Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011

Đưa Hoàng Sa vào sách giáo khoa


Thời luận 01-12-2011
Đưa Hoàng Sa vào sách giáo khoa
Hữu Nguyên
Đòi lại quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình là vấn đề quốc gia đại sự mang tính lâu dài và phải có sự góp sức của toàn thể người Việt Nam bất kỳ đang sinh sống ở đâu. Do vậy, bước đầu tiên trong sự nghiệp lớn lao này là phải làm cho toàn dân nhìn thấy rõ sự thật lịch sử và tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội như nhau, đều có thể tham gia đóng góp hết khả năng của mình vào sự nghiệp bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước Quốc hội ngày 25-11-2011 về vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam mang một ý nghĩa chính trị - lịch sử quan trọng. Lần đầu tiên một quan chức cấp cao của đất nước phát biểu tại Quốc hội đã công khai sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực năm 1974 và thừa nhận chính quyền Việt Nam Cộng hòa khi đó đang quản lý quần đảo này theo đúng tinh thần của luật pháp quốc tế. Thủ tướng cũng khẳng định, Việt Nam có chủ quyền lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa, ít nhất là từ thế kỷ thứ XVII, khi chưa có bất kỳ quốc gia nào chiếm hữu hay tuyên bố chiếm hữu quần đảo này. Kể từ đó, người Việt Nam đã liên tục quản lý, khai thác quần đảo Hoàng Sa một cách hòa bình, lâu dài và liên tục. Có thể nói, phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới đây đã làm thay đổi nhận thức chung của dư luận trong và ngoài nước về những “vấn đề nhạy cảm” trong việc tuyên truyền, phổ biến các bằng chứng lịch sử về chủ quyền biển đảo của Việt Nam trong thời gian qua, mà đặc biệt là về quần đảo Hoàng Sa.
Theo TS. Giáp Văn Dương (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), trên thực tế ngay từ khi Hoàng Sa vẫn còn bị cho là “vấn đề nhạy cảm”, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng cần phải thực hiện “chiến lược 3C” (Công khai – Công luận – Công pháp) về vấn đề Biển Đông. Tức là truớc hết cần phải công khai hiện trạng tranh chấp trên Biển Đông, trong đó có việc quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm, đồng thời công khai lập trường của các bên, công khai các sự kiện lịch sử (kể cả các sự kiện lâu nay được coi là “nhạy cảm”) đã từng xảy ra cho toàn dân biết. Từ đó sử dụng công luận, báo chí và các hình thức truyền thông để cung cấp một cách đầy đủ, hệ thống và liên tục cho toàn dân kể cả cho nhân dân Trung Quốc, cũng như cộng đồng quốc tế biết rõ sự thật về tranh chấp trên Biển Đông, lên án những hành vi sử dụng vũ lực, vi phạm pháp luật quốc tế trong khu vực, khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam giải quyết các vấn đề trên Biển Đông bằng thương lượng hòa bình trên cơ sở tuân thủ và tôn trọng công pháp quốc tế. Theo các nhà nghiên cứu, trong cuộc đấu tranh lâu dài này, vũ khí hòa bình nhưng lại vô cùng sắc bén chính là công pháp, tức luật pháp quốc tế, các án lệ, Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông… Quan điểm hòa bình và tôn trọng công pháp quốc tế của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông được các nhà bình luận quốc tế coi là “sức mạnh mềm” nhưng vô cùng sắc bén của người Việt Nam trong cuộc đấu tranh này nếu như người Việt Nam biết cách sử dụng hiệu quả “vũ khí hòa bình” chính là ánh sáng công khai và sức mạnh công luận.
Từ thời nhà Nguyễn, các vua chúa phong kiến đã ý thức rất rõ việc công khai các thông tin và tư liệu lịch sử về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa trong dân chúng để xây dựng sự đồng thuận và tăng cường ý thức dân tộc trong việc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của quốc gia. Một phát hiện gần đây của các nhà sử học Việt Nam cho thấy từ thời vua Tự Đức, sách giao khoa dạy trẻ học vỡ lòng bằng chữ Hán đã có nội dung học về quần đảo Hoàng Sa. Bản đồ quần đảo Hoàng Sa được in trong sách “Khải Đồng Thuyết Ước”, được khắc in lần đầu vào năm Quý Sữu, Tự Đức năm thứ sáu (1853) và được sử dụng trong tất cả các trường học ngay từ đầu đời vua Tự Đức tương tự như sách giáo khoa ngày nay.
Việc công khai các sự kiện lịch sử về chủ quyền biển đảo mà đặc biệt là chủ quyền quần đảo Hoàng Sa (đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép bằng vũ lực từ năm 1974) chính là bước đi đầu tiên để tạo nên sự đồng thuận trong sự nghiệp lâu dài, kiên trì và to lớn của cả dân tộc: đòi lại quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Một trong những con đường công khai và chuẩn bị hành trang cho các thế hệ người Việt Nam trong tương lai lâu dài cho cuộc đấu tranh này là đưa các sự kiện lịch sử quan trọng về chủ quyền biển đảo vào trong sách giáo khoa giảng dạy trong tất cả các trường học ở các cấp. Ngày 29-11-2011, tại một hội nghị do Ban Tuyên Giáo Trung ương tổ chức, Chuẩn Đô đốc Đinh Gia Thật (Phó Chính ủy Quân chủng Hải quân) đã đề nghị cần đưa nội dung chủ quyền biển đảo của Việt Nam vào sách giáo khoa, làm tài liệu học tập chính khóa trong tất cả các bậc học để giúp thế hệ trẻ Việt Nam hiểu rõ và sâu sắc hơn các vấn đề liên quan tới tranh chấp trên Biển Đông, mà đặc biệt là về chủ quyền thiêng liêng của người Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa. Từ đó, dần dần xây dựng ý thức và năng lực đấu tranh, tạo nên sự đồng thuận cao nhất góp phần hiệu quả vào cuộc đấu tranh lâu dài đòi lại Hoàng Sa trong các thế hệ tương lai. Đề nghị đưa nội dung chủ quyền biển đảo vào trong sách giáo khoa chính thức giảng dạy trong trường học các cấp thực ra đã được dư luận nói tới từ nhiều năm qua và đã nhận được sự đồng thuận cao của xã hội. Điều đáng nói là, đề nghị lần này đã được đưa ra chính thức trong một phiên họp quan trọng của Ban Tuyên giáo Trung ương và được phát ngôn bởi một sỹ quan cao cấp của Hải quân Việt Nam, những người đang nhận lãnh trách nhiệm quan trọng và trực tiếp nhất trong việc giữ gìn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, đương nhiên cũng là những người hiểu rõ hơn ai hết cần phải có những hành động cụ thể gì để có thể tạo ra sức mạnh toàn dân tộc tham gia vào sự nghiệp to lớn và lâu dài này.
Trong cuộc đấu tranh đòi lại quần đảo Hoàng Sa từ tay Trung Quốc và bảo vệ vững chắc chủ quyền quần đảo Trường Sa của Việt Nam ngày nay, việc thu thập và hệ thống hóa các tư liệu lịch sử, các sự kiện quan trọng chứng minh một cách khoa học chủ quyền của người Việt Nam từ lâu đời trên hai quần đảo này phù hợp với công pháp quốc tế là một việc vô cùng quan trọng. Khi chúng ta có đầy đủ chứng cứ lịch sử lâu dài, liên tục và cơ sở pháp lý vững chắc để khẳng định chủ quyền có nghĩa là chúng ta có chính nghĩa. Đồng thời, lập trường giải quyết các tranh chấp trong hòa bình tuân thủ luật pháp quốc tế của Việt Nam sẽ tạo nên “sức mạnh mềm” có khả năng thuyết phục cao và dễ dàng kêu gọi sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế đứng về phía Việt Nam. Các tư liệu lịch sử muốn có giá trị như là những bằng chứng pháp lý quốc tế, ngoài việc phải đảm bảo tính khách quan, khoa học trong nghiên cứu còn phải chứng minh được tính liên tục và sự kế thừa giữa các hình thức nhà nước của người Việt Nam trong lịch sử về chủ quyền. Giáo sư Carl Thayer (Học viện Quốc phòng Úc) cho rằng sau tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Việt Nam cần đẩy mạnh việc trưng ra các bằng chứng chứng minh quá trình thực thi chủ quyền liên tục tại quần đảo Hoàng Sa. “Việt Nam cũng cần phải cung cấp các bằng chứng cho thấy đã từng lên tiếng phản đối sự chiếm đóng của Trung Quốc đối với nhóm Đông và Tây quần đảo Hoàng Sa khi các sự việc này mới xảy ra”, ông Thayer nói. Chuyên gia Úc cũng cho rằng “lập trường của Việt Nam chỉ có thể được củng cố nếu Việt Nam cung cấp một danh sách các hành động phản đối liên tục của mình kể từ năm 1974 (thời điểm Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm toàn bộ Hoàng Sa) đến nay”.
Chúng ta thường nói nhiều về việc phát hiện các tài liệu thời Nguyễn, thời Pháp thuộc, những tài liệu của người Trung Quốc, người phương Tây đề cập tới chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, bên cạnh các tài liệu như trên, chúng ta còn có một hệ thống tư liệu là các văn kiện khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Những tài liệu thời Việt Nam Cộng hòa, trong đó có các tuyên bố phản đối chính thức sau sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa năm 1974, là những bằng chứng quan trọng cho chính nghĩa Việt Nam. Trước kia, do nhiều vấn đề còn tồn đọng của lịch sử, chúng ta ít khi công khai những tài liệu trong giai đoạn này. Giờ đây, để phục vụ cho công cuộc đấu tranh đòi lại quần đảo Hoàng Sa, bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa, những tài liệu ấy cần được nghiên cứu và công bố nhiều hơn, cần được công khai để mọi người dân đều có thể hiểu rõ hơn về lịch sử chủ quyền, về lập trường xuyên suốt của các chính quyền tại Việt Nam. Không chỉ ở trong nước, các tài liệu này cần được giới thiệu rộng rãi ra quốc tế, để thế giới biết được chính nghĩa của Việt Nam, cũng như nhận thấy việc dùng vũ lực cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đã thực hiện vào các năm 1974 và 1988 là vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc ứng xử của nhân loại văn minh trong vấn đề thụ đắc lãnh thổ, là hành vi vi phạm nghiêm trọng Hiến chương Liên hợp quốc và công pháp quốc tế. 

Đòi chủ quyền Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình


Một trong những nội dung trả lời chất vấn trước Quốc hội mới đây của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhận được sự đồng thuận cao của mọi tầng lớp nhân dân. Thủ tướng không chỉ lên tiếng khẳng định chủ quyền thiêng liêng của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà còn đề ra các giải pháp phù hợp với luật pháp quốc tế đòi hỏi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép.
Việt Nam cần tận dụng tất cả các diễn đàn quốc tế và khu vực
 để minh bạch hóa các thông tin, chuẩn bị đầy đủ
cho một cuộc đấu tranh về ngoại giao trong tinh thần thiện chí
 và tính đúng đắn của lập trường Việt Nam
Ảnh: Hồng Sâm
Trong bài phát biểu ngắn gọn nhưng rất súc tích, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra những căn cứ quan trọng về lịch sử và pháp lý quốc tế để khẳng định chủ quyền lâu đời và liên tục của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo đó, người Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo này thực sự ít nhất từ thế kỷ thứ XVII, khi mà hai quần đảo này chưa hề thuộc về bất kỳ một quốc gia nào, người Việt Nam đã thực sự làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên thực tế và liên tục trong hòa bình. Thủ tướng cũng cho biết: "Đối với Hoàng Sa, năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý lúc đó của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên Hợp Quốc can thiệp. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam của chúng ta lúc đó cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng này. Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương này của chúng ta phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), phù hợp với Tuyên bố chung về Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (DOC)”.
Đối với quần đảo Trường Sa, Thủ tướng cho biết, năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Hải quân Việt Nam đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa (đảo Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết và đảo Sơn Ca) do quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đang quản lý. Sau đó, Việt Nam tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo, với 33 điểm đóng quân. Ngoài ra, Việt Nam còn xây dựng thêm 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở vùng biển này, vùng biển trong phạm vi 200 hải lý thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta. Thủ tướng khẳng định, trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam là quốc gia có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất so với các quốc gia và các bên có đòi hỏi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo mà Việt Nam đang đóng giữ với 21 hộ, 80 khẩu, trong đó có 6 khẩu đã sinh ra, lớn lên ở các đảo này.
Cũng cần lưu ý rằng phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được đưa ra chỉ vài ngày sau khi Trung Quốc tuyên bố tổ chức tour du lịch tới quần đảo Hoàng Sa ngày 22-11-2011. Về việc này, ngày 24-11-2011, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị tuyên bố: "Việt Nam khẳng định chủ quyền không tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hoạt động của nước ngoài tại hai khu vực này mà không được sự đồng ý của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam, trái với tinh thần DOC”.
Các nhà phân tích cho rằng phát biểu trên đây của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mang tầm quan trọng đặc biệt. Bởi vì, khác với quần đảo Trường Sa vốn được coi là khu vực có nhiều quốc gia đang tranh chấp, quần đảo Hoàng Sa luôn được Trung Quốc coi là lãnh thổ của nước này một cách "hiển nhiên” và không chấp nhận bất cứ đề nghị đàm phán nào về chủ quyền của nước khác đối với quần đảo Hoàng Sa. Trong khi đó, các chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý quốc tế đều cho thấy trong suốt ba thế kỷ từ XVII-XIX, chính quyền phong kiến Việt Nam đã thực thi liên tục chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa bằng cách thường xuyên cử các đội thuyền Hoàng Sa và Bắc Hải đến các đảo này hàng năm để khảo sát, đo đạc, khai thác tài nguyên một cách có hệ thống, thu lượm các tài sản từ các tàu bị đắm, xây miếu dựng đền và trồng cây như các biểu tượng khẳng định chủ quyền, tổ chức thu thuế, cứu trợ các tàu thuyền nước ngoài gặp nạn. Việc thực thi chủ quyền này diễn ra hoàn toàn không gặp bất cứ sự phản đối hay tranh chấp nào từ phía các quốc gia khác, kể cả Trung Quốc. Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ tại Việt Nam, Pháp đã đại diện cho Việt Nam trong việc thực thi và bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Đến ngày 14-10-1950, Chính phủ Pháp chính thức trao lại cho chính quyền Bảo Đại việc quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 22-8-1956, sau khi quân Pháp rút đi, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã thiết lập ngay lập tức sự kiểm soát của họ tại Hoàng Sa và Trường Sa và đối phó với Trung Quốc trong tranh chấp này.
Trẻ em được sinh ra và lớn lên ngay tại đảo Trường Sa Lớn
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời ngày 2-7-1976 có đủ thẩm quyền để tiếp tục sở hữu danh nghĩa pháp lý đối với quần đảo Hoàng Sa cho đến nay. Tuy đã mất yếu tố vật chất do bị Trung Quốc cưỡng chiếm bằng vũ lực, nhưng Việt Nam vẫn luôn thực thi chủ quyền của mình bằng yếu tố pháp lý. Tháng 12-1982, Việt Nam đã thành lập huyện Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Cần phải khẳng định rằng, theo luật quốc tế, từ đầu thế kỷ XX việc dùng vũ lực để chinh phục một lãnh thổ đã bị cộng đồng thế giới lên án và không được chấp nhận. Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 24-10-1970 ghi rõ: "Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác do đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp”. Do đó, các hành động dùng vũ lực của Trung Quốc trái ngược với luật pháp quốc tế không thể mang lại danh nghĩa pháp lý cho nước này đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định lập trường của Việt Nam là chủ trương đàm phán giải quyết vấn đề chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, UNCLOS, DOC và các nguyên tắc trong Thỏa thuận vừa mới ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các nhà phân tích cho rằng, lập trường của Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề trên Biển Đông là rất nhất quán, dựa trên nguyên tắc đàm phán hòa bình tuân thủ đầy đủ luật pháp quốc tế cũng như các thỏa thuận khu vực, thỏa thuận song phương. Lập trường đó phản ánh xu thế chung của thế giới văn minh trong giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ. Để tranh thủ được sự ủng hộ rộng lớn của cộng đồng thế giới, Việt Nam cần tận dụng tất cả các diễn đàn quốc tế và khu vực để minh bạch hóa các thông tin, chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc đấu tranh về ngoại giao trong tinh thần thiện chí và tính đúng đắn của lập trường Việt Nam. Nếu thiếu sự hỗ trợ của tinh thần và pháp lý của cộng đồng quốc tế thì cuộc đấu tranh với Trung Quốc trên bàn ngoại giao sẽ thêm nhiều khó khăn. Việt Nam cũng cần kiên trì và khéo léo đưa vấn đề Hoàng Sa vào phạm vi điều chỉnh của Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) mà ASEAN và Trung Quốc đang hướng tới, cũng như trong tất cả các văn bản, hiệp ước khác của khu vực trong tương lai.
Các chuyên gia cũng đề nghị Chính phủ nên thành lập cơ quan chuyên trách làm đầu mối để quy tụ các chuyên gia am hiểu về lịch sử, công pháp quốc tế, đàm phán ngoại giao, nghiên cứu về Trung Quốc... để chuẩn bị các chứng cứ lịch sử, cơ sở pháp lý một cách đầy đủ, hệ thống và khoa học sẵn sàng cho việc đưa tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra tòa án công lý quốc tế cũng như sẵn sàng minh bạch hoá các luận điệu mập mờ, thiếu khoa học của Trung Quốc về vấn đề này trên các diễn đàn quốc tế. Công việc này đòi hỏi sự bền bỉ, kiến thức và kinh nghiệm của nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia nghiên cứu sâu của người Việt Nam trong và ngoài nước, cũng như của các nhà khoa học quốc tế. Vì vậy, Chính phủ cần có chính sách cụ thể để thu hút sự quan tâm, đóng góp, tạo sự đồng thuận cao trong nội bộ dân tộc Việt Nam cũng như tiếp thu các nghiên cứu khoa học khách quan, thiện chí của cộng đồng khoa học quốc tế.
Bên cạnh đó Chính phủ cũng cần phổ biến thông tin về chủ quyền biển đảo của Việt Nam sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, kể cả với người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài. Nhân dân có đầy đủ thông tin thì mới có thể tham vấn, đóng góp, chung vai cùng Chính phủ gia tăng sức mạnh ngoại giao, củng cố, tăng cường bằng chứng lịch sử, cơ sở pháp lý góp phần gia tăng sức mạnh đấu tranh ngoại giao, tác động mạnh mẽ tới nhân dân Trung Quốc, tới cộng đồng quốc tế tìm kiếm sự đồng thuận ngày càng nhiều hơn cho lập trường Việt Nam. Mặt khác, Chính phủ cũng cần có sự đầu tư về hạ tầng kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống và tăng cường khả năng tự vệ của quân và dân trên các vùng biển đảo; có chế độ chính sách thích đáng hỗ trợ đồng bào ta đang hành nghề hợp pháp trên các vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam mà đặc biệt là trên vùng biển Hoàng Sa, giúp ngư dân ta có đủ điều kiện cũng như đủ năng lực bám biển, giữ vững ngư trường truyền thống của cha ông, góp phần khẳng định chủ quyền thiêng liêng của người Việt Nam trên các vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa.
HỮU NGUYÊN

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Phật giáo Việt Nam luôn trong lòng dân tộc


Bản trên Đại Đoàn Kết cắt mất một số đoạn (in đậm và màu đỏ)
Thời luận 07-11-2011 [Bản đầy đủ]
Phật giáo Việt Nam luôn trong lòng dân tộc
Ngày này cách đây 30 năm (07-11-1981), một sự kiện quan trọng của Phật Giáo Việt Nam đã diễn ra tại Hà Nội, là nơi mà hơn một ngàn năm trước, bắt đầu thời kỳ độc lập tự chủ của nước Đại Việt non trẻ, Thiền Sư Không Lộ đã từng coi là một nơi: “Trạch đắc long xà địa khả cư” (đất thiêng để ở đời đời). Đó là sự kiện Hội nghị hợp nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo trong cả nước thành tựu viên mãn, quyết nghị thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong lịch sử hơn 2.000 năm của Phật giáo Việt Nam, một hội nghị với sự tham dự đầy đủ đại biểu của các tổ chức, giáo hội, hệ phái Phật giáo trong cả nước, bao gồm: Bắc tông, Nam tông, Khất sĩ và Phật giáo Khmer… với quyết tâm hoàn thành ngôi nhà thống nhất Phật giáo Việt Nam. Trong quá trình tồn tại và phát triển hàng ngàn năm trên đất nước ta, Phật giáo Việt Nam đã sớm hài hòa, gắn bó với dân tộc xuyên suốt dòng lịch sử truyền bá tư tưởng giáo lý của đạo Phật. Đặc biệt, trong những giai đoạn thăng trầm của dân tộc, Phật giáo Việt Nam đều tích cực đóng góp công sức, chống lại các thế lực của ngoại bang để đem lại an lạc, hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trong từng thời kỳ lịch sử dân tộc, danh xưng của Giáo hội dù có khác nhau, nhưng sự nghiệp chủ yếu của Phật giáo Việt Nam vẫn là hoằng dương chính pháp, lợi lạc quần sinh. Vì thế, trong những thập niên trước năm 1975, Phật giáo Việt Nam tuy đã có tổ chức và thực hiện các cuộc vận động thống nhất Phật giáo, nhưng nhìn chung chưa có cuộc vận động nào mang được trọn vẹn ý nghĩa của nó như Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay. Một phần do hoàn cảnh khách quan của đất nước còn bị chia cắt, một phần do những dị đồng chưa thể hóa giải để các đệ tử Phật cùng chung chăm lo Phật sự. Vì vậy, các tổ chức Phật giáo trước đây tại Việt Nam chưa hội đủ các yếu tố để hợp thành một khối thống nhất đúng ý nghĩa, kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết hòa hợp, yêu nước của toàn thể tăng ni, Phật tử Việt Nam. 
Sau ngày 30-04-1975, hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, giang san nối liền một cõi, Bắc Nam sum họp một nhà. Đất nước thống nhất là yếu tố hết sức mãnh liệt và là bối cảnh vô cùng thuận lợi, là động lực để chư tôn giáo phẩm, tăng ni, Phật tử các tổ chức, hệ phái thực hiện nguyện vọng, tâm huyết thống nhất Phật giáo mà các thế hệ tiền bối đã dày công tạo dựng. Đây chính là duyên khởi của sự thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam . Nền thống nhất này, theo nguyên tắc được nêu ra trong hội nghị hợp nhất cách đây 30 năm đã khẳng định, là dựa trên tinh thần dân chủ, lấy tứ chúng đồng tu làm cơ sở, chứ không dựa trên giáo quyền, phong kiến hay quyền lực cá nhân.  
Mục đích của việc hình thành ngôi nhà thống nhất Phật giáo Việt Nam như trong nghị quyết đầu tiên của Ban vận động đã nhấn mạnh: “Mở ra một hướng phát triển mới trong lịch sử Phật giáo nước nhà, làm lợi ích cho Tổ quốc và nhân dân, làm sáng chói tinh thần Phật giáo trong thời đại nước Việt Nam xây dựng và tiến lên chủ nghĩa xã hội, phát huy cao hơn nữa truyền thống gắn bó hài hoà giữa đạo Phật với dân tộc, đảm bảo truyền thống tín ngưỡng và phương pháp tu hành của tăng ni và đồng bào Phật tử theo lời Phật dạy. Chúng ta quyết tâm củng cố hàng ngũ trong nội bộ Phật giáo ta, đoàn kết với các tôn giáo bạn, đoàn kết với các giới đồng bào, các dân tộc trong mặt trận đoàn kết toàn dân. Với sức mạnh đoàn kết đó, chúng ta tin chắc rằng sứ mệnh phụng sự đạo pháp và dân tộc, công cuộc đóng góp cho hoà bình thế giới và hạnh phúc nhân loại sẽ được nhiều hiệu quả hơn”.
Lịch sử lâu đời của nước ta cho thấy hễ khi nào chính quyền ủng hộ Phật giáo thì đất nước mạnh và Phật giáo hưng thịnh; ngược lại thì đất nước bị suy yếu và Phật giáo cũng suy tàn. Do đó, có không ít học giả đã đi đến kết luận, có thể đánh giá sự thịnh suy của đất nước qua quá trình thịnh suy của Phật giáo Việt Nam .Hàng ngàn năm qua, không ít nhà sư đã từng tham gia việc nước; chùa chiền từng là cơ sở giáo dục, từ thiện, là nơi an ủi, vỗ về, hướng dẫn đời sống tâm linh cho mọi người. Do đó, có thể nói Phật giáo luôn ở trong lòng dân tộc, gần gũi, thân thiết với dân tộc. Hay nói cách khác, Phật giáo Việt Nam luôn sống trong lòng dân tộc.
Thực tế lịch sử thế kỉ XX đã giúp nhân loại nhận thức được một điều rất căn bản, là quyền cơ bản của con người phải được tôn trọng cho dù thực tại chính trị và xã hội vô cùng phong phú và đa dạng. Mọi ý đồ chính trị đều lần lượt bị tan rã và thay vào đó là một sự tồn tại có sự bảo lãnh trên phương diện rất thống nhất của nhân loại văn minh là tôn trọng quyền con người. Phật giáo đã góp vào sự thống nhất đó với tất cả nội lực của nó. Giáo pháp của Phật đã được nhiều nghiên cứu chỉ ra và khẳng định đó là sự khuyến khích con người tự giải phóng khỏi mọi cám dỗ và sai lệch trong nhận thức về chính cuộc sống của bản thân họ và đồng loại. Điều đó được thực hiện không phải bằng sức mạnh của vũ lực, mà bằng sự điều tiết cá nhân để con người ra khỏi những giáo điều khô cứng, những niềm tin độc tôn và sự sùng bái vật chất đến mức bệnh hoạn của con người. Dĩ nhiên điều đó được thực thi dưới phương thức tiến hành “bất bạo động”, không nhờ ngoại lực (hay “tha lực” như ngôn ngữ Phật giáo), không trông cậy vào một cái gì ngoài ta để cải tạo chính ta.
Quả thật, từng đau đớn lòng trước những điều trông thấy trong một xã hội suy tàn về chính trị lẫn đạo đức, Nguyễn Du –  đại thi hào của dân tộc ta,  vẫn một mực quả quyết khẳng định: “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Bao nhiêu mái chùa, bao nhiêu ngôi đình thờ Thành Hoàng, bao nhiêu bàn thờ tổ tiên còn hiện diện trong mỗi gia đình là bấy nhiêu chứng tích tâm linh của những công cuộc chống ngoại xâm và mở mang bờ cõi của dân tộc Việt Nam. Tâm linh dân tộc là một thứ quyền uy siêu việt mà những kẻ xâm lược từ hàng ngàn năm trước cho tới thế kỷ XX vừa qua, cho dù đã dùng đủ mọi cách đều không thể làm tắt đi sức sống mãnh liệt ấy của người Việt Nam.
Có thể nói, nếu một người dân Việt Nam mất đi Phật tâm, mất đi Thành Hoàng và mất đi ông bà tổ tiên thì người dân ấy đã mất đi hơn một nửa tâm hồn mình, mất đi không gian thần thiêng nơi mình trú ngụ. Tâm linh Việt thấm đẫm trên từng mảnh đất Việt. Mái chùa Việt che chở tâm hồn Việt. Chỉ có chấn chỉnh và làm mới lại những điều đã bị bỏ quên từ trong tâm thức dân tộc thì mới mong không gian Việt rộng lớn hơn, để người việt có thể cắm mốc tâm linh của mình ngay ở bất cứ một nơi xa lạ nào. Chùa lớn, tượng to, cúng dường hậu hĩ… ngày nay trở nên phổ biến, không phải là điều xấu, nhưng không mang lại lợi lạc thật sự cho chúng sinh, đôi khi còn tạo ra sự ngộ nhận của lớp trẻ ngày nay với đạo Phật, một khi sự cúng dường đó chỉ có ý nghĩa hình thức và chỉ cầu lợi cho bản thân mình. Lòng từ bi chỉ thực sự diễn ra trong sự hành thiện ngay trong chính đời sống thường nhật của con người. Khi ai đó giúp đỡ một người không may mắn, gặp hoạn nạn thì lòng người đó có Phật. Bởi thế, ngôi chùa hay ngôi đền thiêng liêng nhất lại ở chính trong lòng của mỗi người. Cũng như vậy, đạo Phật chỉ có thể tồn tại và phát triển lâu dài ngay trong lòng của dân tộc.

Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2011

Thay đổi để minh bạch hơn


Thời luận 4-11-2011 - DDK

Câu chuyện tranh luận giữa 2 bộ Tài Chính và Công Thương về giá xăng dầu vừa qua đã mang tới một niềm hy vọng cho hơn 80 triệu người dân Việt Nam với lời cam kết của Bộ trưởng Vương Đình Huệ: “Nhà nước chỉ phục vụ cho lợi ích của toàn dân”. Sự tranh cãi giữa các cơ quan công quyền không phải là sự đối đầu, mà là để đi tới mục tiêu “minh bạch hóa” các chính sách cũng như các giải pháp nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển đất nước vì lợi ích của toàn dân. Do vậy, minh bạch không phải chỉ là câu chuyện giữa các cơ quan công quyền với nhau mà còn chính là đòi hỏi bức thiết của nhu cầu phát triển vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh”.
Có thể nói, Việt Nam hiện là một trong số ít các quốc gia mà sự thiếu minh bạch hầu như xảy ra ở khắp nơi, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, không cần phải có học thức cao hay phải dày công nghiên cứu, một người dân bình thường cũng dễ dàng nhận thấy. Ai cũng biết một công chức bình thường trong ngành hải quan, thuế vụ, nhà đất, quản lý thị trường, cảnh sát giao thông… với mức lương thường được đánh giá là “không đủ sống cho 20 ngày trong một tháng”, nhưng không ai lý giải một cách “minh bạch” được họ lấy tiền đâu ra để có cuộc sống vương giả với xe hơi, nhà lầu, trang trại, cho con cái đi du học nước ngoài với mức chi phí lên đến hàng trăm ngàn USD mỗi tháng. Một nghịch lý đã tồn tại từ lâu như một sự thách thức dư luận, đó là các công chức, quan chức nhà nước đi làm để nhận lương nhưng không ai sống bằng lương. Không sống bằng lương nhưng hầu như không ai bỏ việc mà ngược lại, “cuộc chiến” tranh giành, “chạy chức, chạy quyền, chạy ghế” vẫn luôn diễn ra thường xuyên và nóng bỏng.
Không ít doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài, đầu tư vốn tràn lan không hiệu quả nhưng nghịch lý là lương bổng và thu nhập thực tế của lãnh đạo doanh nghiệp luôn cao chót vót. Trong lĩnh vực quản lý đất đai, Tổ chức Minh bạch Thế giới đã xếp mức độ minh bạch của Việt Nam ở hàng cuối bảng. Trong thực tế, đôi khi chỉ bằng một quyết định hành chính, một “ông quan” cấp xã, cấp huyện cũng có quyền dễ dàng thu hồi toàn bộ đất đai tài sản của người dân được tạo ra bằng mồ hôi, nước mắt của bao thế hệ gia đình họ. Thế nên, lĩnh vực đất đai theo thống kê của cơ quan chức năng là khu vực dẫn đầu với tỷ lệ cao nhất về đơn thư khiếu nại tố cáo kéo dài và dai dẵng. Trong mối quan hệ giữa công chức và người dân, doanh nghiệp sự minh bạch cũng bị vi phạm nghiêm trọng và phổ biến. Thay vì thực hiện phương châm “chính quyền phục vụ dân” thì không ít công chức đã làm ngược lại, gây khó dễ, phiền phức, nhũng nhiễu cho đến khi người dân hay doang nghiệp phải chấp nhận cơ chế “xin – cho” thì mới có thể có được các quyền lợi được Nhà nước bảo hộ của mình. Sự thiếu minh bạch được xem là rất nghiêm trọng nhưng cũng vô cùng tinh vi xảy ra trong lĩnh vực quy hoạch, xây dựng chính sách và văn bản quy phạm pháp luật. Về nguyên tắc, Quốc hội là cơ quan lập pháp, do đó, mọi văn bản luật, pháp lệnh phải do Quốc hội thông qua và ban hành. Song, sự phân biệt giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp lại không rõ ràng trên thực tế. Phần lớn đại biểu thuộc cơ quan lập pháp lại đồng thời làm việc trong cơ quan hành pháp. Hơn nữa, theo thông lệ lâu nay chính các cơ quan hành pháp lại là người soạn và trình dự thảo luật, pháp lệnh. Cho nên, lợi ích cục bộ của ngành, của địa phương chi phối việc xây dựng pháp luật là chuyện không có gì khó hiểu.
Gần đây chúng ta nói nhiều đến “tái cấu trúc nền kinh tế”, các chuyên gia cũng cảnh báo tái cấu trúc là một công việc không hề dễ dàng ngay cả khi chỉ là những thay đổi trên bề nổi của tảng băng. Tái cấu trúc phần căn bản của hệ thống, tức là phần chìm của tảng băng, mới chính xác là sự thử thách. Tuy nhiên, không có gì là không làm được nếu đã có quyết tâm và thực sự mong muốn thay đổi vì mục tiêu phát triển đã nhận được sự đồng thuận cao của cả cộng đồng. Vấn đề là, muốn tái cấu trúc thành công, giải quyết được các vấn nạn của nền kinh tế - xã hội như trình bày ở phần trên, điều kiện trước tiên là phải làm cho phần chìm của tảng băng nổi lên.
Thực ra khi kêu gọi những thay đổi từ trên hay cao hơn nữa, người ta thường nhìn vào cấu trúc cấp bậc của hệ thống. Trong khi đó, người ta dường như còn e dè khi đề cập đến các khía cạnh “nhạy cảm” của hệ thống. Điều này càng làm cho các biện pháp tái cấu trúc lâu nay chưa thực sự động chạm đến khu vực cần tái cấu trúc. Do đó, muốn biết tái cấu trúc cần bắt đầu từ đâu, chúng ta phải có một cách nhìn khác về cấu trúc của các hệ thống nói chung trong đó có hệ thống kinh tế của một quốc gia. Trong cách nhìn này, người ta coi hệ thống giống như một tảng băng trôi trên đại dương. Từ phía ngoài, chúng ta thường chỉ nhìn thấy phần nổi trên mặt nước của tảng băng. Phần này đại diện cho phần trên của hệ thống như tầm nhìn, chiến lược, mục tiêu, cấu trúc,... Do dễ nhìn thấy nên mỗi khi cần thay đổi người ta lại nghĩ đến việc tác động vào các yếu tố này. Tuy nhiên, các yếu tố này lại có đặc tính không cụ thể nên dễ bị diễn giải theo các cảm nhận cá nhân hoặc sự tác động bên ngoài.
Phần nằm dưới nước, không nhìn thấy mới là phần chính của tảng băng hệ thống. Phần này đại diện cho mục đích, giá trị, niềm tin, văn hóa... của hệ thống và là phần khó có thể thay đổi nếu chỉ có những tác động hời hợt từ bên ngoài. Nếu phần chìm của tảng băng không thay đổi thì sẽ không có sự thay đổi của cả hệ thống. Từ kinh nghiệm của các câu chuyện khủng hoảng về kinh tế ở Việt Nam cũng như trên thế giới, cho thấy một khi không có niềm tin, các giá trị phổ quát, các quy luật khách quan không được tôn trọng thì mô hình kinh tế nào cũng sẽ gặp khủng hoảng. Do đó, với khát vọng thay đổi, trong Diễn văn khai mạc Đại hội VI  (1986), cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã không đơn giản chỉ kêu gọi thay đổi thành phần kinh tế như chúng ta thường nghĩ về “đổi mới” mà ông đã nói: “Chỉ có đổi mới, thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa... Muốn thế phải đấu tranh chống cái cũ, chống bảo thủ trì trệ, chống giáo điều rập khuôn, chống chủ quan nóng vội, chống tha hóa biến chất, chống những thói quen lỗi thời, dai dẳng. Đây là cuộc đấu tranh gian khổ diễn ra trên mọi lĩnh vực và trong bản thân mỗi người chúng ta”.
Thay đổi, hay đổi mới từ trong bản thân, trong nhận thức của mỗi thành viên của hệ thống, có lẽ trước hết, phải củng cố nhận thức rằng bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức được dân cử ra để thực hiện chức năng quản lý đất nước theo pháp luật; họ được dân trả công bằng tiền thuế do dân đóng góp và họ cũng sẽ bị dân sa thải nếu không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Do vậy, công việc của họ nhất thiết phải đặt dưới sự giám sát của dân và do đó phải công khai, minh bạch, phải có trách nhiệm giải trình với dân. Tiếp theo, cần có cơ chế ràng buộc mọi cơ quan nhà nước phải thực hiện đúng đắn các quy định về công khai, minh bạch trong quản lý, có giám sát phòng ngừa những trường hợp lạm dụng để hạn chế quyền được thông tin và quyền giám sát của dân. Quá trình thực hiện minh bạch và trách nhiệm giải trình không hề dễ dàng, vì có thể gặp nhiều trở ngại và lực cản từ các “nhóm lợi ích”. Nhưng nếu cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức đặt lợi ích của dân tộc, đất nước lên trên, chắc chắn sẽ khắc phục được trở ngại, tìm ra được những hình thức thích hợp để “đưa phần chìm của tảng băng ra khỏi nước”. Tức là thực hiện thành công quá trình minh bạch hoá nhà nước, tiền đề cho tất cả những thành công tiếp theo của những kỳ vọng về tái cấu trúc nền kinh tế nước nhà.





Thứ Ba, 1 tháng 11, 2011

Hợp tác trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế


Báo Wall Street Journal dẫn lời người phát ngôn của Tập đoàn dầu khí ExxonMobil (Hoa Kỳ) hôm 25-10-2011 nói rằng hãng này đã tìm thấy dầu khí tại giếng khoan số 2 nằm trong lô 119 ngoài khơi Đà Nẵng, thuộc thềm lục địa Việt Nam. Trước đó, báo chí quốc tế cũng tiết lộ rằng ExxonMobil đã phát hiện ra một mỏ khí đốt có trữ lượng đáng kể ở một lô ngoài khơi bờ biển Đà Nẵng, thuộc bể trầm tích Phú Khánh, thuộc thềm lục địa Việt Nam.

Theo Financial Times, một quan chức tập đoàn dầu khí PetroVietnam, đối tác của ExxonMobil, cho biết là họ cũng đã tìm thấy khí đốt, trong khi giám đốc điều hành một công ty dầu hỏa khác thăm dò gần lô 118 xác định rằng mỏ vừa phát hiện có “một tiềm năng đáng kể”, căn cứ vào nền địa chất của khu vực. Cũng theo Wall Street Journal, khu vực được khoan dò nổi tiếng là có trữ lượng dồi dào. PetroVietnam và nhiều tập đoàn quốc tế khác đã bắt đầu công việc sản xuất tại nhiều mỏ quan trọng trong vùng này, trong lúc một số công ty khác như Petronas của Malaysia, Premier Oil trụ sở tại Anh Quốc, Gazprom của Nga và Total của Pháp, cũng vừa phát hiện ra một số mỏ dầu khí trong khu vực này. Các thông tin nói trên cho thấy nhiều hãng dầu khí nước ngoài  đang  hợp tác làm ăn với Việt Nam phù hợp với tinh thần của luật pháp quốc tế  và luật pháp Việt Nam đã bắt đầu có những dấu hiệu thành công đáng vui mừng. Điều đó càng củng cố thêm lòng tin của cộng đồng quốc tế trong việc hợp tác với Việt Nam trong các dự án khai thác dầu khí cùng có lợi trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông.

Sau các sự kiện 2 tàu Bình Minh 2 (25-5-2011) và tàu Viking 2 (9-6-2011) của Việt Nam bị tàu Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm vùng biển Việt Nam cắt cáp phá hoại thiết bị thăm dò dầu khí, không những đã vấp phải sự phản đối kiên quyết của Việt Nam mà còn bị cộng đồng quốc tế lên án gay gắt, các hoạt động thăm dò và khai thác trên vùng biển thuộc quyền chủ quyền và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo luật biển quốc tế vẫn được tiếp tục tiến hành bình thường. Các nguồn tin quốc tế cũng cho biết các tập đoàn dầu khí nước ngoài hợp tác khai thác trên vùng biển Việt Nam (trong đó có ExxonMobil) hết sức tự tin về chủ quyền của Việt Nam tại các lô mà họ đang thăm dò. Cùng lúc đó, Bộ Ngoại giao Việt Nam thường xuyên phát đi thông điệp: “Việt Nam luôn hoan nghênh và tạo điều kiện cho các đối tác nước ngoài, kể cả Trung Quốc, hợp tác trong lĩnh vực dầu khí thuộc thềm lục địa Việt Nam, trên nguyên tắc tuân thủ luật pháp Việt Nam”. Mới đây, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trả lời phỏng vấn báo chí trước khi lên đường đi thăm chính thức Ấn Độ đã một lần nữa tái khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam: “Các dự án hợp tác giữa Việt Nam với đối tác nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí, bao gồm cả dự án hợp tác với Công ty dầu khí Ấn Độ (ONGC), đều nằm trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Chúng tôi hoan nghênh các công ty nước ngoài làm việc với đối tác Việt Nam hợp tác trong các dự án dầu khí tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở luật pháp Việt Nam”. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đồng thời cũng tuyên bố Việt Nam cam kết bảo vệ quyền,  lợi ích hợp pháp và chính đáng của các công ty nước ngoài hợp tác làm ăn với Việt Nam.

Hội nghị Luật Biển lần thứ III của Liên hợp quốc (1967-1982) đã thông qua Công ước Luật Biển năm 1982. Là thành quả của một cuộc thương lượng lâu dài giữa các nhóm nước khác nhau, Công ước là một giải pháp cả gói công bằng và đỉnh cao trong quá trình pháp điển hóa và phát triển tiến bộ ngành luật biển quốc tế.  Tính đến nay, đã có 161 quốc gia và tổ chức quốc tế tham gia Công ước Luật Biển năm 1982, trong đó có 7 quốc gia ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Brunei. Áp dụng Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc vào điều kiện cụ thể của Biển Đông chúng ta thấy các điểm cơ bản sau đây: Một là, các quốc gia ven Biển Đông có chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải 12 hải lý kể từ đường cơ sở của mình. Đáng lưu ý là theo luật biển quốc tế những năm 40 - 50 của thế kỷ trước, vùng lãnh hải của các quốc gia ven Biển Đông chỉ có 3 hải lý và toàn bộ phía ngoài 3 hải lý đó là vùng biển quốc tế. Như vậy, Công ước đã mở rộng phạm vi vùng lãnh hải của các quốc gia ven Biển Đông thêm 9 hải lý. Hai là, mỗi quốc gia ven Biển Đông có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa tối thiếu 200 hải lý của mình. Chiều rộng của hai vùng biển này đều được đo từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải. Trong trường hợp thềm lục địa thực tế lớn hơn 200 hải lý thì quốc gia ven Biển Đông có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến 350 hải lý với điều kiện tuân thủ đúng các quy định và thủ tục nêu trong Công ước. Mỗi quốc gia ven Biển Đông có toàn quyền thăm dò, khai thác các tài nguyên trong các vùng biển của mình, đặc biệt là trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, để phục vụ đời sống nhân dân và phát triển đất nước. Mỗi quốc gia ven Biển Đông có toàn quyền quyết định cho phép hay không cho phép các quốc gia khác khai thác tài nguyên trong các vùng biển của mình. Mỗi quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng các quyền chủ quyền đó của các quốc gia láng giềng khác ven Biển Đông.

Một trong những nội dung đáng chú ý trong Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc mà lãnh đạo cấp cao hai nước vừa ký kết đã xác định: “Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, hai bên bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thoả thuận này”. Với nội dung này, hai bên đã đưa ra khả năng về một giải pháp mang tính quá độ đối với các khu vực tranh chấp, bao gồm cả việc hợp tác cùng phát triển theo nguyên tắc đã nêu ở điều 2 của Thoả thuận, nghĩa là căn cứ vào luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982. Giải pháp quá độ tạm thời, hợp tác cùng phát triển là phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Dàn xếp tạm thời về “hợp tác cùng phát triển” được khuyến nghị trong Điều 74 và Điều 83 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982. Theo đó, các quốc gia khi chưa tìm được giải pháp phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế thì có thể thoả thuận về các dàn xếp tạm thời mang tính thực tiễn; các dàn xếp tạm thời không làm phương hại đến kết quả phân định cuối cùng.

Tuy nhiên, ngay sau khi Thỏa thuận được ký kết, Trung Quốc vẫn tiếp tục đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” để đòi hỏi “chủ quyền không thể tranh cãi” của nước này trên hầu như gần trọn Biển Đông. Về lai lịch của “đường lưỡi bò” thì chính các học giả Trung Quốc đều biết rõ là tại các Hội thảo quốc tế về Biển Đông ở Hà Nội (2009) và Thành phố Hồ Chí Minh (2010) cũng như tại các Hội thảo quốc tế khác, nhiều học giả quốc tế đã chỉ rõ yêu sách “đường lưỡi bò” là mơ hồ, không có cơ sở và cho rằng Trung Quốc cần phải giải thích rõ bản chất pháp lý của các vùng biển trong “đường lưỡi bò” đó. Nhưng cho đến nay, cả chính giới lẫn học giả Trung Quốc đều không thể đưa ra các câu trả lời thỏa đáng.

Tham chiếu các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc cũng là một bên tham gia thì ai cũng thấy rằng yêu sách “đường lưỡi bò” hoàn toàn trái với các quy định của Công ước. Không một quy định nào của Công ước có thể biện minh cho yêu sách “đường lưỡi bò”. Đơn giản bởi vì vùng biển mà “đường lưỡi bò” ngoạm vào không thể nào là lãnh hải hoặc vùng đặc quyền kinh tế hoặc là thềm lục địa của Trung Quốc. Đó chính là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Philippines, Malaysia, IndonesiaBrunei. Yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý nói trên đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của 5 nước ASEAN đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Chính vì vậy, mà Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Philippines đã lần lượt gửi công hàm đến Tổng Thư ký Liên hợp quốc bác bỏ yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc. Việc nước này vẫn tiếp tục đưa ra yêu sách phi lý nói trên và tiến hành các việc làm trên thực địa nhằm đơn phương áp đặt yêu sách này càng làm cho tình hình Biển Đông trở nên phức tạp hơn, gây lo ngại thực sự cho cộng đồng thế giới và buộc dư luận phải lên tiếng. Không chỉ các quốc gia liên quan tranh chấp ở Biển Đông mà dư luận của nhiều quốc gia khác cũng đã bày tỏ ý kiến bất bình trước yêu sách đầy phi lý này.

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

Tái cơ cấu và lực cản


Tái cơ cấu nền kinh tế không phải là chuyện mới. Nhiều năm trước các chuyên gia cũng như trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta đã từng nhắc tới yêu cầu phải tái cơ cấu nền kinh tế. Song cũng trong nhiều năm qua, câu chuyện này thường chỉ dừng lại ở thì tương lai. Điều này chứng tỏ giữa “nói và làm” về tái cơ cấu nền kinh tế trong thực tế có khoảng cách khá xa. Điều này cũng cho thấy không dễ dàng khi đưa một chủ trương dù rất đúng đắn và cấp bách vào cuộc sống chỉ vì việc làm đó có khả năng “đụng chạm” tới một số nhóm lợi ích, cũng như bị một “lực cản” không nhỏ từ các thói quen “thâm căn cố đế”  trong tư duy chính sách vốn tồn tại trong thời gian quá dài.
                                                                            
Tái cơ cấu nền kinh tế, theo các chuyên gia, về bản chất là thay đổi thể chế, cấu trúc, công cụ phân bố, quản lý và sử dụng nguồn lực quốc gia, nhất là vốn đầu tư nhằm từng bước và liên tục nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, nâng cao năng suất. Kết quả là phải hình thành một cơ cấu kinh tế phù hợp hơn, hiệu quả hơn và quan trọng là cơ cấu kinh tế đó phải có tính “bắc cầu” cho những giai đoạn phát triển tiếp theo. Mô hình tăng trưởng của Việt Nam hiện nay được các chuyên gia cho là đã “lên đến đỉnh”, nếu không có sự điều chỉnh kịp thời sẽ chuyển sang giai đoạn “tăng trưởng bần cùng hóa”, có nghĩa là càng đầu tư cho tăng trưởng thì đất nước và người dân càng nghèo đi, chỉ có lợi cho một số ít người.  Đã đến lúc Việt Nam phải “chính đốn” lại nền kinh tế và cơ hội không phải tự nhiên mà có, nó tùy thuộc vào nhận thức đúng đắn, quyết tâm cùng nỗ lực của chính những người trong cuộc.
Đáng ghi nhận là mới đây Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI đã quyết định việc tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng như là một trong những công việc hàng đầu của toàn bộ hệ thống chính trị nước ta hiện nay. Báo cáo của Chính phủ trước kỳ hợp thứ hai của Quốc hội mới đây cũng cho thấy thực thi trách nhiệm tái cơ cấu nền kinh tế, Chính phủ đã xác định 3 khu vực trọng tâm là đầu tư công (tập trung thực hiện nghị định 11), doanh nghiệp nhà nước (tập trung vào các tập đoàn và tổng công ty), và hệ thống tài chính (tập trung vào ngân hàng). Đây là một chủ trương đúng đắn, thể hiện sự đồng điệu giữa tầm nhìn của xã hội với tầm nhìn của các nhà hoạch định chính sách. Vấn đề là làm thế nào để biến các chủ trương đúng đắn này trở thành hiện thực để có thể giải quyết được bài toán “tăng trưởng bần cùng hóa” của Việt Nam hiện nay mà các chuyên gia đã cảnh báo.
Theo TS. Vũ Minh Khương (Đại học Quốc gia Singapore), do đặc điểm lịch sử và văn hóa lâu đời, người Việt Nam là một dân tộc giàu cảm xúc, nhanh nhạy, quyết tâm và có năng lực tiếp thu tốt. Những tố chất này rất cần thiết cho sự nghiệp phát triển đất nước. Trong tình huống tốt (được kiến tạo bởi một đội ngũ lãnh đạo có tầm nhìn viễn kiến, phẩm chất hiến dâng và tư duy thời đại), Việt Nam có thể trở thành một dân tộc có sức trỗi dậy mạnh mẽ từ khát vọng ngàn đời, vươn lên bằng phẩm giá, đứng cao trên nền tảng văn minh, thành tâm trong hợp tác, cầu thị trong học hỏi và trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Thế nhưng, những tố chất này cũng có thể thành những trở lực phát triển nếu đất nước mơ hồ trong tầm nhìn, người dân vô cảm trong ý thức dân tộc, công chức mắc kẹt trong cơ chế trì trệ, lãnh đạo không coi trọng việc tuân thủ các quy luật của trời đất. Khi đó, chính những tố chất lẽ ra có thể là động lực cho phát triển lại trở thành lực cản, biến chúng ta thành một quần thể đầy nghịch lý vừa duy ý chí vừa bảo thủ, vừa cao ngạo vừa mặc cảm tự ti. Với đặc trưng là: kiến thức còn hạn chế nhưng không dốc lòng học hỏi; còn nghèo khó mà không cật lực làm việc; vị thế thấp kém nhưng thích phô trương; vay nợ chồng chất mà chi tiêu hoang phí; vui chơi thỏa thích, lễ hội tràn lan, khốn khó tới nơi mà dường như không hay biết… Từ thực tế đó, trong nỗ lực cải cách, tái cơ cấu nền kinh tế, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thử thách mà một trong những thử thách đầu tiên là thực trạng thiếu tầm nhìn và tư duy chiến lược trong quy hoạch phát triển.
Có lẽ không phải ngẫu nhiên khi trả lời câu hỏi “tái cơ cấu nền kinh tế nên bắt đầu từ đâu”,  trong một hội thảo khoa học mới đây, TS Võ Đại Lược (nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế thế giới) đã nói ngay: “Từ đầu!”. “Từ đầu” ở đây theo ông không có nghĩa cực đoan là phá bỏ tòan bộ những gì đang có hiện nay để xây lại cái mới khác. Thực ra đây là một cách “chơi chữ”, nó có nghĩa là tái cơ cấu nền kinh tế phải bắt đầu từ “cái đầu” chịu suy nghĩ khác, tư duy khác về phát triển. Đồng thời, sự đổi mới tư duy đó cũng phải bắt đầu từ những người đứng đầu, chịu lắng nghe, dám quyết định và quyết tâm làm đến cùng.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi nói về tái cơ cấu đầu tư đã nhấn mạnh: “Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư phải có tầm nhìn xa, không bị “tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ, bệnh thành tích, chủ quan duy ý chí hay “lợi ích nhóm” chi phối”.  Hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, tình hình Việt Nam hiện nay đòi hỏi một cuộc đổi mới kinh tế mang tính cách mạng cấp thiết không kém tình hình năm 1986. Đáng tiếc là không phải ai ai cũng đồng thuận với điều đó, nhất là các nhóm lợi ích, bộ phận đang nắm giữ phần quyền và lực lớn nhất, chắc chắn sẽ tạo ra lực cản trong quá trình tái cơ cấu kinh tế vốn sẽ tước đi không ít những đặc quyền, đặc lợi mà nhóm thiểu số này đang được hưởng từ nhiều năm qua. Bởi mục tiêu của quá trình tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng là nhằm hướng tới phân bổ hợp lý, công bằng hơn nguồn lực quốc gia và hướng tới lợi ích chung cho cả cộng đồng chứ không phải vì quyền lợi của một số ít “đại gia”. Bài toán thống nhất lợi ích sẽ là bài toán xuất hiện trong tất cả mục tiêu cải tổ của Chính phủ, từ câu chuyện cắt giảm đầu tư công, cải cách doanh nghiệp nhà nước đến câu chuyện sắp xếp lại hệ thống ngân hàng. Với bất kỳ mục tiêu gì, sẽ có các nhóm lợi ích tìm cách ngăn cản không cho nó thành công. Do vậy, cần phải cải cách thể chế để tạo ra một cơ chế cho phép thống nhất lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm với lợi ích quốc gia. Bởi vì khi nói tới lợi ích, không thể duy ý chí giống như việc kêu gọi thực hiện các phong trào và tinh thần tự nguyện của các bên tham gia.
Có lẽ cũng cần nói thêm rằng bản thân khái niệm “nhóm lợi ích” không hàm ý tốt hay xấu. Việc các nhóm lợi ích tìm cách tác động lên chính sách cũng là điều khó tránh. Vấn đề là sự tác động đó đại diện cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội hay đi ngược lại lợi ích của số đông. Nguyên tắc tối cao trong luật pháp là có thể thỏa mãn tối đa lợi ích của cá nhân, của nhóm lợi ích này nhưng tuyệt đối không được làm hại đến lợi ích của cá nhân và nhóm lợi ích khác. Minh bạch trong quá trình xây dựng luật pháp, hoạch định chính sách, hỗ trợ các tổ chức, đoàn thể quần chúng trong xã hội để họ có thể nói lên tiếng nói đại diện cho lợi ích của người dân, nâng cao năng lực chuyên môn của đại biểu Quốc hội, vai trò của truyền thông xã hội… là những biện pháp cần phải làm để đón đầu và hóa giải các nhóm lợi ích mang tính cục bộ hay không thật sự đại diện cho lợi ích của quốc gia.
Các chuyên gia cho rằng, chính sách và dịch vụ công không chỉ thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới, tái cơ cấu nền kinh tế một cách hiệu quả mà còn góp phần xây dựng niềm tin vào chính quyền và cả hệ thống chính trị. Do vậy, một trong những lực cản quan trọng cho quá trình tái cơ cấu kinh tế là chất lượng chính sách và dịch vụ công hiện chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới và phát triển. Các cuộc điều tra về đánh giá của người dân đối với chính sách và dịch vụ công thời gian qua đều cho thấy sự ức chế của người dân trên nhiều lĩnh vực, từ chống tham nhũng đến xây dựng bộ máy công quyền; từ quản lý và quy hoạch đô thị đến phát triển cơ sở hạ tầng; từ giáo dục đến y tế; từ bảo vệ môi trường đến quản lý chất lượng sản phẩm và an toàn cho người sử dụng… Những vấn nạn này không chỉ làm xói mòn lòng tin của người dân vào chính quyền mà còn là những trở lực đáng kể cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nước nhà.
Một thống kê từ Viện Nghiên cứu quản lý trung ương cho thấy chính sách phân cấp thông thoáng cộng với lợi ích cục bộ địa phương và “tư duy nhiệm kỳ” đã tạo ra những kết quả phản tác dụng, vượt tầm kiểm soát của trung ương và làm méo mó cơ cấu kinh tế của cả nước trong nhiều năm qua. Hiện cả nước đã có hơn 100 cảng biển, 22 sân bay, 18 khu kinh tế ven biển, 267 khu công nghiệp, 918 cụm công nghiệp, 28 khu kinh tế của khẩu và rất nhiều dự án cơ cở hạ tầng xã hội, nhiều chương trình mục tiêu. Nếu tổng hợp từ các bộ, ngành lại, nhu cầu đầu tư hạ tầng xã hội trong 10 năm tới đã gấp 3 lần khả năng cung ứng vốn. Vì thế mới có cảnh dự án kéo dài vì thiếu vốn đầu tư. Đã không ít ý kiến cho rằng sửa phân cấp quản lý đầu tư bây giờ là vấn đề nhạy cảm nhất, vì luật đã ban hành, giờ tính chuyện thu quyền về sẽ gặp phải lực cản lợi ích nhóm. Gắn liền với các chỉ tiêu tăng trưởng là “chiếc ghế” nhiệm kỳ và lợi ích cục bộ.  Trong cơ chế xin - cho, tính minh bạch còn hạn chế, điều tất yếu mà dư luận thường nghi ngại, các nơi vẽ dự án không phải vì tính hiệu quả kinh tế xã hội của chính dự án đó mà vì những khoản hoa hồng và đặc quyền sau đó.
Để trị được căn bệnh “tư duy nhiệm kỳ” và “lợi ích nhóm”, góp phần hạn chế các lực cản trong quá trình tái cơ cấu, theo các chuyên gia kinh tế, cần một thái độ kiên quyết, dứt khoát từ người đứng đầu. Không phải vô cớ khi ông Nguyễn Văn Phúc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế của Quốc hội băn khoăn: “Chúng ta giao Bộ Tài chính cải cách DNNN, Ngân hàng Nhà nước cải tổ ngành ngân hàng, hay Bộ Kế hoạch đầu tư cải cách lĩnh vực đầu tư công và phân cấp thì liệu có ổn không?”. Còn TS. Lê Xuân Bá (Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương) bình luận: “Người đã ngồi gốc cây thì không bao giờ chặt cây đổ vào mình. Nếu cứ để lãnh đạo các bộ ngành tự tái cấu trúc, có thể tiến bộ nhưng không nhiều!”. Ông Nguyễn Văn Phúc đề nghị: “Chúng ta cần một thiết chế mới độc lập hơn như một Ủy ban về Tái cấu trúc nền kinh tế. Đến lúc đó mới giải quyết được vấn đề liên bộ, tránh xung đột lợi ích nhóm”.