Chủ Nhật, 11 tháng 3, 2018

Đồng bằng sông Cửu Long: Cống đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và những cái giá phải

PHẢN HỒI BÀI VIẾT “CỐNG ĐẬP CHẶN MẶN GÂY RỐI LỌAN HỆ SINH THÁI VÀ NHỮNG CÁI GIÁ PHẢI TRẢ”


Tô Văn Trường

Chuyên gia độc lập về Tài nguyên nước và Môi trường


Trên trang Bauxite VN ngày 13-2-2018 có bài viết của bác sĩ Ngô Thế Vinh đầu đề "Cống đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và những cái giá phải trả" phê phán việc xây đập ngăn mặn chặn dòng Cửu Long mà người chủ  trương là các nhà lãnh đạo và cán bộ nông nghiệp Miền Bắc không hiểu đặc điểm của thiên nhiên và con người ở đồng bằng sông Cửu Long.

Đây không phải là bài viết khoa học mà chỉ là dạng tương tự như phóng sự do tác giả ghi lại cảm nhận khi đi quan sát một số địa điểm thực tế và các ý kiến thu nhận được để đưa ra những nhận định chủ quan về tác động bất lợi của chương trình và các công trình thủy lợi mới được triển khai sau năm 1975, nhưng không đưa ra các minh chứng, phương pháp luận khoa học nào thuyết phục.  Do đó, những người đọc quan tâm đến vấn đề này cũng dễ có những cảm nhận trái chiều: nếu gặp nhóm người dùng kiến thức suy luận đơn giản có ý kiến là tác động xấu thì sẽ gây nhận định tiêu cực, nếu gặp người hưởng lợi từ các dự án ngăn mặn thì sẽ có nhận định ngược lại, những người có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực này thì thấy còn thiếu dữ liệu và kết quả phân tích. Giống như vào lúc này, nếu đi làm một phóng sự về chính sách của Tổng thống Donald Trump ở Mỹ thì có thể tìm được cả ngàn  người chỉ trích, mà ngược lại cũng có cả ngàn người ca ngợi, chưa có cơ sở xác nhận luồng ý kiến nào là đúng.

Đối tượng nêu trong bài báo là môi trường bề mặt ở đồng bằng sông Cửu Long một vấn đề về điều kiện tự nhiên. Ở mức độ thường thức hiện nay mọi người đều hiểu được rằng, các hiện tượng tự nhiên luôn không ngừng vận động mà con người nhờ kiến thức thực tiễn và khoa học ngày càng nắm vững/hiểu rõ các quy luật vận động của từng hiện tượng để phòng tránh tác hại hay khai thác chúng hợp lý như nguồn tài nguyên phục vụ cho sản xuất và nhu cầu phát triển xã hội. Các giải pháp khai thác tài nguyên thiên nhiên luôn luôn có cả hai mặt lợi và hại, do đó khi đánh giá một đối tượng để khách quan và khoa học, phải thu thập được tối đa cơ sở dữ liệu liên quan đặt vào bối cảnh lịch sử (kinh tế-xã hội) cụ thể và có công cụ với mức tin cậy cho phép thực hiện bài toán “trade off“ phân tích “được và mất“ để từ đó lựa chọn được giải pháp tối ưu với tổ hợp các yếu tố cần sử dụng để làm sao cái được là lớn nhất, và cái mất là ít nhất, bởi vì khi con người tác động  vào tự nhiên, không bao giờ cho ta được tất cả.

Về quan điểm và nhận thức phản biện là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội nên ý kiến của tác giả Ngô Thế Vinh ở góc độ truyền thông thường thức là đáng trân trọng. Tuy vậy phản biện, đặc biệt là phản biện một vấn đề hay một đối tượng khoa học, thì cần phải dựa trên các bằng chứng từ kết quả phân tích bằng những công cụ khoa học tin cậy và phải tránh đưa vào những nhận định từ dẫn chứng quan sát đơn giản với cảm xúc cá nhân. Về điều này, người đọc nhận thấy trong bài viết của tác giả Ngô Thế Vinh còn khá nhiều hạt sạn. Chính những hạt sạn- thiếu luận cứ và phương pháp khoa học đó đã làm phản biện của tác giả bài báo chưa thuyết phục và mất đi tính khách quan.

Nhìn lại qúa trình phát triển nông nghiệp và thủy lợi ở đồng bằng Sông Cửu Long.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nổi tiếng là mảnh đất giầu tài nguyên, đa dạng sinh học nhưng cũng gánh chịu những thách thức khắc nghiệt của thiên nhiên mà người dân nơi đây đã lưu truyền trong dân gian bằng những vần thơ:

Quê tôi nước mặn, đồng chua
Nửa năm nắng hạn, một mùa nước dâng

Xuyên suốt quá trình lịch sử là sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn ở ĐBSCL vô cùng khó khăn, gian khổ nhưng thành tựu cũng rất to lớn và vô cùng vẻ vang. Cha ông ta, đã đi từ khai mương, đắp bờ tát nước bằng các công cụ thô sơ và sức người đến thời vua Nguyễn và Pháp thuộc có nhiều kênh đào và đặc biệt sau năm 1975 với đường hướng phát triển kinh tế xã hội đúng đắn của nhà nước lấy vai trò của thủy lợi làm biện pháp hàng đầu để phát triển nông nghiệp, cùng với các tiến bộ của khoa học kỹ thuật, thiết bị hiện đại và sáng tạo của người dân Nam bộ hàng loạt các công trình thủy lợi lớn, vừa và nhỏ đã được xây dựng.

Ngày nay, ĐBSCL chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam. Sản lượng nông nghiệp của ĐBSCL chiếm trên 50% cả nước, riêng lương thực xuất khẩu 90%, cây ăn trái và thuỷ sản khoảng 70% so với cả nước.

Nhớ lại năm 1976, sản lượng lúa ở ĐBSCL chỉ khoảng 4,6 triệu tấn, phải nhập khẩu lương thực để cung cấp cho cả nước. Lúa Đông Xuân chủ yếu ở Cai Lậy khoảng 10 nghìn ha, còn lại là lúa mùa, trong đó 300 nghìn ha là lúa mùa nổi ở An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang vv… Hệ số quay vòng đất 1 vụ canh tác, chủ yếu nhờ nước trời, giống lúa dài ngày bị thoái hóa. Người dân cả nước thời ấy, phải ăn hạt bo bo, gạo hẩm, tấm, khoai lang, (bột mì nhập cho gia súc nhưng nhiều nơi con người vẫn sử dụng) vì đói. Đất đai ở ĐBSCL bị chua phèn, nhiễm mặn, nhiều cánh đồng “chó ngáp” rộng lớn bạc màu, phèn úa, ngập  úng cỏ dại, lau sậy um tùm... bị bỏ hoang.

Riêng năm 1980, nước ta phải nhập lương thực đến 1,6 triệu tấn. Kết quả phần lớn các mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra đều không đạt được. Mức tăng trưởng kinh tế tụt xuống chỉ còn 2,9% vào năm 1980 so với chỉ tiêu là 13%. Xuất khẩu chỉ bằng 20-25% nhập khẩu. Năm 1984, khoảng 75% dân số sống dưới mức nghèo đói. Lạm phát lên đến mức đỉnh điểm năm 1986 là 774,7%. Khủng hoảng kinh tế đã đe dọa ổn định chính trị, xã hội và bảo vệ môi trường.

Để tự cứu mình, nhà nước đã chủ trương toàn dân làm thủy lợi, trong sản xuất lấy lúa và cây lượng thực làm tiêu chí. Riêng các công trình thủy lợi lớn do nhà nước trung ương đầu tư với mục tiêu hàng đầu là phục vụ sản xuất và đời sống  của nhân dân. Ngay sau Thống nhất đất nước 1975, một lực lượng lớn cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, trong đó có thủy lợi từ Miền Bắc đã được huy động đưa vào Miền Nam để tiến hành các công tác thủy lợi ở quy mô khác nhau cũng như thực hiện các chương trình hợp tác quốc tế như Ủy ban lâm thời sông Mekong.

Năm 1976-1977 ở Đồng Tháp Mười hầu hết còn hoang hóa do hệ thống thủy lợi trước đây còn thưa thớt và không được tu sửa nên không còn tác dụng. Để khai thác cho sản xuất nhà nước tiến hành nạo vét khôi phục các kênh Nguyễn Văn Tiếp, Dương Văn Dương, Phước Xuyên, Đồng Tiến kết hợp với thủy lợi nội đồng  đào kênh cấp 2, cấp 3 để dẫn nước đến mặt ruộng. Mở rộng quy mô ngăn mặn, giữ ngọt ở khu thủy nông Gò Công, xây dựng mới các cống Gò Dừa, Xuân Hòa v.v... 

Để khai thác vùng Đồng Tháp Mười thời đó không chỉ dựa trên phương pháp kinh nghiệm sản xuất truyền thống, quyết tâm chính trị, mà phải tiến hành các phương pháp tính toán khoa học. Khi phải giải quyết bài toán đất phèn xảy ra tranh luận khoa học rất gay cấn giữa quan điểm giữ nguyên hiện trạng vì sợ đụng đến rốn phèn và lấy nước ngọt từ sông Tiền về để thau chua, rửa phèn. Gs Võ Tòng Xuân là nhà khoa học có công lớn đưa ra một số giống lúa mới, chịu sâu rầy để phát triển sản xuất lương thực ở ĐBSCL nhưng ông cũng như một số nhà khoa  học Hà Lan lại phản đối việc đào kênh Hồng Ngự vì sợ đụng đến “rốn phèn“ gây tác hại khôn lường. Nhờ sự quyết tâm của những nhà khoa học thủy lợi dám dấn thân và sự ủng hộ của số vị lãnh đạo thức thời, kênh Hồng Ngự đã được khởi công từ cuối năm 1977 dài 75 km nối từ Hồng Ngự qua Bình Châu vào rạch lớn của  sông Vàm Cỏ Tây tưới cho 150 nghìn ha. Thành công của kênh Hồng Ngự, mở ra kỷ nguyên mới về ý nghĩa của giá trị khoa học và thực tiễn, lớn đến nỗi người dân trìu mến gọi kênh Hồng Ngự là kênh Trung ương.
Tứ giác Long Xuyên diện tích tự nhiên khoảng 500 nghìn ha là ví dụ điển hình về hiệu quả công tác thủy lợi từ kiểm soát lũ, đến tưới tiêu, khai thác sử dụng đất phèn làm thay đổi hẳn bộ mặt kinh tế xã hội của cả vùng. Xa xưa là công trình kênh Vĩnh Tế của cha ông để lại được thế hệ sau mở rộng, nạo vét, nâng cấp, đặc biệt là hệ thống công trình thủy lợi  khá hoàn chỉnh như kênh ông Kiệt (người dân và chính quyền địa phương nhớ ơn, lấy tên Thủ tướng Võ Văn Kiệt thay cho kênh Tuần Thống-T5). 

Hàng loạt các hệ thống công trình thủy lợi ở vùng kẹp giữa hai sông (Nam-Bắc Vàm Nao) và hệ thống công trình đê vùng ven biển như khu Tiếp Nhật, đào kênh Long Phú - Lịch Hội Thượng tưới tiêu cho 1.700 ha, đào kênh Cái Xe, Hợp Thành tiêu úng, giữ ngọt cho 19.000 ha, xây cống Tiếp Nhật và An Nổ, đào kênh Phụng Hiệp - Sóc Trăng tiêu úng, giữ ngọt 21.000 ha góp phần đáng kể về phát triển kinh tế xã hội vùng bán đảo Cà Mâu. Chỉ tính riêng đến năm 1980, ĐBSCL đã đắp được 14 hệ thống đê ngăn mặn cho 650 nghìn ha và 5 hệ thống đê bao bảo vệ lúa Hè Thu, đầu tư nạo vét khôi phục 75 kênh trục lớn, dẫn nước tưới cho 450 nghìn ha, xổ phèn 300 nghìn ha.

Trong thâm canh, theo ước tính của các chuyên gia nông nghiệp nhờ có công trình thủy lợi tăng 30% năng suất. Nhờ có thủy lợi mới tăng vụ và phát huy hiệu quả các biện pháp kỹ thuật như sử dụng phân bón, thuốc diệt cỏ vv...  Đó là những thành tựu kinh tế quan trọng, vẫn bảo đảm không gây tác động xấu đến môi trường nhờ áp dụng kết quả triển khai tính toán khoa học nghiêm túc.

Anh Nguyễn Minh Nhị (Bẩy Nhị) nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, một nhà quản lý am hiểu sâu sắc thực tế ở ĐBSCL để lại nhiều dấu ấn trong qúa trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Năm 1988 khi còn làm giám đốc Sở Nông nghiệp An Giang, tại hội nghị ngành nông nghiệp tỉnh, Anh Bảy Nhị đã  phát biểu khẳng định "Thành quả cách mạng sau giải phóng miền Nam chỉ còn lại là các công trình thủy lợi. " và trong thực tế Anh Bẩy Nhị cũng chủ trương lấy thủy lợi làm khâu đột phá cho chuyển vụ, khai hoang, tăng diện tích sản xuất. Khi làm Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp cũng chủ trương lấy tưới - tiêu làm "khâu đột phá. 

Tôi mới nhận được  email của Anh Bẩy Nhị  vào sáng 2 tết Mậu Tuất rất đáng suy ngẫm nguyên văn như sau: ‘‘Trừ các công trình ngăn mặn tôi không biết, còn lại, tôi khẳng định thủy lợi - tưới tiêu, đê bao phục vụ sản xuất lúa hai vụ ở tỉnh An Giang là hoàn toàn phù hợp hoàn cảnh sống của con người ở đây và cũng thuận với thiên nhiên. Tôi không hiểu nhiều về khoa học nên không bao giờ dám viết bài về khoa học kỹ thuật mà chỉ dám viết dạng báo chí: Thời sự, tổng hợp - chính luận, tùy bút... Ngược lại, người làm khoa học leo ra ngoài lề dễ bị "việt vị" hoặc khoa học không gắn với đời sống thì cũng "không đất sống". Về quản lý, tôi tự hào là người đầu tiên làm đê bao kết hợp giao thông nông thôn và nội đồng, đưa sản xuất lúa lên 2 vụ/năm. Tôi cũng cho chủ trương làm đê bao khép kín, qui hoạch sản xuất vụ 3 ở An Giang 80 ngàn ha là không sai. Nếu nước biển dâng như người ta nói thì bờ bao nầy giữ nước ngọt, đẩy mặn hoặc ngăn mặn xâm nhập là tuyệt vời!” . 

Nhận thức và sự lựa chọn giải pháp thích hợp


Tôi đồng tình chia sẻ với quan điểm của tác giả Ngô Thế Vinh về cống Vàm Cỏ. Thập niên 90, Bộ Khoa học và Công Nghệ (KHCN) và Bộ NN & PTNT đã đề xuất  đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, ban chủ nhiệm đề  tài kết luận đề xuất xây dựng cống Vàm Cỏ. Tôi nhớ hồi ấy, khi làm việc trực tiếp với anh Hai Tiếp (Bí thư tỉnh ủy Long An), anh Nguyên - Phó chủ tịch tỉnh phụ trách nông nghiệp và phát biểu ở hội thảo (cũng như viết bài phản biện) tôi phân tích kết quả về bài toán thủy lực, về tác động môi trường…, cũng không tán thành quan điểm làm cống Vàm Cỏ. Cho nên tôi thấy ý kiến trong bài báo của tác giả Ngô Thế Vinh cũng là dễ hiểu.

Tác giả Ngô Thế Vinh phân vân, nghi ngờ về tính hiệu qủa của công trình Cái Lớn - Cái Bé (dự kiến đầu tư hơn 3000 tỷ đồng) là chính xác, mặc dù nhận định của tác giả chỉ là định tính chưa có định lượng. Theo tôi hiểu, quy mô, vị trí hệ thống công trình này, phụ thuộc vào cơ cấu bố trí sản xuất của các tỉnh chủ yếu là Kiên Giang và Cà Mâu. Mặn xâm nhập từ biển phía Tây theo sông Cái Lớn và Cái Bé yếu hơn xâm nhập mặn từ biển Đông. Khu vực phía nam sông Cái Lớn (thuộc Kiên Giang và bắc Cà Mau) mặn ngọt luân phiên (mặn mùa khô/ ngọt mùa mưa nhờ nuớc mưa và nuớc từ sông Hậu) vì vậy nếu mùa mưa trồng lúa/ mùa khô nuôi tôm sẽ giảm áp lực nhu cầu nuớc ngọt hơn so với canh tác 2 vụ lúa và giải pháp thuỷ lợi cũng cần điều chỉnh cho phù hợp. Đây là lý do cần tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn đánh giá “được và mất” về dự án cống Cái Lớn và cống Cái Bé trước khi cho chủ trương đầu tư.

Những người am hiểu thời cuộc đều biết làm giao thông, xây dựng và thủy lợi từ trước tới nay trên ĐBSCL là phục vụ đa ngành, trong đó có nông nghiệp. Trong nông nghiệp có cây lúa, cây màu, hoa quả, con tôm, con cá, con vịt, con bò, con trâu... cho nội địa và xuất khẩu, nhưng mỗi loại cây trồng hay vật nuôi đòi hỏi có điều kiện môi trường khác nhau, đôi khi đối nghịch nhau. Các châu thổ lớn trên thế giới dù có nuôi tôm, nuôi cá, trồng màu, trồng lúa, hoa quả..., thì đều phải làm thật tốt phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi đến tận từng chân ruộng, đảm bảo cơ động vững chắc cho chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi theo đà tiến bộ của khoa học công nghệ và biến động của thị trường trong nước và thế giới. Cho nên phát triển đa ngành khi khai thác vùng cho một ngành thì rất dễ gây tác động xấu đến phát triển ngành khác; cần phải có những tính toán lựa chọn phương án thích hợp, có lợi nhất.

Trước năm 1995, con giống cá tra, cá basa trên ĐBSCL cũng chưa làm ra được,  nói gì đến giống tôm cao cấp; hơn nữa, thực tế thị trường xuất khẩu thủy sản thời ấy còn cực kỳ khó khăn và quá nhỏ hẹp, do chính sách cấm vận của Mỹ kéo dài đến năm 1994 và dư âm ảnh hưởng của nó còn lây lan đến mãi sau năm 2000.

Sau năm 1995, nhờ sự phát triển của cây lúa và thị trường tiêu thụ lúa trong và ngoài nước, ta vượt qua được ngưỡng tích lũy tối thiểu bằng nông nghiệp, kết hợp với việc Mỹ bỏ chính sách cấm vận, cùng với các điều kiện quốc tế thuận lợi khác, nông dân ĐBSCL đã chuyển dần sang làm thêm con cá, con tôm xuất khẩu, hàng ngàn bè cá tra, basa to nhỏ nối đuôi nhau dọc sông Tiền, sông Hậu, kênh rạch đến mức gần như đã vượt quá giới hạn cho phép về khai thác diện tích mặt nước sông ngòi dành cho nuôi trồng thủy sản.

Sau thời ấy, ngoài việc khai thác mặt nước sông ngòi nuôi trồng thủy sản đến mức “cạn kiệt”, dân ta đã “mổ xẻ” mặt bằng đồng ruộng của cây lúa biến thành hàng vạn cái ao lớn nhỏ khác nhau nuôi cá da trơn, tôm, cua, lươn xuất khẩu. Sau thời ấy, dân ta cũng đã chuyển dần gần 50% diện tích lúa vùng bán đảo Cà Mau sang nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ. Ngành thủy lợi cũng chuyển đổi tư duy từ ngăn mặn (làm đập) sang kiểm soát mặn (làm cống điều tiết mặn theo 2 chiều) phục vụ cho cơ cấu sản xuất cây trồng, vật nuôi có nghĩa là đã coi mặn cũng là tài nguyên. 

Nguồn xuất khẩu thủy sản ĐBSCL cũng trải quả những bước thăng trầm “ngoạn mục” theo nhu cầu thị trường thế giới, chứ đâu phải lúc nào cũng mát mái, xuôi chèo?

Cống đập ngăn mặn – cần tính toán và thiết kế phù hợp

Ngay cả cách mạng xanh hồi 1950-1960 đã giúp sản lượng nông nghiệp theo kịp sự tăng trưởng dân số ở rất nhiều nước, nhất là giải quyết lương thực cho nước đông dân như Ấn Độ, cũng có các ảnh hưởng sinh thái và xã hội rất lớn, nên bên cạnh các ý kiến ca ngợi nồng nhiệt, vẫn có các chỉ trích dữ dội.

Việc ngăn mặn ở ĐBSCL đã được thực hiện ngay cả trước khi thống nhất đất nước. Đã có những dự án ngăn mặn như Tiếp Nhật ở Sóc Trăng do Nhật tài trợ, Gò Công do ADB (Ngân hàng Á châu) đầu tư v.v... Dự án ngăn mặn lớn nhất trước 1975 có lẽ là dự án ngăn mặn cửa Mỹ Thanh mà vật liệu để xây dựng đã được chuẩn bị từ thời Pháp, nhưng sau 1975 dự án này không được thực hiện vì chi phí lớn lúc đó và các tác động môi trường vùng ven biển (sau các đánh giá của ESSA Ltd. Canada năm 1989)- Thời kỳ này, tôi đang làm chuyên gia môi trường ở Ban thư ký sông Mekong nên đã nhiều lần cùng tham gia đi khảo sát thực địa ở bán đảo Cà Mâu và đánh giá về EIA (tác động đến môi trường) của công ty ESSA Canada gồm các chuyên gia như Nick Sontag, Peter Macnamee và Ron Livingston v.v...)

Trước đây, khi nói đến phát triển thủy lợi là người ta nghĩ đến giải pháp công trình (kênh, cống, đập, trạm bơm…) nhưng sau khi các hiểu biết và bài học về tác động môi trường đã được nâng cao, các giải pháp phi công trình (thay đổi hệ thống canh tác và thời vụ, tưới tiết kiệm…) cũng đã được xem xét ưu tiên.

Trong quá trình phát triển ở ĐBSCL, chúng ta cũng rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đó là: không coi nước mặn là tài nguyên (để nuôi tôm nước lợ) nên ở vùng ven biển thời kỳ đầu chỉ đắp đập ngăn mặn, chứ không phải kiểm sóat mặn, cho nên có làm cống cũng thiên về 1 chiều (không phải cống 2 chiều). Hệ thống công trình thủy lợi hiện hữu phục vụ cho cây lúa là chủ yếu, đầu tư chưa đồng bộ khép kín, yêu cầu về quản lý nước, cấp thoát nước đối với nuôi trồng thủy sản chưa đủ năng lực phân chia ”mặn-ngọt”  như ở vùng Bắc Bến Tre, vùng Quản Lộ - Phụng Hiệp. Hệ thống cống  tự động 1 chiều, không vận hành cưỡng bức được nên không chủ động cấp thoát nước theo yêu cầu của nuôi trồng thủy sản, kênh cấp thoát nước kết hợp, dễ gây nên ô nhiễm môi trường nước. Sông rạch, nhiều vùng giáp nước gia tăng mức độ ô nhiễm và bồi lắng vv...   

Bài học về đầu tư không đồng bộ đã được nhiều nhà khoa học cảnh báo từ lâu rồi. Tôi vẫn còn nhớ cách đây khoảng hơn 20 năm, ông Võ Văn Kiệt hỏi tôi về quan điểm đề xuất của nhóm chuyên gia GSVS Nguyễn Văn Hiệu, GS Nguyễn Sinh Huy và PGS Hồ Chín  về xây cống âu thuyền ở Tắc Thủ để kiểm soát mặn. Tôi không tán thành, ông Kiệt nói với TS Vũ Đức Đam (trợ lý) gọi điện mời tôi ra Văn phòng Chính phủ gặp trực tiếp ông Võ Văn Kiệt và ông Nguyễn Tấn Dũng để lắng nghe ý kiến xử lý dứt điểm việc thuê đất trồng rừng 40.000 ha của công ty Kiên Tài (Đài Loan) ở Tứ giác Long Xuyên ảnh hưởng đến thoát lũ và việc xây cống âu Tắc Thủ. Tôi trình bày kết quả bài toán thủy lực xâm nhập mặn, để bảo vệ quan điểm chỉ ủng hộ làm công trình Tắc Thủ nếu được đầu tư đồng bộ với cống Xẻo Xô, cống Biển Nhị vv... để khép kín, không bị mặn tập hậu. Sau đó, ở hội thảo tại TP.HCM, tôi cũng trình bày lại đúng quan điểm nói trên. Do ngành giao thông hồi ấy còn thừa nguồn vốn ODA của dự án WB, nên đã sử dụng 5 triệu đô la Mỹ xây cống âu thuyền Tắc Thủ. Kết quả sau đó, thực tế đúng như tôi đã cảnh báo công trình này bị bỏ hoang, lãng phí vì mặn tập hậu.

Các công trình ngăn mặn xây dựng trước đây là trong giai đoạn trước 1990 Việt Nam đang cần tăng sản lượng lúa gạo nên hoàn toàn phù hợp cho giai đoạn đó. Hiện nay, nhu cầu tăng sản lượng lúa gạo không còn nữa, nên có thể không cần ngăn mặn như vậy nữa, hoặc nếu có thì khi nào mới cần làm. Đó là câu hỏi dành cho các nhà hoạch định chính sách phát triển ở ĐBSCL.

Xin lưu ý, việc kiểm soát mặn chủ động ở vùng nuôi trồng thủy sản cũng vẫn phải cần cống 2 chiều và nguồn nước ngọt để pha loãng độ mặn theo chu kỳ sinh trưởng của con tôm và nhu cầu sinh hoạt của người dân. Cần tránh khai thác qúa mức nước ngầm cho nuôi tôm gây nên hiện tượng sụt lún đất và ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên nước ngầm. Đối với các con kênh ở vùng triều, nếu ở cả 2 đầu kênh có cống kiểm soát nguồn nước thì lưu lượng lớn nhất và lưu lượng nhỏ nhất sẽ bị giảm nhưng lưu lượng trung bình lại tăng lên nhờ điều tiết chủ động.

Quan điểm và sự cấp thiết bảo tồn thiên nhiên

Dù  dân số tăng cao, đất chật người đông, cộng thêm nhu cầu phát triển kinh tế nên phải khai thác tài nguyên đất và nước ở ĐBSCL, nhưng để lưu giữ cho các thế hệ mai sau về vùng Đồng Tháp Mười tự nhiên, dưới thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có quyết định cho thành lập khu bảo tồn sinh thái quốc gia Tràm Chim hơn 7000 ha để mãi mãi Đồng Tháp Mười không chỉ có “đẹp nhất hoa sen” mà còn đẹp mãi và giầu có nữa vì có những Tràm Chim huyền bí và thơ mộng.



Ảnh trên mạng: Sếu đầu đỏ ở khu bảo tồn quốc gia Tràm Chim

Thực ra, ở đây không chỉ có “tràm” và không chỉ có “chim”, nhưng vì đó là hai loại sinh vật tiêu biểu cho vùng đất nên đã được dùng để cho dễ gọi, dễ nhớ! Mà quả thật, chỉ lần đầu qua đây, tôi đã không thể quên vẻ đẹp hoang sơ đến kỳ diệu của Tràm Chim. Chiều xuống, mặt trời khuất phía biên giới xa xa, trên nền đỏ tía của chân trời nổi bật những mảng đen xẫm của rừng tràm như những nét cắt vội vàng đầy ngẫu hứng của một họa sĩ. Trên cái nền của bức tranh đó bỗng nổi lên râm ran tiếng kêu của hàng trăm, hàng ngàn con chim. Dưới nắng chiều đang lụi nhanh, trên  những thảm cỏ năng ven kênh, từng đôi ba con sếu đang thong thả trình diễn điệu múa gọi bạn độc đáo. Những con sếu cái thu mình, vươn cao cái cổ kênh kiệu và những chú sếu đực vừa giang rộng đôi cánh, vừa đảo đôi chân xung quanh “người tình”. Người ta nói những khi “tình tự” chỉ có sếu đực là vỗ cánh, đôi cánh mạnh mẽ, hào hiệp và duyên dáng vô cùng.

Bức tranh thiên nhiên ấy chỉ là bề nổi của một vùng đất ngập nước có một hệ sinh vật phong phú gồm 130 loài thực vật khác nhau, là nơi cư ngụ của trên 100 loài động vật có xương sống, 40 loài cá, 147 loài chim nước, trong đó có 13 loài chim quý hiếm, đặc biệt là “sếu cổ trụi” là loại được quốc tế đưa vào “sách đỏ”  cần đặc biệt bảo vệ.

Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện là thành viên trong đoàn đi khảo sát với tác giả Ngô Thế Vinh vừa qua, là người hiểu rõ về ý nghĩa và giá trị của khu bảo tồn Tràm Chim này và vai trò khởi đầu của tổ chức bảo vệ sếu quốc tế (ICF). Năm 1991, khi tôi sang Mỹ để trình bày báo cáo ở hội thảo quốc tế về chất lượng nước ở  Madison Wisconsin gặp Nguyễn Hữu Thiện đang học thạc sĩ ở đây. Hai anh em có dịp cùng đi thăm khu bảo vệ sếu của ICF ở Mỹ. Khi về nước, thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện là người có nhiều gắn bó với khu bảo tồn đất ướt Tràm Chim.

Các hạt sạn trong bài viết của tác giả Ngô Thế Vinh

Nước ta đất chật, người đông, do nhu cầu kinh tế, phải khai thác tài nguyên đất nước để phát triển. Không thể lấy lý do “người nông dân Miền Tây đã quen chung sống với nhịp đập thiên nhiên ấy” để từ chối cải tạo thiên nhiên (nếu nó không thuận lợi) để thiên nhiên phục vụ con người tốt hơn. Hãy nhìn người Israel cải tạo sa mạc và trồng trọt trên sa mạc, bắt sa mạc mang lại lợi nhuận mà học tập.
Tác giả viết “Sông Ba Lai ngừng chảy. Thay vì biến sông Ba Lai thành một hồ nước ngọt thì cư dân Bến Tre phải sống với nước sông Ba Lai mặn hơn trước kia nhất là vào mùa khô. Hậu quả là tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt, đưa tới tình cảnh bệnh viện lớn nhất Bến Tre mỗi ngày được xe tải cung cấp 10 mét khối nước ngọt chỉ đủ cho các khoa phòng chia nhau từng lít nước, còn người dân thì sống trong tình trạng thiếu nước ngọt kinh niên, phải mua nước ngọt có khi phải trả tới 100,000 đồng VN/ mét khối”.

Tình trạng thiếu nước ngọt ở Bến Tre miêu tả như trên là chính xác nhưng xin lưu ý năm 2016 ĐBSCL đều chịu chung cảnh thiếu nước ngọt vì hạn, mặn xâm nhập sâu nhất so với lịch sử. Năm 2015 ĐBSCL không có lũ, sang mùa khô 2016  là năm thời tiết cực đoan, hạn hán và xâm nhập mặn sâu xảy ra khắp nơi trên đồng bằng. Bến Tre cũng bị ảnh hưởng từ bất lợi này. Không thể lấy một hậu quả gây ra bởi thời tiết cực đoan để cho là do lỗi của cống đập Ba Lai, không có luận chứng mà chỉ võ đoán.

Những năm mặn trung bình hơn ½ diện tích tỉnh Bến Tre thường xuyên bị xâm nhập mặn, nhiều lúc mặn 4g/l lên đến tận An Hóa. Từ khi có cống đập Ba Lai tình hình kiểm soát  mặn đã khác hẳn trước đây, cấp nước ngọt chủ động cho các huyện Giồng Trôm, Ba Tri và một phần của huyện Bình Đại (mặc dù hệ thống công trình chưa khép kín).


Ảnh trên mạng : Cống đập Ba Lai

Về nguyên tắc nguồn mặn xâm nhập chính từ biển đông đã được cống đập Ba Lai kiểm soát nhưng lòng hồ vẫn bị mặn do thiếu vốn, hệ thống công trình thủy lợi chưa đầu tư đồng bộ khép kín nên bị mặn tập hậu. Nếu không có cống đập Ba Lai thì mặn còn xâm nhập sâu hơn nữa, chỉ cần làm bài toán thủy lực 1 chiều là rõ ngay hiệu qủa kiểm soát mặn khi có và không có cống đập Ba Lai. JICA (Nhật Bản) đã rà soát lại, thấy rõ tác dụng của hệ thống công trình thủy lợi Ba Lai đã quyết định sẽ tiếp tục đầu tư xây dựng các cống Chẹt Sậy, Gia Hòa, Bến Tre cùng với nguồn vốn của Chính phủ để khép kín việc kiểm soát mặn ngọt ở vùng này.

Tác giả cũng đưa ra hình ảnh sông cạn đáy thật ấn tượng nhưng liệu hiện tượng cạn đáy đó có phải là do con người hay là chuyện tự nhiên. Các kênh rạch của Venice cũng cạn đáy (hình dưới https://baomoi.com/hang-loat-kenh-dao-o-venice-can-tro-day-sau-sieu-trang/c/24838694.epi) mà có phải do con người can thiệp đâu. Vì vậy, tác giả nên có một chứng minh rõ ràng hơn về nguyên nhân cạn đáy ở các hình đã dẫn ra trong bài viết.


Tác giả đã đưa ra thông tin là “biển dâng được dự đoán với vận tốc 5 cm/năm”. Đây có lẽ là điều không tưởng. Nên chăng tác giả cần đưa minh chứng? Theo kịch bản “lạc quan” nhất, tới 2100, nước biển dâng thêm khoảng 51 – 106cm so với thời kỳ 1980 – 2000 (kịch bản RCP 8.5, phiên bản 2016). Nghĩa là bình quân 0,51 – 1,06cm/năm. Và tốc độ tăng trong những năm đầu thế kỷ nhỏ hơn những năm sau.

Ngoài ra, tác giả viết “với gần 2 triệu người di cư ra khỏi ĐBSCL trong hai chục năm qua, nhưng vẫn chưa hề có cuộc điều tra cơ bản nghiên cứu về những nguyên nhân ra đi của họ” nhưng sau đó lại nhập xem chuyện “2 triệu người di cư ra khỏi ĐBSCL” như là một hậu quả của những công trình như Ba Lai. Điều đó không có cơ sở thuyết phục. Thực ra xu hướng thoát ly nông thôn, tụ về thành phố là phổ biến khắp nơi trên thế giới trong giai đoạn nền kinh tế thực hiện công nghiệp hóa, giảm tỷ trọng nông nghiệp và nguyên nhân của hiện tượng này đã được nhiều nghiên cứu làm rõ. Và điều chắc chắn là cống đập “Ba Lai” chưa từng được xác định là lý do của xu hướng di dân đó.

Sự băn khoăn lo ngại của tác giả Ngô Thế Vinh về người lãnh đạo Bộ NN & PTNT và lực lượng cán bộ kỹ thuật triển khai công tác nông nghiệp-thủy lợi từ Miền Bắc dẫn đến những quyết định về chủ trương và giải pháp khai thác không phù hợp ở ĐBSCL là chưa chuẩn xác. Như đã phân tích ở trên, vai trò của nhân lực là kiến thức cho việc tiến hành thu thập xây dựng cơ sở dữ liệu và áp dụng phương pháp phân tích khoa học với chuẩn mực quốc tế đóng vai trò quan trọng cho giải quyết nhiệm vụ khai thác góp phần phát triển kinh tế ở đây. Những kinh nghiệm sản xuất  truyền thống của người dân Nam bộ cũng như sử dụng nhân lực, chuyên gia tại chỗ cũng luôn được duy trì và chính là một trong các tham số của cơ sở dữ liệu của các phương pháp tính toán.

Không có gì hoàn hảo cả, nhất là khi phải xây dựng các công trình trên một dòng sông. Bất kỳ một tác động nào đến dòng sông đều có hai mặt nhưng không phải vì thế mà cho rằng không được xây dựng công trình ngăn mặn, chống lũ, hạn chế xói lở,… (đê, kè, cống, đập,…). Cũng đừng “quy chụp” từng thời ông Bộ trưởng, hay thứ trưởng,… bởi lẽ những công trình mang tính chiến lược, quan trọng này phải trải qua rất nhiều cuộc họp, hội thảo giữa các ngành, các bộ, các địa phương vùng dự án, sau đó mới đến các bước rà soát, thẩm tra, thẩm định theo quy trình dự án.

Lời kết

Ở thời kỳ Hội nhập thế giới về cả chiều sâu và chiều rộng hiện nay các vấn đề kinh tế xã hội không còn là đối tượng riêng của một quốc gia mà luôn được tính toán tác động ảnh hưởng tới khu vực lân cận kể cả ở ngoài phạm vi lãnh thổ. Khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội luôn có hai mặt tích cực và tiêu cực đến môi trường và ảnh hưởng đến các ngành kinh tế khác cần được nghiên cứu cơ sở dữ liệu đầy đủ nhất có thể và phải được phân tích bằng các phương pháp khoa học có đủ độ tin cậy để từ đó lựa chọn giải pháp, quyết định triển khai thực tiễn với lợi ích thu được tốt nhất và hạn chế ảnh hưởng xấu thấp nhất.

Đọc cả bài “Cống đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và cái giá phải trả” cho thấy tác giả mới chỉ đưa ra những nhận định mang cảm tính, trực quan của cá nhân dựa trên chuyến đi thực tế cùng một số chuyên gia quen biết, chưa có một phân tích, một đánh giá nào mang tính khoa học, định lượng,….Chưa thấy một con số một đoạn viết nào có nội dung khoa học chứng minh về nhận định của tác giả.

Nhìn lại lịch sử phát triển của ĐBSCL, mà mục tiêu là phát triển lương thực để cứu đói, phải ngọt hóa để sản xuất lúa đã hoàn thành vai trò lịch sử của nó. Nhận thức là cả quá trình, người dân Nam bộ cũng như các nhà khoa học đã chuyển tư duy làm đập ngăn mặn sang làm cống 1-2 chiều kiểm soát mặn, coi mặn cũng là tài nguyên. Ngày nay, với yêu cầu phát triển bền vững và phòng tránh thiên tai cần rà soát lại tiêu chí của hệ thống công trình và phi công trình, nhằm nâng cao đời sống nhân dân và hạn chế can thiệp đến tác động môi trường ở ĐBSCL.

Vừa rồi, tôi có dịp xem phóng sự VTV1 nói về tác động của các công trình thủy điện sông Mekong đối với ĐBSCL, một số nhà khoa học cảnh báo nguy cơ có khi lưu lượng về ĐBSCL gần bằng 0! Đây là ý kiến của những người thích “chém gió” không có kiến thức cơ bản về thủy văn, thủy lực dòng chảy trên sông.

Nghị quyết gần đây của Chính phủ có tinh thần cơ bản nhấn mạnh trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tác động của hệ thống đập thủy điện thượng nguồn sông Mekong và tác động của địa chính trị kinh tế thế giới có nhiều biến động, trong đó có thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản..., đang ngày càng ảnh hưởng mạnh đến ĐBSCL, do đó cần tích cực điều chỉnh lại sách lược và chiến lược thích hợp để chủ động tiếp tục phát triển kinh tế ĐBSCL theo hướng ổn định và bền vững. Có thể  hiểu một cách nôm na : ”Thị trường là mệnh lệnh của sản xuất” theo chuỗi giá trị hàng hóa, cho nên ĐBSCL đã thay đổi thứ tự ưu tiên trong sản xuất nông nghiệp: thủy sản, cây ăn trái, lúa.

T.V.T.
Tác giả gửi BVN






Cống đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và những cái giá phải


Water, water, every where,
Nor any drop to drink.
Samuel Taylor Coleridge [1772-1834]

Thế kỷ 21 của tỵ nạn môi sinh, đã có 2 triệu người
phải rời bỏ quê hương ĐBSCL ra đi tìm kế sinh nhai

Ngô Thế Vinh

Gửi Nhóm bạn Cửu Long




Hình 1: Hình ảnh một dòng sông đang chết dần; cũng để hiểu tại sao đã có 2 triệu người phải rời bỏ quê hương ĐBSCL đi tìm kế sinh nhai; từ phải: TS Lê Anh Tuấn, Th.S Nguyễn Hữu Thiện. [photo by Ngô Thế Vinh]

Xứ sở cây thốt nốt và người Khmer hiền hoà

Tới An Giang, tới hai quận Tịnh Biên và Tri Tôn không thể không thấy hàng cây thốt nốt nổi bật trên những cánh đồng lúa xanh. Cây thốt nốt thuộc họ cau, tên khoa học Borassus flabellifer, có nhiều ở các nước Đông Nam Á. Cây thốt nốt sống cả trăm năm dài hơn tuổi thọ một đời người. Thân cây thẳng và cao tới 30 mét. Cây đực không trái, cây cái cho tới 60 trái mỗi cây. Trái thốt nốt có vỏ xanh đen, nhỏ hơn trái dừa bên trong có những múi trắng mềm, ngọt và mát. Hoa cây thốt nốt cho nước ngọt có vị thơm, có thể nấu thành đường, ngon hơn đường mía. Nếu Quảng Ngãi, quê Hương Nghiêu Đề bạn tôi, từng nổi tiếng về đường phổi, đường phèn thì An Giang, vùng Tịnh Biên Tri Tôn nổi tiếng với đường thốt nốt. Chè đậu xanh nấu với đường thốt nốt ngọt dịu và rất thơm ngon. Hình như tất cả mọi thành phần cây thốt nốt đều có công dụng: thân làm cột nhà, lá dùng lợp mái. Trong nền văn hóa cổ Khmer, các Chùa chiền còn lưu giữ được những văn bản viết trên lá cây thốt nốt. Cây thốt nốt cũng được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp [Hình 2].



Hình 2: Hàng cây thốt nốt đứng soi bóng bên hồ nơi khu đền đài Angkor;
cây thốt nốt được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp [Tư liệu Ngô Thế Vinh].

Khắp xứ Chùa Tháp xuống tới Đồng bằng sông Cửu Long, đi đâu cũng chỉ gặp những người dân Khmer hiền hòa, và rồi không thể nào hiểu được những gì đã xảy ra giữa họ và những người Việt trong quá khứ. Chỉ có thể giải thích họ là một đám đông nạn nhân của những khích động thù hận mà động cơ là những mưu đồ chánh trị đen tối.

Trong y khoa, khi khảo sát não trạng vô thức của đám đông, qua nghiên cứu hành vi/ behavior của loài cá, khoa học gia Đức đã làm một thử nghiệm: thả một con cá bị huỷ não bộ vào một hồ cá, không có gì ngạc nhiên là con cá ấy mất định hướng bơi tán loạn, nhưng điều kỳ lạ là đàn cá lành mạnh thì lại ngoan ngoãn bơi theo con cá mất não ấy. Phải chăng "thử nghiệm hành vi" của nhà khoa học Đức, đã phần nào giải thích hiện tượng cả một dân tộc Đức văn minh đã có một thời kỳ nhất loạt tuân theo một lãnh tụ như Hitler xô đẩy cả thế giới vào lò lửa của cuộc Thế chiến thứ Hai.









Hình 3: trên trái, hàng cây thốt nốt huyện Tri Tôn tỉnh An Giang; hình thứ nhì, bà Ngoại ngồi chặt đống trái cây thốt nốt; hình thứ ba, con gái Ngoại thì đang gỡ những múi thốt nốt trắng mềm để mời khách, đây là quán Thốt Nốt Võng cho khách đường xa ghé uống ly nước thốt nốt mát và tạm ngả lưng; từ phải, TS Lê Anh Tuấn, TS Dương Văn Ni, TS Lê Phát Quới, Th.S Nguyễn Hữu Thiện, KS Phạm Phan Long; trên mặt bàn là hộp đường thỏi thốt nốt [Photo by Ngô Thế Vinh & Phạm Phan Long].





Hình 4: trên, được ăn những chiếc bắp nóng trên đường đi, phải, vựa dứa thơm ngon nổi tiếng quận Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, từ dưới: TS Dương Văn Ni, Ngô Thế Vinh, TS Lê Phát Quới [Photo by Ngô Thế Vinh, Nguyễn Văn Hưng].





Hình 5: trên, những giề lục bình phủ kín kinh rạch do nước tù đọng; dưới, cảnh khói đồng do nông dân đốt rạ và dùng tro than như phân bón thiên nhiên.






Hình 6: hình giữa, cùng bác nông dân với bài học đập lúa đầu tiên trên ĐBSCL, kết quả người viết bị đánh rớt / disqualified ngay, vì đập không hết hạt và lúa thì vương vãi ra tứ tung, học làm nông dân khổ và khó lắm [Photo by Nguyễn Văn Hưng].





Hình 7: trên, từ ruộng hành xã Vĩnh Hải huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng những thố hành tím được chất thành ngọn lên xe tải để phân phối tới các chợ; dưới: TS Lê Anh Tuấn đứng bên túi trữ nước ngọt lấy từ giếng bơm, anh Lê Anh Tuấn cũng cho biết: 100% nước tưới ruộng hành được lấy từ các giếng bơm [Photo by Ngô Thế Vinh].

Có một nền văn hoá nước lợ

Trên đường dọc theo Sông Hậu, xe dừng lại Hộ Phòng là một phường của thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Xuống xe đi bộ lên chiếc cầu xi măng có tên Hộ Phòng 2, bắc qua con kênh lớn Gành Hào [được xây từ năm 2011 do quỹ ODA/ Official Development Assistance của Nhật].

Bấy lâu, các chuyên gia Bộ Nông nghiệp từ ngoài Bắc vào vẫn có cái nhìn rất giản đơn về hệ sinh thái sông nước Cửu Long: họ chỉ thấy có triều cường và triều kiệt. Rồi đề xuất kế hoạch làm những cống đập chặn triều cường để ngăn mặn giữ ngọt. Từ suy nghĩ giản đơn ấy, họ đã và đang gây ra bao nhiêu hệ luỵ cho hệ sinh thái ĐBSCL như hiện nay.

Đoàn đứng trên cầu phía hướng ra Biển Đông, nơi có cống đập ngăn mặn. Ngoài mặn trong ngọt. Anh Dương Văn Ni sinh ra và lớn lên từ vùng sông nước Miền Tây, khi nói về nhịp đập của hệ sinh thái ĐBSCL, anh Ni thông thuộc như với đường chỉ tay của chính mình; với một giọng thuần Nam Bộ trầm tĩnh bắt đầu một bài giảng:

"ĐBSCL chỉ nói riêng phía Biển Đông, không đơn giản chỉ có triều cường và triều kiệt. Hỏi người nông dân thì họ biết rất rõ. Thuỷ triều từ Biển Đông là bán nhật triều, sáng và chiều hai lần trong ngày; hai lần nước lớn tiếp theo hai lần nước ròng, mực nước lên xuống bốn lần trong một ngày. Trong tháng, người nông dân biết chừng nào thì "nước rong" vào ngày rằm, khi nào "nước kém" vào cuối tháng âm lịch. Trong năm, thì họ có mùa "nước nổi" và mùa "nước hạn".

Từ mấy trăm năm, trải qua bao thế hệ, người nông dân Miền Tây đã quen chung sống với nhịp đập thiên nhiên ấy của những dòng sông: trong ngày, trong tháng, trong năm và đã hình thành một nền "văn minh sông nước." Họ đã quen chung sống với cả ba tình huống: nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Lãnh đạo bộ Nông nghiệp đa số mang theo họ một nền văn hoá từ châu thổ sông Hồng, biết rất ít về hệ sinh thái ĐBSL vốn rất đặc thù. Với đầu óc duy lý giản đơn, với những con số thống kê, nhưng họ có biết đâu rằng chuỗi những con số đó chính là những tín hiệu đã nằm ngay trong nền "văn hoá sông nước" mà người nông dân từ đời này sang đời nọ vẫn đọc được. Người nông dân bấy lâu đã biết nương theo sức mạnh của thiên nhiên để chung sống. Văn hoá sông nước thực ra gồm bốn phần tương tác Sông-Biển-Châu thổ-Con người cùng hoà nhập nhau theo từng nhịp đập.

Một ví dụ, chỉ riêng chuyện di chuyển ghe thuyền trên sông, người nông dân biết tính trước khi nào thì cho ghe xuôi theo con "nước ròng", khi nào thì ghe ngược theo con "nước lớn", và cũng để thấy cấu trúc của lòng ghe bấy lâu là làm sao dùng sức đẩy tối ưu của dòng chảy.

Và rồi trong tháng họ biết lúc nào thì cho nước vào ruộng, khi nào thì xả, khi nào thì thả con giống cá tôm... mà không cần tốn nhiều công sức, để phải dùng gầu tát nước hay phải dùng tới máy bơm.

Chính nhịp đập của "mẹ thiên nhiên / natural pulse" là bạn đồng hành thân thiết bấy lâu của họ. Và nay thì bị phá vỡ và cắt đứt một cách thô bạo.

Cũng từ bao trăm năm, nông dân ĐBSCL biết rất rõ là sông rạch nối liền với biển, có thuỷ triều lên nên mới có được con nước lớn, và thuỷ triều xuống mới có con nước ròng, và cũng nhờ đó mà sông rạch được làm sạch, có cá tôm và đã hình thành cả một nền văn hóa sông nước.

Chúng tôi cùng hiểu rằng: với cống đập kia, con sông bị cắt làm hai: chỉ còn một bên ngọt, một bên mặn, mất hẳn một vùng nước lợ / blackish. Bên trong không còn nước lớn, nước ròng mà sông biến thành hồ tù đọng, tích luỹ đủ mọi loại ô nhiễm, và không còn cá tôm. Bên ngoài, hệ sinh thái ven biển cũng bị nghèo đi và nông ngư dân cho biết, từ ngày có cống đập không còn đâu nguồn tôm cá phong phú của cả một vùng nước lợ. Đó là chưa nói tới tình trạng gián đoạn giao thông trên sông.

Rồi anh Ni đưa ra một ví dụ rất tượng hình: "Cũng giống như khai quật được một kho tàng cổ sử, người không chuyên môn thì chỉ thấy được đó là những mảnh đá mảnh sành, cùng lắm là thấy thêm được mấy nét vẽ ngoằn ngoèo vô nghĩa trên đó, nhưng với con mắt của nhà khảo cổ thì khác, đó là dấu vết và tín hiệu của cả một nền văn minh".

Và tôi cũng hiểu rằng, bấy lâu với các chuyên gia nông nghiệp từ ngoài Bắc vào, chưa từng chung sống và chết với nền văn minh sông nước ấy, họ đã có những chánh sách can thiệp thô bạo chống lại mẹ thiên nhiên để phải trả giá rất đắt và nạn nhân không ai khác hơn là chính ngót 20 triệu cư dân phải ngày đêm sống với những bất cập ấy như hiện nay.







Hình 8: trên, Cầu Hộ Phòng II là cây cầu mới trên khúc đường vòng/ detour, (do quỹ ODA / Official Development Assistance của Nhật xây 2011, còn Hộ Phòng I là cây cầu cũ thì nằm trên đường thẳng của Quốc lộ). Hình thứ nhì: Đứng trên hướng ra Biển ĐôngTS Dương Văn Ni đang giảng về "có một nền văn hoá nước lợ"; từ trái: TS Dương văn Ni, KS Phạm Phan Long, TS Lê Anh Tuấn, TS Lê Phát Quới, hình thứ 3: cống đập chặn mặn không xa biển trên con kênh Gành Hào, với bên ngọt bên mặn và một mai không còn đâu nét văn hoá của một vùng nước lợ / blackish; hình cuối: cống đập chặn mặn chặt đứt hệ sinh thái biển và sông và cũng làm nghẽn mạch vận chuyển đường sông, kể cả với những chiếc ghe nhỏ đuôi tôm [Photo by Ngô Thế Vinh].

Công trình cống đập ba lai: một hối tiếc

Hai mươi Năm qua 1997-2017, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp, qua nhiệm kỳ của 3 Bộ trưởng:

1/ Lê Huy Ngọ, nhiệm kỳ 7 năm, 1997-2004
2/ Cao Đức Phát, nhiệm kỳ 12 năm, 2004-2016
3/ Nguyễn Xuân Cường, nhiệm kỳ 2016 đương nhiệm

Họ đến từ miền Bắc đã và đang có những quyết định phải nói là sinh tử với hệ sinh thái ĐBSCL, một vùng thổ nhưỡng phải nói là rất xa lạ với họ.

Chỉ thấy đơn giản nơi ĐBSCL có triều cường triều kiệt, coi nước mặn là kẻ thù nên đã có một chiến lược ồ ạt xây những đại công trình mà người ta gọi là Cống Đập Ngăn Mặn, mà Cống đập Ba Lai là một điển hình.

Được khởi công ngày 27.02.2000, dự án công trình cống đập Ba Lai chắn ngang cửa sông Ba Lai từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân (Ba Tri). Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng VN. Con đập dài 544 m gồm 10 cửa với khẩu độ 84 m được vận hành bằng một hệ thống van tự động hai chiều. Quy hoạch trên lý thuyết, thì cống đập Ba Lai có chức năng: ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ cho 115,000 hecta đất trong đó có 88,500 hecta là đất canh tác, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành; cùng kết hợp với phát triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án [sic].

Hai năm sau, từ ngày 30.04.2002 cống đập Ba Lai được đưa vào hoạt động, được vinh danh là một công trình thuỷ lợi lớn nhất của ĐBSCL. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 9 cửa của Cửu Long chính thức bị ngăn lại.



Hình 9: từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông Ba Lai nhánh thứ 8 bị chính con người đóng lại. Cửa Ba Thắc đã bị bồi lấp từ cả trăm năm nay, và hiện giờ Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh: Thất Long [Photo by Lê Quỳnh, báo Người đô thị].

Tính cho tới nay, cống đập Ba Lai đã vận hành được 16 năm [2002-2018], hiệu quả công trình Cống đập Ba Lai ấy ra sao? Chỉ có những lời ta thán.
Hàng trăm cống ngăn mặn không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch không có cống ngăn mặn đã tập hậu nước mặn vào bên sau hệ thống cống đập đã xây.





Hình 10: Bến Tre nước ngọt khan hiếm, phải dùng cả xe máy kéo để chở nước, có nơi dân phải mua 100,000 đồng / mét khối nước[Photo by Bình Đại, Zing VN 20.02.2016]. Bệnh viện lớn nhất tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt. mỗi ngày được xe tải cung cấp 10 mét khối nước ngọt, chỉ đủ cho các khoa phòng chia nhau từng lít nước [Photo by Mậu Trường, TTO 14.03.2016].

Sông Ba Lai ngừng chảy. Thay vì biến sông Ba Lai thành một hồ nước ngọt thì cư dân Bến Tre phải sống với nước sông Ba Lai mặn hơn trước kia nhất là vào mùa khô. Hậu quả là tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt, đưa tới tình cảnh bệnh viện lớn nhất Bến Tre mỗi ngày được xe tải cung cấp 10 mét khối nước ngọt chỉ đủ cho các khoa phòng chia nhau từng lít nước, còn người dân thì sống trong tình trạng thiếu nước ngọt kinh niên, phải mua nước ngọt có khi phải trả tới 100,000 đồng VN/ mét khối. [Tuổi trẻ online 22.02.2016].

Giải thích của nhà nước về "hiệu quả ngược" của công trình cống đập Ba Lai như hiện nay là: do thiếu vốn để làm tiếp nhiều công trình khác tiếp theo, trong đó có hai hạng mục quan trọng, đó là phải xây thêm cống đập và cả âu thuyền* trên hai con sông Giao Hoà và Chẹt Sậy vẫn tiếp tục đem nước mặn từ sông Cửa Đại đổ vào "hồ nước ngọt Ba Lai".


*Âu thuyền / canal lock: là một từ tương đối mới, chỉ một công trình chắn ngang sông hoặc kênh, có cửa hai đầu để tăng hoặc giảm mực nước, giúp cho thuyền hay tàu đi qua nơi có mực nước chênh lệch nhiều.

Theo phóng viên TTXVN Phan Văn Trí, trích dẫn: "Ông Cao Văn Trọng, Chủ tịch UBND tỉnh cho biết để thi công hai hạng mục đập và âu thuyền và một số hạng mục khác cần nguồn vốn khoảng 200 triệu USD. Vì vậy, tỉnh đã kiến nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tranh thủ nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản. Ông Trọng cũng cho biết tổ chức JICA (Nhật Bản) đã đến Bến Tre khảo sát địa điểm xây dựng đập và âu thuyền. Tuy nhiên, việc khởi công có thể còn phải chờ đến… năm 2020. Dù gì thì hình ảnh những chiếc xe máy cày hay xe bò kéo chở nước đem đổi cho người dân, với giá từ 70,000 đồng đến 100.000 đồng/m3, chắc chắn vẫn còn diễn ra trong những mùa khô cho tới 2020. Điều đáng nói là nước đó được lấy từ những chiếc giếng đào trên giồng cát, chưa qua xử lý…" [2]

Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng nay chỉ còn có 7 cửa. Nam Thất Nữ Cửu, như hình ảnh một ĐBSCL bị triệt sản. Bởi thế dân gian tỉnh Bến Tre mới có câu:

Ba Lai là cái cửa mình
Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ

Một câu hỏi được đặt ra: với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai - Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, hay Bộ Tài Nguyên Môi trường hay chánh phủ trung ương sẽ nhận trách nhiệm với phong cách "đem con bỏ chợ" như hiện nay, phải chờ cho tới 2020 cho đến khi ODA của Nhật chịu rót vốn vào?

Từ bài học thất bại của đại công trình cống đập Ba Lai, nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi sinh như một "think tank" đã không ngừng lên tiếng cảnh giác rằng: nếu không có một đánh giá môi sinh chiến lược cho toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình hạn mặn, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng xây một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái và hậu quả sẽ khôn lường.

Khảo sát của nhóm IUCN / International Union for Conservation of Nature Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên tại VN đưa ra nhận định là do hệ thống cống đập khiến hai bên bờ sông Ba Lai đang khép lại dần.

TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hận, ĐH Cần Thơ đã dùng một cụm từ rất gợi hình để chỉ hệ thống cống đập Ba Lai khi ông gọi đó là "dòng sông bị cưỡng bức". Sông nay biến thành hồ chứa, ô nhiễm thì tích luỹ nước đổi màu do rong tảo sinh sôi phía trong cống đập.

Th.S Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia về nước ngập/ Wetlands cho rằng hàng năm vào mùa mưa do lượng nước mùa lũ đổ về, toàn thể phù sa trong lượng nước đó sẽ lắng xuống đáy sông Ba Lai - nay trở thành hồ và với thời gian sông Ba Lai sẽ chết hẳn do bị bồi lấp [1].  

Khi đưa ra cái nhìn toàn cảnh hiện trạng và tương lai ĐBSCL, các anh trong đoàn đưa ra một cái nhìn tổng quan không mấy lạc quan:

Đất bị mất do sạt lở bờ sông bờ biển, trong những năm gần đây, đất bị lún với tốc độ 10 lần nhanh hơn so với nước biển dâng, và đất đai còn lại thì bị vắt kiệt. Sông ngòi ô nhiễm đủ thứ, từ nước thải sinh hoạt, công nghiệp, thủy sản đổ thẳng vào sông, cũng như lượng lớn phân bón, thuốc trừ sâu từ nông nghiệp do 3 vụ thâm canh.

Theo một nghiên cứu về lịch sử đất lún do nhà khoa học Minderhoud và một nhóm chuyên gia Hà Lan, Hoa Kỳ và Việt Nam thực hiện công bố năm 2017 trên Environmental Research Letters, độ lún và vận tốc lún tại châu thổ ĐBSCL đã xuống sâu 25 cm và thậm chí đến 50 cm theo biểu đồ KS Phạm Phan Long trích dẫn chú thích và cung cấp sau đây [Hình 10].

Trong những thập niên tới, biển dâng được dự đoán với vận tốc 0.5 cm/năm, như vậy mặt đất thấp sẽ thấp dần dưới mặt biển có thể đến 1 m trong vòng 100 năm nữa. Trước tác động kép do sinh hoạt con người và do biến đổi khí hậu, ĐBSCL sẽ rơi vào tình huống xấu nhất toàn cầu. Một đối sách có tên “ASR, aquifer storage and reuse” đang được Viet Ecology Foundation đề bạt thảo luận là lọc và trữ nước ở những túi rỗng ngầm, vừa ngăn mặn tập kích vào thềm lục địa, vừa có nước ngọt sinh hoạt canh tác và tránh cho mặt đất tiếp tục lún xuống.



Hình 11: Biểu đồ độ lún và vận tốc đất lún trong 25 năm tại Đồng Bằng
Sông Cửu Long. [nguồn: Environ.Res.Lett. 12 (2017) với ghi chú của KS Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation]. Hiện nay, rất nhiều giếng tầng nông và bơm bằng tay đều bị nhiễm mặn nhiễm phèn, nước giếng không còn dùng được, và nay người nông dân phải khoan sâu 400-500m để tìm được nguồn nước ngọt, mặt bằng ĐBSCL đang bị sụt lún nhanh chóng vì các tầng nước ngầm đang bị tận cùng khai thác.

Đã thế nhiều sông ngòi, bị kế hoạch cống đập đã biến sông rạch thành hồ tù đọng, tích lũy ô nhiễm. Nước sông ngòi không còn dùng được phải chuyển sang xài toàn nước ngầm nên tầng nước ngầm cũng cạn kiệt nhanh và đất lún.

Còn có hiện tượng "tỵ nạn môi sinh/ ecological refugees" của người dân ĐBSCL rời bỏ quê hương đi tới vùng đất khác, tha phương cầu thực. Con số gần 2 triệu người đã đi khỏi vùng đất này trong hai thập niên qua thì phải có những lý do như môi trường sống bị suy thoái, nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt.

Thủy điện thượng nguồn từ Vân Nam Trung Quốc rồi Lào làm mất ngót 90% nguồn phù sa, không có gì thay thế; biến đổi khí hậu với nước biển dâng có thể phần nào thích ứng nhưng còn vấn đề phát triển tự huỷ / destructive development do tự mình gây ra đang là một nan đề lớn do chính sách "duy lý và thiếu tầm nhìn chiến lược" đến từ trung ương đã gây nhiều tổn thương cho ĐBSCL, gây trở ngại cho phát triển.

Từ cống đập Ba Lai tới sông Cái Lớn - sông Cái Bé

Bài học thất bại của công trình thuỷ lợi Ba Lai vẫn còn đó, vậy mà, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát, một người sinh quán Nam Định từ châu thổ Sông Hồng, vẫn bất chấp mọi lời cảnh báo của giới chuyên gia, vẫn kiêu căng tuyên bố sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình cống đập lớn đến năm 2020, từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai, và xây dựng thêm các hệ thống cống đập Sông Cái Lớn, Sông Cái Bé [SCL-SCB] tỉnh Kiên Giang, được quảng bá như một công trình của Thế kỷ, với ngân khoản lên tới 3,300 tỷ đồng (150 triệu USD) với hậu quả hay thảm hoạ trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL không biết sẽ trầm trọng tới đâu.

Rõ ràng có những khoảng chống của Dự án Cống đập SCL-SCB và các câu hỏỉ:

1/ Chỉ nghe nói, bản nghiên cứu đánh giá tác động môi trường [ĐTM/ EIA] về Dự án Cống đập SCL-SCB là do Viện Kỹ thuật Biển thuộc Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thực hiện, nhưng không thấy công bố ở đâu hết, với sự không minh bạch / transparency như vậy thì làm sao có được sự góp ý của giới chuyên gia.
2/ Dự án SCL-SCB bao giờ khởi công và tình hình tới đâu chỉ diễn ra sau những cánh cửa Bộ NN & PTNT ngoài ra không có ai được biết tới để có thể theo dõi.
3/ Và cũng là điều vô cùng ngạc nhiên là với gần 2 triệu người di cư ra khỏi ĐBSCL trong hai chục năm qua, nhưng vẫn chưa hề có cuộc điều tra cơ bản nghiên cứu về những nguyên nhân ra đi của họ.



Hình 12: Sơ đồ dự án hệ thống cống đập chắn mặn trên Sông Cái Lớn-Sông Cái Bé, sẽ tác động trên 1/4 diện tích toàn ĐBSCL và ảnh hưởng tới đời sống hơn một triệu cư dân trong vùng. (6) [nguồn: Ánh sáng và Cuộc sống]

Rõ ràng Dự án cống đập Sông SCL-SCB đã thiếu hẳn một đánh giá chiến lược tác động môi trường [ĐTM/ EIA/ Environmental Impact Assessment] toàn diện và khách quan, bị ảnh hưởng bởi quan điểm của chủ đầu tư/ nhóm lợi ích chỉ để nhằm biện minh cho sự cấp thiết của dự án, trong khi mà ai cũng biết là dự án sẽ tác động tới toàn hệ sinh thái của cả một vùng rộng lớn chiếm 1/4 tổng diện tích của ĐBSCL [hơn 1 triệu hecta], ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có giải pháp rốt ráo. Và khi đã gây huỷ hoại trên hệ sinh thái thường rất khó đảo nghịch.

TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu ĐH Cần Thơ [Viện DRAGON] nhận định: cắt đứt trao đổi nước giữa sông và biển chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới canh tác sản xuất của nông dân quen sống theo nhịp thuỷ triều, giảm nguồn thuỷ sản bên trên và bên ngoài cống đập, và do nước tù đọng sẽ tích luỹ mọi ô nhiễm.

Một chuyên gia Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên ĐH Cần Thơ, nhận định về sự khác biệt của hai chế độ thuỷ triều phía Biển Đông và Biển Tây. Phía Biển Đông là bán nhật triều: nước lên xuống ngày 4 lần, trong khi Biển Tây là chế độ nhật triều, nước lên xuống ngày hai lần. Riêng vùng Tây Nam Sông Hậu chế độ thuỷ văn phúc tạp hơn nhiều, chịu ảnh hưởng của cả hai chế độ nhật triều và bán nhật triều khác nhau. Trong khi các cống đập hiện nay chỉ vận hành theo một mô hình thô thiển: đóng cổng đập khi triều cường, mở cổng đập khi triều kiệt. Hệ thống cống đập trên SCL-SCB sẽ gây rối loạn cho chế độ thuỷ văn vùng này, làm "mất lực hút-đẩy" của chế độ thuỷ văn thiên nhiên [sic] nước sẽ tù đọng tích luỹ ô nhiễm từ các chất thải nông ngư nghiệp, kỹ nghệ và cả nước thải không được xử lý đổ xuống từ các khu gia cư.

Nhân dân tỉnh Long An đã một lần nói không

TS Lê Phát Quới, người Long An, giảng dạy tại Khoa Tài nguyên & Môi Trường ĐH Quốc gia TP HCM, anh có giọng nói lớn, có nét trực tính của người dân Nam Bộ, anh nói: "Sau công trình cống đập Ba Lai, trung ương có kế hoạch xây thêm hệ thống cống đập trên cửa con sông Vàm Cỏ là kết nối của hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây thuộc tỉnh Long An. Anh Lê Phát Quới thuật lại: "Trong một cuộc họp với trung ương và cấp lãnh đạo tỉnh cùng với các nhà khoa học – trong đó có thằng Quới, anh tự gọi mình là thằng, cuộc họp có cả ông Sáu Dân tức Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó. Khi tỉnh Long An được hỏi ý kiến, thì lãnh đạo tỉnh đã có câu trả lời: sau khi phái đoàn tỉnh đi thăm cống đập Ba Lai trở về, sau khi tham khảo ý kiến nhân dân, thì toàn thể nhân dân Long An có câu trả lời là không. Lưu ý các anh, là câu trả lời không phải từ Tỉnh uỷ hay Uỷ ban nhân dân mà là toàn dân tỉnh Long An nói không. Nếu nói là Tỉnh uỷ hay Uỷ ban nhân dân, thì trung ương có thể dùng quyền lực đảng hay quyền lực trung ương để áp đặt, nhưng là tiếng nói của toàn thể nhân dân Long An thì khác. Và rồi sau đó, kế hoạch bị gác lại".
Anh Lê Phát Quới đi tới kết luận: "nếu cứ để thực hiện hệ thống cống đập trên con Sông Vàm Cỏ thì không biết tai họa cho toàn hệ sinh thái tỉnh Long An sẽ khủng khiếp như thế nào". Và anh Quới không giấu được nét hãnh diện về tiếng nói ngăn chặn kịp thời của nhân dân tỉnh hạt mình.



Hình 13: TS Lê Phát Quới, Khoa Tài nguyên Môi trường ĐH Quốc gia TP HCM [Photo by Ngô Thế Vinh].

Uỷ hội Mekong VN, vẫn mãi một địa chỉ nghịch lý

Từ sau 1975, đất nước này nói chung trong đó có ĐBSCL đang được điều hành với những "đầu óc nghịch lý".
Đứng từ trên một chiếc phà đi ngang nhánh sông Trần Đề để qua Cù lao Dung, trong ráng chiều chập choạng của hoàng hôn, tôi qua sang hỏi một anh trong đoàn: "Hỏi thật lòng anh, là hiện nay người dân ĐBSCL có cảm thấy hạnh phúc hơn không so với trước 1975". Chỉ có một câu trả lời khẳng định, nếu có thì là các gia đình không còn bị ly tán và đất nước không còn chiến tranh.

Tôi đã không hỏi anh thêm nữa vì thực sự không có được câu trả lời đơn giản. Riêng tôi thì vẫn cứ bị ám ảnh với con số đã có 2 triệu người phải từ bỏ quê hương ĐBSCL đi tìm kế sinh nhai. Cách biện minh là với 2 triệu người bỏ đi nhưng cũng có 700 ngàn người mới tới, không phải là một câu trả lời rốt ráo.



Hình 14: Vẫn một địa chỉ nghịch lý: Uỷ hội Quốc gia Sông Mekong Việt Nam, vẫn từ bao năm, vẫn toạ ngự tại địa chỉ 23 phố Hàng Tre Hà Nội, nơi châu thổ Sông Hồng cách xa ĐBSCL hơn 1,600 km, thay vì là Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu, ĐH Cần Thơ [Tư liệu Ngô Thế Vinh, photo by LN Hà].

Từ hơn hai thập niên, người viết đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ của những con đập khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc rồi tới chuỗi 9 đập thuỷ điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia: ngoài những hậu quả rối loạn về dòng chảy, mất nước nơi các hồ chứa và nhất là mất nguồn cát nguồn phù sa, dẫn tới nguy cơ của một tiến trình đảo ngược khiến một ĐBSCL đang dần dần tan rã.

Những mối nguy cơ từ thượng nguồn, gần như không làm gì được. Nhưng quá trình phát triển tự huỷ / destructive development ngay nơi ĐBSCL trong mấy thập niên qua cũng phải kể là những hệ luỵ tích luỹ tác hại nghiêm trọng trên sự sống còn của cả một vùng châu thổ. Có thể kể, từ sau 1975:

- Xây đê đắp đập chắn lũ mở rộng khu gia cư để làm lúa ba vụ làm mất 2 túi nước thiên nhiên Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.
- Xây hệ thống cống đập chắn mặn phá vỡ nhịp đập thiên nhiên của hệ sinh thái ĐBSCL biến sông rạch thành một hệ thống hồ ao tù đọng.
- Xây dựng 14 nhà máy nhiệt điện than nơi ĐBSCL gây ô nhiễm đất, nước, không khí trên toàn vùng.

Phát triển với những bước không bền vững / unsustainable development như trên đã làm tổn thương trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL và các nguồn tài nguyên thì cứ nghèo dần đi.

Để thay kết luận, người viết gửi tới ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, người thay thế Bộ trưởng Cao Đức Phát sau 12 năm tại nhiệm, câu trích dẫn và cũng là bài học đầu tiên của một sinh viên vào học Y khoa: Primum Non Nocere / First do no harm / trước hết là không gây hại. Mọi kế hoạch vội vã, thiếu thời gian cho một lượng giá chiến lược ảnh hưởng môi trường [ĐTM] khách quan, với tổn phí hàng ngàn tỉ đồng mà còn gây hại cho toàn hệ sinh thái vốn đã quá mong manh/ fragile của một vùng châu thổ mà trước đây đã từng được đánh giá là phong phú và giàu có nhất trên hành tinh này.

Qua kinh nghiệm 16 năm vận hành của hệ thống cống đập Ba Lai, để thấy rằng dù tốn hàng bao nhiêu tỷ đồng, cứ với quyết tâm làm đê ngăn mặn nhưng nước sông rạch bên trong vẫn không thể dùng được cho sinh hoạt, những công trình như thế còn khiến nước bên trong bị ô nhiễm nghiêm trọng vì dòng chảy không lưu thông, tù đọng. Xây dựng cống đập Ba Lai đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm – nếu có thiện chí sửa sai, thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng sẽ rất tốn kém và không thể mau chóng và không phải là dễ dàng.

Tiếp tục biện pháp xây dựng công trình cống đập ngăn mặn rất tốn kém sẽ cắt đứt thô bạo mối liên hệ cân bằng hệ sinh thái sông - biển - đồng bằng, qua công trình cống đập Ba lai đã chứng minh là không tạo được lợi ích và giải quyết được chuyện gì cho cư dân ĐBSCL mà còn đảo lộn điều kiện thiên nhiên, phá vỡ hệ sinh thái của cả một vùng châu thổ.

Như một nhắc nhở và nhấn mạnh, người viết ghi nhận lại nơi đây một đề nghị cụ thể với Thủ tướng Chánh phủ kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc: hãy cho hoãn ngay Dự án xây hệ thống cống đập Sông Cái Lớn - Sông Cái Bé một thời gian/ time frame ít nhất là 5 năm, trích 5% ngân sách 3,300 tỷ dự trù cho dự án để thành lập ngay một nhóm nghiên cứu ĐTM độc lập [có thể bao gồm cả các chuyên gia Hoà Lan, họ đã có kinh nghiệm và có công lớn thực hiện một số chương trình khảo sát cơ bản cho ĐBSCL], và bảo đảm rằng Đánh giá Tác động Môi trường được thực hiện một cách công tâm, thận trọng bởi những người không có liên hệ gì tới chủ đầu tư hay nhóm lợi ích, để sau thời gian 5 năm đó, nhà nước sẽ có được một bản tường trình lượng giá ảnh hưởng môi trường đầy đủ khách quan và minh bạch, với tất cả mọi tình huống pros & cons để từ đó mới có quyết định "nên hay không nên" triển khai dự án được mệnh danh là công trình của Thế kỷ ấy. Cũng trong bản tường trình ấy, cũng không thể thiếu phần điều tra cơ bản về nguyên nhân nào đã khiến 2 triệu cư dân ĐBSCL phải rời bỏ quê hương ra đi tìm kế sinh nhai. Được như thế thì sẽ phù hợp với tinh thần Nghị quyết 120 về ĐBSCL [17/11/2017] trong đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh nguyên tắc: “thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào thiên nhiên”.


N.T.V.
ĐBSCL 12.2017 - 02.2018


Tham Khảo:
1/ Có còn con sông nước lớn, nước ròng? Lê Quỳnh. Báo Người đô thị online Thứ hai, 20/06/2016 http://nguoidothi.net.vn/co-con-con-song-nuoc-lon-nuoc-rong-4042.html
2/ Thiếu vốn, dự án ngọt hóa sông Ba Lai trở thành ... mặn quá. Phạm Văn Tri, TTXVN 06.08.2016 https://baomoi.com/thieu-von-du-an-ngot-hoa-song-ba-lai-tro-thanh-man-qua/c/20027474.epi
3/ Chuyên gia đề nghị tạm dừng dự án thuỷ lợi 3,300 tỷ đồng ở Miền Tây. Huỳnh Xây, Dân Việt, 03.06.2017 http://danviet.vn/nha-nong/chuyen-gia-de-nghi-tam-dung-du-an-thuy-loi-3300-ty-dong-o-mien-tay-775724.html
4/ Phát triển ĐBSCL: Tốn tiền tỷ mà trái quy luật thì trả giá đắt. Nguyễn Hữu Thiện; VietnamNet 27.11.2017 http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/moi-truong/phat-trien-dbscl-ton-tien-ti-ma-trai-quy-luat-thi-tra-gia-dat-413188.html
5/ Ngăn đập sông Cái Lớn - Cái Bé: ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Phạm Anh; Tiền phong 02.06.2017 https://www.tienphong.vn/xa-hoi/ngan-dap-song-cai-lon-cai-be-dbscl-se-bi-anh-huong-khong-nho-1154506.tpo
6/ Băn khoăn xây cống Cái Lớn – Cái Bé, Sáu Nghệ; Ánh Sáng và Cuộc Sống; 26.06.2017 http://anhsangvacuocsong.vn/ban-khoan-xay-cong-cai-lon-cai/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét