm 1946 thì sau đó là chiến tranh rồi chia hai đất nước, thành ra thể chế cộng hòa đó nó chưa thể hiện một cách rõ ràng trong thực tế bằng một tổ chức nhà nước của chúng ta. Do đó tính chất vẫn là thời kỳ nối tiếp của năm 1946 chứ chưa phải là chủ nghĩa xã hội hay quá độ. Vả lại sau tất cả các bản hiến pháp từ năm 1946 là một hiến pháp rất tiến bộ có tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Độc lập, Tự do, Hạnh phúc - Ba chữ Độc lập Tự do Hạnh phúc nó rất bao quát. Một đất nước độc lập rồi phải dân chủ tự do và đem lại hạnh phúc cho người dân.
Nguyên Bộ trưởng Bộ tư Pháp Nguyễn Đình Lộc cũng nhận xét việc đổi tên nước là cần thiết nhưng không có gì mới so với bản hiến pháp năm 1946 khi Đảng Cộng sản chưa nhúng tay vào thực hiện việc thay đổi hiến pháp mà nhiều người vẫn cho là dân chủ nhiều lần hơn bản năm 1992.
Thật ra bây giờ gọi là nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhưng xã hội chủ nghĩa chỉ là một định hướng lâu dài mà thôi vì trước mắt chưa có Chủ nghĩa xã hội cho nên trở lại với cái tên của nó là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chứ không có gì mới, chỉ là tên cũ đặt lại cho chuẩn thôi.
Một nét mới của bản dự thảo hiến pháp này là mạnh dạng thay đổi hệ thống chính quyền từ Chủ tịch nước theo hệ thống cộng sản sang Tổng thống chế như của nhiều nước tư bản Tây phương. Nói về thay đổi này luật gia Lê Hiếu Đằng cho biết:
Dự thảo này cũng chỉ là gợi ý thôi chứ không có tính chính thức. Nó theo tổng thống chế, mô hình của các nước có chế độ lưỡng viện tức là Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Nó làm cho chức năng của từng viện rõ ràng và bao quát hơn, có tính chất đại diện rộng rãi hơn.
Hai viện này đại diện cho cả nước và đồng thời đại diện cho địa phương nên có tính chất tiêu biểu. Thượng viện chẳng hạn, rất quan trọng. Thật ra mô hình này đã có một số nước người ta áp dụng và có hiệu quả vì vậy mình nên theo. Điều gì mà con người tiến bộ đã áp dụng thì mình theo chứ không nên sáng tạo một con đường nào khác, rất mù mờ không có hiệu quả, vì nó không đặt lợi ích đất nước, dân tộc lên trên.
Những thay đổi cốt lõi của bản dự thảo hiến pháp còn nằm ở chỗ giải phóng quyền tham gia chính trị một cách thật sự của các Đảng phái đối lập, điều mà cả hai bản hiến pháp năm 1946 và 1992 hoàn toàn không nêu ra.
Câu nói nổi tiếng của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết mà nhiều người vẫn nhớ đó là: “bỏ điều 4 hiến pháp là tự sát”.
Nội hàm quan trọng của điều 4 hiến pháp là gì khiến chủ tịch một nước phải xác định với ngôn ngữ không cần bóng gió như vậy? Câu trả lời nhanh nhất: Điều 4 hiến pháp cho phép quyền lực Đảng Cộng sản Việt Nam bao trùm lên cả ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp theo hiến pháp quy định.
Những quyền lực tuyệt đối của điều 4 vô hiệu hóa mọi quy định mà hiến pháp đưa ra. Từ quyền tối thiểu của người dân như sự đi lại cho đến cao hơn là quyền phát biểu chính kiến. Riêng trong lĩnh vực tòa án sự tha hóa và bất công lộ ra rõ hơn khi Đảng toàn quyền đưa ra những bản án bỏ túi cho từng phạm nhân, những ai phạm tới quyền lực của Đảng cầm quyền.
Điều 4 hiến pháp cho phép Đảng làm bất cứ thứ gì có lợi cho Đảng và hệ thống, trong đó có toàn quyền quyết định về chủ quyến đất nước thông qua các cuộc đàm phán không công khai. Đảng cũng đuợc quyền chấp thuận trong bóng tối ai là người được phép khai thác tài nguyên quốc gia và cứ mỗi lần đại hội Đảng là việc sắp xếp nhân sự lại diễn ra, người dân không một chút quyền hạn gì trong việc bỏ phiếu cho ai là người lãnh đạo đất nước.

Đề nghị bỏ điều 4 hiến pháp

000_Hkg4913882-200.jpg
Pano tuyên truyền cho kỳ bầu cử quốc hội lần thứ 13 năm 2011. AFP photo
Điều 4 hiến pháp năm 1992 xuất hiện khi hiến pháp 1946 thay đổi. Trong bối cảnh Liên xô lúc ấy, điều 4 hiến pháp của Việt Nam rập khuôn điều 6 hiến pháp của Liên xô. Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM cho biết tại sao có điều 4 hiến pháp của Việt Nam:
Trước đây ở hiến pháp năm 46 thực chất lúc bấy giờ Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng lãnh đạo và đương nhiên việc đó cũng thể hiện vào trong việc soạn thảo hiến pháp 1946 nhưng lúc bấy giờ có đưa vào đâu? Vả lại muốn đưa cũng không đưa được.
Nhưng rồi sau đó vận dụng vào điều 6 của hiến pháp Xô viết để đưa điều 6 của Xô viết vào vì nghĩ rằng sẽ tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng nhưng trên thực tế thì ngược lại. Thứ nhất, với đìêu 6 đó thì Đảng Cộng sản Liên xô vẫn không tránh khỏi sự sụp đổ. Với điều 4 trong hiến pháp của năm 92 mà bây giờ đang đưa ra lấy ý kiến thì không tránh đuợc sự thoái hóa biến chất của một bộ phận rất lớn và nó càng ngày càng làm cho uy tín của Đảng suy sút nghiêm trọng trong dân. Điều này thì chính Đảng nói chứ không phải ai nói cả.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnhnguyên ủy viên Trung ương Đảng, nguyên cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc cho rằng không thể áp đặt lên nhân dân những gì mà Đảng muốn, ông nói:
Bởi vì Đảng lãnh đạo thì Đảng sinh ra vì dân vì nước chứ không phải sinh ra vì quyền lợi của Đảng cho nên không cần ghi là Đảng lãnh đạo bởi vì quyền lãnh đạo do dân tín nhiệm trao cho chứ không thể áp đặt được.
Chính điều 4 hiến pháp giao cho Đảng mọi chiếc chìa khóa quan trọng trong việc điều hành đất nước nên Đảng đã dùng nó để khóa trái những cánh cửa tự do mà người dân được quyền hưởng vì muốn bảo vệ sự độc đảng của mình. Chiếc chìa khóa mở cánh cửa dùng quyền biểu tình mà hiến pháp quy định để chống lại xâm lược cũng bị Đảng khống chế do đó Đảng quyết định luôn vận mệnh đất nước trong các cuộc đi đêm nếu có lợi cho Đảng.
Ông Huỳnh Kim Báunguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM người ký tên vào bản kiến nghị dự thảo hiến pháp nghi ngờ sự mong manh của bản hiến pháp lần này:
Tôi thấy rằng họ có thể ghi những điều mà dự thảo yêu cầu nhưng nếu điều 4 còn thì nó sẽ phủ định hết tất cả. Vì họ độc quyền lãnh đạo mà nếu họ ghi những điều đó đồng thời với điều 4 thì điều 4 nó sẽ phủ định hết tất cả những cái cải lương, thay đổi đó.
Cũng từ điều 4 hiến pháp này Đảng đã tận dụng nó như một quyền năng tuyệt đối để quay lại ra lệnh cho chính hiến pháp quy định lực lượng vũ trang phải hết lòng bảo vệ cho Đảng. Đìêu này làm cho nhân sĩ trí thức nổi giận, trong đó có thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, ông nói:
Tôi đứng trên quan điểm chung của mọi nước và như tôi đã phân tích quân đội phải bảo vệ tổ quốc chứ không phải bảo vệ một tổ chức, cá nhân nào. Bởi vì nếu bảo vệ tổ quốc thì trong đó có cả Đảng Cộng sản rồi, cũng trong tổ quốc Việt Nam thôi thì có gì mà họ phải phản ứng mà phản ứng là vô lý cho nên tôi tôi cứ nói theo ý của tôi và tôi không sợ gì sự phản ứng cả.
Tôi thấy rằng họ có thể ghi những điều mà dự thảo yêu cầu nhưng nếu điều 4 còn thì nó sẽ phủ định hết tất cả. 
Ông Huỳnh Kim Báu

Ông Huỳnh Kim Báu chia sẻ những ý kiến của tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và nhìn lại những nỗ lực mà trí thức đang vận động trong dự thảo thay đổi hiến pháp này, ông nói:
Thực tế ra nói là vì tương lai của đất nước, lo cho dân thôi chứ còn chúng tôi không tin dù một chút. Thường thường tất cả đều đã được chuẩn bị hết chẳng qua nếu mà hỏi ý kiến dân thì người ta chỉ chọn những gì phù hợp với người ta mà thôi chứ còn dứt khoát như điều 4 họ không giải quyết đâu, hay là luật đất đai điều 86 sẽ không giải quyết được đâu nhưng mà nói thì vẫn phải nói. Tôi không tin nhưng về lương tâm phải nói để bảo vệ đất nước.
Quân đội là của nhân dân. Quân đội được nuôi bởi tiền thuế của nhân dân thì phải phục vụ nhân dân, làm sao chỉ một nhóm người? Đây là quyền lợi cả một dân tộc mà lại vĩnh viễn luôn thì không bao giờ có chuyện đó.
Giáo sư Hoàng Xuân Phú, tác giả của các bài viết nảy lửa về Hiến pháp trong những lúc gần đây cho rằng “Quy định trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội tưởng để Đảng trường tồn, nhưng lại là điều khoản khai tử của ĐCSVN, khai tử khỏi lòng Dân và khai tử khỏi cuộc sống chính trị.”

Số phận ĐCS sẽ ra sao?

000_Hkg6879719-200.jpg
Một cửa hàng bán các sản phẩm tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác - Lê tại Hà Nội. Ảnh chụp 01/2/2012. AFP photo
Câu  hỏi mà nhiều đảng viên có lòng với vận mệnh đất nước hiện nay quan tâm là nếu bỏ điều 4 hiến pháp thì số phận của Đảng Cộng Sản Việt Nam ra sao? Những đảng viên thuộc nhiều thế hệ sẽ như thế nào và liệu họ có thoát khỏi dòng chảy đào thải của cuộc thay đổi này hay không?
Sự sụp đổ chế độ Cộng sản tại Liên xô và Đông âu cho thấy không có bất cứ cuộc tắm máu nào hay sự rối loạn xã hội bởi thay đổi thể chế cầm quyền. Lý do mà nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đưa ra là các cuộc cách mạng ấy diễn tiến trong nội bộ của Đảng Cộng sản Liên xô và tác động lên các nước còn lại. Nguồn gốc của những cuộc cách mạng này nằm trong tính tất yếu của các cuộc vận động lịch sử, khi sự tha hóa, độc tài đã đến lúc chín rã thì phải bị đào thải bởi các dòng chảy cách mạng của nhân dân. Chân lý này đã xảy ra trong quá khứ và không nghi ngờ gì nó sẽ lập lại khi điều kiện đã chín muồi và không ai, thế lực nào có khả năng năng ngăn lại sự chín muồi đó.
Bản dự thảo hiến pháp rõ ràng là một sự chín muồi có điều kiện. Những nhận thức từ căn bản của một hiến pháp không phù hợp với tiêu chí của các nước văn minh đã và đang trì kéo sức bật của cả dân tộc, vì vậy nếu thay đổi đúng với tinh thần một bản hiến pháp cần có thì đảng cầm quyền hiện tại phải chấp nhận trò chơi công bằng của các đảng phái chính trị ngang hàng nhau trong mọi điều kiện để cạnh tranh một cách công bằng hầu cải thiện đời sống dân chủ của người dân.
Đìêu kiện cần có ấy sẽ gây ra tổn thất cho nhiều bên, trong đó không thể không nhắc tới Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mất mát tất cả quyền lực hiện nằm trong tay và viễn ảnh về hưu cay đắng không dễ gì thuyết phục người ta chấp nhận như Miến Điện đang thay đổi, mặc dù trước đây ít lâu chính quyền Miến được xem độc tài và bạo chúa gấp nhiều lần Việt Nam. Câu hỏi về niềm tin sẽ thay đổi tư duy của đảng cầm quyền có làm cho những vị vận động bản dự thảo hiến pháp nghĩ đến hay không được Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trả lời:
Chúng tôi từ lâu đã suy nghĩ về những điều ấy nhưng vận động của lịch sử là một cái gì không thể cưỡng được cho nên tôi nghĩ là Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước những thách thức về dân chủ và về quyền con người, quyền công dân. Nếu như mình tranh thủ được sự đồng tình của toàn dân thì Đảng Cộng sản sẽ giữ được vai trò lãnh đạo như trước. Cho nên không có sự gì gọi là xáo trộn, làm cho những người cộng sản tự biến mất vị trí, hoàn toàn không.
Chúng ta chỉ thực hiện quyền bình đẳng dân chủ trước pháp luật của toàn dân và người Cộng sản muốn đóng được vai trò trách nhiệm trước lịch sử thì họ phải làm thế nào cho xứng đáng với tư cách người lãnh đạo của một đất nước có công bằng, dân chủ, văn minh không thoái hóa về nhiều phương diện thì đương nhiên người cộng sản sẽ vẫn được tín nhiệm như thường. Vì thế tôi không nghĩ có một sự xao trộn gì lớn trong việc này và Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn phải phấn đấu nhiều hơn, đưa hết sức lực ra thì tự nhiên họ sẽ giữ đựơc vị trí của mình thôi.
Già thuyết về sự mất trắng quyền bính của Đảng Cộng sản cũng như ba triệu đảng viên của nó là lực cản lớn nhất cho dự thảo thay đổi hiến pháp lần này được Giáo sư Tương Lai giải thích:
Không nên khẳng định nếu bản hiến pháp này thông qua thì quyền bính của họ mất trắng vì nói như vậy cũng không sát với kiến nghị của chúng tôi. Kiến nghị của chúng tôi trong đó có những người là Đảng viên như bản thân tôi. Tôi không kiến nghị về việc bác bỏ sự lãnh đạo của một Đảng nếu Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn được nhân dân tin phục thông qua trưng cầu dân ý và bỏ phiếu tín nhiệm. Việc Đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử. Là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân kể cả các Đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
Khi được hỏi ảnh hưởng tích cực sau khi bản dự thảo hiến pháp thành hình là gì Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết người ký tên vào bản dự thảo cho biết:
Tôi nghĩ ảnh hưởng thì chắc chắn là có lợi cho sự phát triển của đất nước, có lợi đối với toàn dân thì rất rõ ràng. Khi chúng ta xây dựng được một bản hiến pháp dân chủ, có một hệ thống pháp luật dân chủ, một xã hội dân chủ thật sự thì không có quyền lợi chính đáng nào của người dân sẽ bị coi nhẹ, tước bỏ.
Tôi lấy ví dụ, hiện nay cũng có những người cứ lo lắng mơ hồ là nếu có sự thay đổi thì mình không đảm bảo được lương hưu chẳng hạn. Sự lo lắng ấy là không có cơ sở trong xã hội dân chủ bởi vì lương hưu nó thuộc hệ thống bảo hiềm xã hội. Có đóng tiền bảo hiểm xã hội thì mình có lương hưu, chuyện ấy không cần bàn cãi.
Việc Đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử. Là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
Giáo sư Tương Lai 
Hai nữa tôi cũng xin nói lại, kiến nghị này của anh em trí thức là một kiến nghị xây dựng hiến pháp dân chủ chứ đây không phải là mình làm cuộc lật đổ hay “Cách mạng nhung”, “Cách mạng hoa” gì cả. Vấn đề là toàn dân thống nhất xây dựng nguyên tắc dân chủ đưa vào hiến pháp thì chắc chắn dân chủ sẽ tốt hơn.
Giáo sư Tương Lai tin tưởng vào sự hiểu biết của đảng cầm quyền. Trong tình hình khá chín muồi hiện nay sẽ thúc đẩy họ có cái nhìn tỉnh táo hơn về thực trạng mà họ phải đối phó để đi đến quyết định có lợi cho quốc gia dân tộc:
Đành rằng không thể nào những người đang làm công tác soạn thảo sẽ theo tinh thần mà người dân muốn để người ta dễ dàng chấp nhận điều này. Không có đâu. Nói như vậy là hết sức ảo tưởng. Nhưng chân lý chỉ có một, chính nghĩa chỉ có một, công lý chỉ có một, tùy theo điều kiện lịch sử mà nó thể hiện ra. Nếu những người cầm quyền, những người đang soạn thảo dự thảo hiến pháp này họ hiểu ra được việc thì họ phải có những hành động cần thiết.
Đương nhiên giữa hiểu biết, nhận thức và lợi ích thực tế, lợi ích phe nhóm, lợi ích của nhóm cầm quyền nó có một cuộc đấu tranh gay gắt. Nhưng tôi tin rằng trong lương tâm mỗi một người đều có một đốm sáng, và chính cái đốm sáng ấy là cái mà chúng tôi thức tỉnh để nó bùng lên, để họ cùng với nhân dân thực hiện sứ mệnh lịch sử của họ.
GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng cái lợi lớn nhất cho người dân là họ sẽ thực sự làm chủ vận mệnh của mình nếu hiến phảp thay đổi theo bản dự thảo này:
Hiến pháp là một khế ước xã hội, trong đó người dân giao ước với nhau về thể chế mà mình muốn thành lập để giới hạn quyền lực của bộ máy chính quyền ấy. Và cao hơn hết là về quyền con người trong xã hội được hưởng những quyền gì. Cái gì ảnh hưởng tới người khác tới cộng đồng thì không được làm, cụ thể nó như thế nào.
Theo tôi nếu chúng ta sửa hiến pháp như thế và có bản thảo hiến pháp kèm theo để cho người dân tham khảo thì tôi chắc chắn là người dân sẽ có quyền tự do dân chủ rộng rãi và xứng đáng là người chủ của xã hội, của đất nước chứ không phải chỉ là người chủ trên danh nghĩa.
Một cán bộ cao cấp ký tên trong bản kiến nghị dự thảo cho chúng tôi biết góc nhìn của ông:
Kết quả về kiến nghị thì hiện nay chưa thấy gì cả nhưng tôi hy vọng trong thời đại hiện nay thì phải tìm ra cái lợi ích hài hòa giữa lực lượng và lợi ích của toàn dân không thề tôn trọng lợi ích của một bên nào cả. Hiện nay cái không khí dân chủ nó đang mở rộng, việc đòi hỏi dân chủ của người dân nó đang lên cao thì tôi hy vọng Đảng sẽ chấp nhận ở mức độ nào đó, từng bước dần dần hai bên sẽ gặp nhau.
Gác lại những hy vọng nếu những kịch bản từng xảy ra trong nhiều năm nay được lập lại, đó là sự im lặng đối với những gì mà trí thức lên tiếng. Khả năng các cuộc truy lùng trong bóng tối cũng không phải là hiếm hoi khi đảng cầm quyền cho rằng bản dự thảo này là một thách thức có thể bùng lên thành giòng chảy cách mạng như từng xảy ra trên nhiều nước. Ông Huỳnh Kim Báu khẳng định sự quyết tâm của mình:
Tất nhiên họ còn như vậy thì vẫn còn tranh đấu tới hơi thở cuối cùng chứ không nhân nhượng chuyện đó. Hai nữa thì hy vọng trong những người lãnh đạo cộng sản cũng có thề có những người họ thức tỉnh, thì cũng chỉ hy vọng vậy thôi. Tôi nghĩ đây là chuyện lâu dài chứ không phải một ngày nhưng mà làm cái gì cũng phải lâu dài chuẩn bị cho việc trả giá cũng như tình hình trước đây ở Đông âu vậy cho nên chúng tôi sẳn sàng trả giá.
Báo chí quốc tế có cái nhìn tích cực đối với cuộc vận động này không phải là không có nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân ấy là nền chính trị độc đảng của Việt Nam đã chạm đáy, nó cần nổi lên để thở, và nhất là để tránh một cuộc thay đổi dưới hình thức bạo động qua gợi mở một cuộc rút lui trong danh dự từ bản dự thảo hiến pháp này.

“Dân chủ” và “Tự do” giảm: Đếm từ trong hiến pháp 1946-2013


Những kết quả phân tích tần số các từ trong hiến pháp cho thấy trong khi Đảng chưa xuất hiện trong hiến pháp thì dân chủ  tự do khá phổ biến, Nhưng trong và sau khi Đảng xuất hiện thì dân chủ  tự do giảm rõ rệt. Trong bản hiến pháp sau thống nhất (1980) xã hội chủ nghĩa xuất hiện rất nhiều, nhưng trớ trêu thay đến những năm sau khi kinh tế chuyển sang định hướng xã hội thì sự hiện diện của cụm từ này trong hiến pháp càng ngày càng khiêm tốn.

Nguyễn Văn Tuấn

Tôi mới đọc bài viết Hành trình hiến pháp Việt Nam dưới góc nhìn khoa học của Ts Trần Xuân Hoài. Bài viết trình bày một phân tích thống kê về một số từ như độc lập, tự do, bình đẳng, dân chủ trong 5 hiến pháp (1946, 1960, 1980, 1992, và dự thảo 2013). Những con số rất đáng chú ý, nhưng hình như tác giả không bình luận. Ở đây, tôi muốn bổ sung thêm vài con số và vài ý để thấy một xu hướng rất thú vị.

Giới nghiên cứu xã hội có một môn thể thao tri thức rất thú vị là đếm từ trong văn bản. Theo lí thuyết tâm lí thì tần số xuất hiện của những từ trong văn bản có thể nói lên suy nghĩ hay sự quan tâm của tác giả. Do đó, trong các nghiên cứu định tính, nhà nghiên cứu có thể tạo môi trường và điều kiện để đối tượng nghiên cứu tự do phát biểu, và những phát biểu được thu thanh lại. Sau đó một chương trình máy tính sẽ được sử dụng để phân tích tần số dùng chữ, tần số các chủ đề trong thảo luận, và từ đó có thể phát hiện một xu hướng chung.

Trước đây, tôi cũng từng mài mò làm một vài phân tích thơ lục bát của Nguyễn Du, Nguyễn Bính, và Nguyễn Đình Chiều. Kết quả những phân tích so sánh cũng cho ra vài phát hiện về âm điệu, cách gieo vần và dùng từ của các thi sĩ trên. Nhưng những phân tích như thế thật ra chỉ có mục tiêu giải trí là chính, chứ cũng khó phát kiến được một giả thuyết khoa học nào. Nhưng qua cách làm tôi cũng học thêm vài điều về phương pháp, và nhất là có dịp đọc sách về định lượng ngôn ngữ học. 

Hai năm trước, tôi cũng có làm một so sánh về tần số dùng từ của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và Tổng thống Obama. Kết quả cho thấy trong bài diễn văn của ông NĐM nhân dịp kỉ niệm 77 năm ngày thành lập Đảng, chữ Đảngxuất hiện 83 lần, Nhân dân 27 lần, Nhà nước chỉ có 3 lần. Một điều thú vị khác là ông Tổng bí thư có xu hướng dùng những chữ như là, và, của ... hơi nhiều. Ông Obama thì có xu hướng dùng những từ như nation (quốc gia), people (người), new (mới), America, world (thế giới), today (hôm nay), must (phải), v.v. Rõ ràng, hai người có 2 quan tâm khác nhau. 

Hôm nay, nhân đọc bài Hành trình hiến pháp Việt Nam dưới góc nhìn khoa học của Ts Trần Xuân Hoài, tôi lại có động cơ xem qua sự phân bố từ ngữ trong các bản hiến pháp. Ts Hoài đặc biệt quan tâm đến 4 từ: độc lập, tự do, bình đẳng, và dân chủ. Nhưng tôi nghĩ trong bối cảnh hiện nay, khi nhiều người quan tâm đến vai trò của Đảng CSVN, đến định hướng xã hội chủ nghĩa, v.v. thì có lẽ chúng ta cũng nên thêm vài từ nữa. Những từ tôi nghĩ đến là Đảng, Cộng sản, Xã hội chủ nghĩa, và Chủ nghĩa xã hội. Tôi nghĩ xem qua xu hướng phân bố của những danh từ này cũng rất thú vị, vì qua đó mà chúng ta biết được Quốc hội hay người soạn hiến pháp quan tâm đến điều gì hay đang nghĩ gì. 

Sau khi làm một phân tích nhanh sự phân bố từ ngữ trong 5 văn bản hiến pháp (xem kết quả trong Bảng 1), tôi có thể tóm lược vài kết quả như sau:


Bảng 1: Phân bố một số từ trong văn bản hiến pháp ban hành năm 1946, 1960, 1980, 1992, và dự thảo 2003

1946
1960
1980
1992
2013
(dự thảo)
Số từ (*)
3122
6958
12744
12921
13360
"Độc lập"
0
2
9
9
12
"Tự do"
8
7
12
10
13
"Bình đẳng"
2
5
7
7
10
"Dân chủ"
10
69
7
5
8
"Đảng"
0
0
9
2
6
"Cộng sản"
0
0
9
2
2
"Xã hội chủ nghĩa"
0
2
68
37
30
“Chủ nghĩa xã hội”
0
2
15
1
1
Tính trên 1000 từ
"Độc lập"
0.0
0.3
0.7
0.7
0.9
"Tự do"
2.6
1.0
0.9
0.8
1.0
"Bình đẳng"
0.6
0.7
0.5
0.5
0.7
"Dân chủ"
3.2
9.9
0.5
0.4
0.6
"Đảng"
0.0
0.0
0.7
0.2
0.4
"Cộng sản"
0.0
0.0
0.7
0.2
0.1
"Xã hội chủ nghĩa"
0.0
0.3
5.3
2.9
2.2
Chủ nghĩa xã hội
0.0
0.3
1.2
0.1
0.1

Chú thích : (*) Số từ không tính phần mở đầu. Chú ý những con số này hơi khác với những con số trong bảng thống kê của Ts Trần Xuân Hoài. Tôi không rõ tại sao khác nhau, nhưng nguồn văn bản trong bài này lấy từ dangcongsan.vn và trang laws.dongnai.gov.vn.



Nội dung càng ngày càng nhiều . Việt Nam (không tính Việt Nam Cộng Hòa) đã có 4 bản hiến pháp, và năm nay thêm một dự thảo hiến pháp. Mỗi bản hiến pháp sau đều có thêm những mục và tiết mới, nên số từ cũng gia tăng. Hiến pháp năm 1946 chỉ có 3122 từ, đến năm 1960 con số này tăng lên hơn 2 lần (6958 từ), và hiến pháp năm 1992 tăng lên gần 13000 từ, tức gấp 4 lần số từ trong hiến pháp 1946. Dự thảo hiến pháp năm 2013 có đến 13,360 từ, không tăng đáng kể so với văn bản năm 1992. 

Tần số từ độc lập tăng nhưng bình đẳng thì không thay đổi. Bản hiến pháp năm 1946 không có một chữ độc lập, đến năm 1960 thì chữ này xuất hiện 2 lần, năm 1980 và 1992 xuất hiện 9 lần. Bản dự thảo hiến pháp năm 2013 có 12 từ độc lập, tức khoảng 0.9 trên 1000 từ. Từ bình đẳng đã xuất hiện ngay từ hiến pháp 1946. Bản dự thảo hiến pháp năm 2013 có 10 từ bình đẳng, tuy có tăng so với trước đây, nhưng tính trên số từ thì không thay đổi đáng kể. 

Xu hướng phân bố danh từ tự do rất thú vị. Ngay từ bản hiến pháp năm 1946 đã có đến 8 từ tự do, và con số này có xu hướng tăng trong những năm 1980 (12 từ), 1992 (10), 2013 (13). Nhưng nếu tính trên 1000 từ, thì tần số danh từ tự do giảm rất đáng kể. Năm 1946, cứ 1000 từ trong hiến pháp thì khoảng 3 từ tự do, nhưng tỉ lệ này giảm dần theo thời gian, 1960 (còn 1 trên 1000), 1980 là 0.9, 1992 là 0.8, và năm 2013 là 1. Nói cách khác, xác suất tự doxuất hiện trong dự thảo hiến pháp năm nay chỉ khoảng 1/3 so với năm 1946. 

Dân chủ là danh từ xuất hiện rất thường xuyên trong bản hiến pháp 1946 (10 lần) và 1960 (69 lần). Nhưng các bản hiến pháp năm 1980, 1992, và dự thảo 2013 thì chỉ còn 5-8 từ (Biểu đồ 1). 



Biểu đồ 1: Phân bố của hai danh từ dân chủ và tự do trong các hiến pháp năm 1946, 1960, 1980, 1992, và dự thảo hiến pháp 2013.  Trục tung là số từ tính trên 1000 từ trong văn bản, trục hoành là năm.

Danh từ Đảng không xuất hiện trong hiến pháp 1946 và 1960. Nhưng sau ngày thống nhất (1980) danh từ Đảngxuất hiện đến 9 lần, rồi giảm xuống còn 6 lần trong năm 1992 và bản dự thảo 2013. Cùng với sự xuất hiện củaĐảng, danh từ Cộng sản cũng chỉ mới xuất hiện trong hiến pháp từ năm 1980 (9 lần), 1992 (2 lần), và dự thảo 2013 (2 lần). Như vậy, Đảng và Cộng sản tuy mới xuất hiện sau ngày thống nhất nhưng hình như tần số càng lúc càng “khiêm tốn” hơn. 

Cụm từ xã hội chủ nghĩa có xu hướng “thăng trầm” theo thời gian. Cụm từ Xã hội chủ nghĩa chưa xuất hiện trong bản hiến pháp 1946, nhưng đến năm 1960 thì xuất hiện 2 lần, rồi đạt "đỉnh cao" trong năm 1980 với 68 lần! Đến năm 1992, cụm từ này chỉ xuất hiện 37 lần, và giảm xuống còn 30 lần trong bản dự thảo hiến pháp 2013. Điều thú vị là cụm từ chủ nghĩa xã hội chỉ thịnh hành trong bản hiến pháp 1980, nhưng những bản hiến pháp sau đó cụm từ này chỉ xuất hiện 1 lần. 

Tóm lại, những kết quả phân tích tần số các từ trong hiến pháp trên đây cho thấy trong khi Đảng chưa xuất hiện trong hiến pháp thì dân chủ và tự do khá phổ biến, nhưng trong và sau khi Đảng xuất hiện thì dân chủ là tự do giảm rõ rệt. Trong bản hiến pháp sau thống nhất (1980) xã hội chủ nghĩa xuất hiện rất nhiều, nhưng trớ trêu thay đến những năm sau khi kinh tế chuyển sang định hướng xã hội thì sự hiện diện của cụm từ này trong hiến pháp càng ngày càng khiêm tốn.