HN: Báo chí chính thống của Việt Nam mới đây nhấn mạnh việc
Chính phủ Việt Nam đang xem xét khả năng sẽ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế
liên quan tới việc nước này hạ đặt giàn khoan HD 981 trái phép, vi phạm lãnh
hải của Việt Nam trên Biển Đông.
Tranh chấp pháp lý ở tầm vóc quốc tế không phải là chuyện có
thể thực hiện một cách duy ý chí, theo kiểu “quán triệt, quyết tâm thực hiện
nghị quyết” mà người Việt vẫn thường quen làm trong nhiều thập niên qua.
Việc này không chỉ đòi hỏi kiến thức pháp luật quốc tế của
các chuyên gia giàu kinh nghiệm mà còn phải có các cơ sở khách quan làm bằng
chứng thuyết phục cho các yêu sách, đòi hỏi hoặc sự khẳng định chủ quyền theo
đúng thông lệ quốc tế.
Để có cái nhìn khách quan và đa chiều cho câu hỏi: “Ai mới thực sự có chủ quyền theo luật pháp và
thông lệ quốc tế tại quần đảo Hoàng Sa?” có lẽ chúng ta cần tham khảo nhiều ý
kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu độc lập thay vì tự bằng lòng với các lập
luận quen thuộc thường được định hướng một cách chủ quan.
Binh pháp xưa có câu: “Biết người biết ta, trăm trận trăm
thắng”. Muốn chiến trhắng trong cuộc chiến pháp lý về chủ quyền ở Biển Đông trên
trường quốc tế buộc chúng ta phải có đầy đủ kiến thức, đầy đủ chứng cứ một cách
khách quan chứ không phải nói lấy được theo kiểu "mẹ hát con khen hay". Hơn nữa, nhất thiết cũng phải biết đối phương đang có gì trong tay và đang chuẩn bị cho cuộc chiến pháp lý này như thế nào?
“Công hàm Phạm Văn Đồng làm lung lay yêu sách chủ quyền của Việt Nam”
Dưới đây là toàn văn bài phân tích của Sam Bateman, nghiên cứu viên cao cấp của Chương trình An ninh Hàng hải, trực thuộc Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS, thuộc Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore), về căng thẳng hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc xoay quanh giàn khoan dầu HD-981 và tranh chấp chủ quyền giữa hai nước đối với quần đảo Hoàng Sa.
Bạn đọc lưu ý khẳng định của tác giả: “Vấn đề ai có chủ quyền đối với Hoàng Sa là trọng tâm của tình hình hiện nay”, và “Yêu sách chủ quyền hiện nay của Việt Nam bị lung lay nghiêm trọng vì Bắc Việt đã công nhận chủ quyền của Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa vào năm 1958, và sau đó cũng không có phản đối gì suốt từ năm 1958 đến năm 1975”.
Quan điểm của người dịch: Nếu thực sự chìa khóa để giải quyết tình hình hiện nay là xác định chủ quyền đối với Hoàng Sa, thì mọi chuyện không đến nỗi vô vọng. Đã có nhiều bài phân tích, nghiên cứu bác bỏ Công hàm Phạm Văn Đồng 1958. Tuy nhiên, chìa khóa có lẽ nằm ở chỗ khác.
Quan điểm của người dịch: Nếu thực sự chìa khóa để giải quyết tình hình hiện nay là xác định chủ quyền đối với Hoàng Sa, thì mọi chuyện không đến nỗi vô vọng. Đã có nhiều bài phân tích, nghiên cứu bác bỏ Công hàm Phạm Văn Đồng 1958. Tuy nhiên, chìa khóa có lẽ nằm ở chỗ khác.
Bài viết đăng ngày 15/5/2014 trên Eurasia Review. Trong nguyên bản tiếng Anh, Biển Đông được gọi là South China Sea (biển Hoa Nam) và Hoàng Sa được gọi là Paracel.
* * *
AI CÓ CHỦ QUYỀN ĐỐI VỚI HOÀNG SA?
- Sam Bateman
Căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam xoay quanh các vấn đề chủ quyền trên Biển Đông lại bùng lên vào ngày 2/5/2014 khi Trung Quốc đặt một giàn khoan dầu vào vùng biển ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam phản đối hành động này và gửi tàu đến để phá hoạt động của giàn khoan. Trung Quốc đáp lại bằng cách điều thêm tàu đến bảo vệ giàn khoan. Với số lượng tàu đụng độ nhau trong khu vực, bạo lực đã nổ ra như một tất yếu vào ngày 7/5, làm một số thủy thủ Việt Nam bị thương và một vài tàu Việt Nam bị hư hại.
Việt Nam tổ chức một chiến dịch ngoại giao và PR (public relations – quan hệ công chúng) mạnh mẽ để biện hộ cho lập trường của họ. Có vẻ như họ đang chiến thắng trong trận chiến PR, với việc có rất nhiều bình luận trong cộng đồng quốc tế ủng hộ yêu sách của Việt Nam rằng giàn khoan dầu kia là bất hợp pháp, và xem tình hình như một ví dụ mới nữa cho thấy sự hung hăng của Trung Quốc.
Tuy nhiên, nếu nhìn sâu hơn vào thực tế, có thể thấy rằng Trung Quốc có lẽ đang thực hiện đúng quyền của mình khi triển khai giàn khoan. Dù vậy, chắc chắn là Trung Quốc đã có thể xử lý tình huống một cách ngoại giao hơn thay vì hành xử đơn phương theo cái cách tất yếu sẽ dẫn đến làm gia tăng xung đột.
Xác định vị trí giàn khoan
Giàn khoan nằm cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lý về phía đông và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 180 hải lý về phía nam. Đây là hai điểm gần nhất trên đất liền để từ đó có thể xác định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa một cách chắc chắn. Tuy nhiên, có một điều cũng quan trọng như thế, là giàn khoan nằm ở vị trí chỉ khoảng 14 hải lý tính từ một hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc có yêu sách chủ quyền, và 80 hải lý tính từ đảo Phú Lâm (Woody Island, thuộc Hoàng Sa), một cấu trúc địa lý lớn, với diện tích khoảng 500 hecta, mà Trung Quốc đang chiếm hữu.
Phú Lâm là một hòn đảo mà, không còn tranh cãi gì nữa, đáp ứng quy chế về đảo như Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) quy định, và do đó, nó đầy đủ điều kiện để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa bao quanh. Mặc dù cộng đồng quốc tế có bình luận này khác, nhưng một đường biên giới hàng hải đã được đàm phán trong khu vực này thì chắc chắn sẽ xác định rằng giàn khoan dầu nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, ngay cả khi những lập luận của Trung Quốc khẳng định các đặc tính của đảo có kém sức thuyết phục đi chăng nữa.
Việt Nam tuyên bố rằng, do giàn khoan ở gần đất liền của họ hơn gần Trung Quốc và nằm hoàn toàn trong khoảng cách 200 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam, cho nên nó rơi vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Nghe qua thì lập luận này có vẻ thuyết phục, nhưng gần gũi về địa lý không thôi thì không phải là một cơ sở rõ ràng cho việc ra yêu sách chủ quyền hay quyền chủ quyền. Trên thế giới, có rất nhiều ví dụ về những nước có chủ quyền đối với các cấu trúc địa lý nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của nước khác, hoặc có những đường phân định vùng đặc quyền kinh tế được thiết lập gần một quốc gia nào đó hơn hẳn quốc gia khác.
Vấn đề chủ quyền
Vấn đề ai có chủ quyền đối với Hoàng Sa là trọng tâm của tình hình hiện nay. Nếu Việt Nam có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa thì chẳng còn gì phải tranh cãi. Tuy nhiên, mặc dù cộng đồng quốc tế có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam có hồ sơ bảo vệ cho yêu sách chủ quyền của mình, nhưng những phân tích sâu hơn về lịch sử cuộc tranh chấp lại cho thấy một thực tế khác.
Yêu sách chủ quyền hiện nay của Việt Nam bị lung lay nghiêm trọng vì Bắc Việt đã công nhận chủ quyền của Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa vào năm 1958, và sau đó cũng không có phản đối gì suốt từ năm 1958 đến năm 1975. Chính quyền một số nước, gồm cả Hoa Kỳ, đã thừa nhận – công khai hoặc ngấm ngầm – chủ quyền của Trung Quốc đối với một số hoặc toàn bộ các hòn đảo trong quần đảo này. Trung Quốc đã chiếm hữu đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa từ cuối Thế chiến II. (Nếu Bắc Việt chiếm được hòn đảo lớn này thì) Sự chiếm đóng của Bắc Việt có thể đã có tác động đáng kể đến các chiến dịch của quân Mỹ nhằm vào Bắc Việt trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam.
Chính quyền Mỹ đã yêu cầu các bên có yêu sách chủ quyền phải quan tâm và kiềm chế trước tình hình. Tuy nhiên, lâu nay Mỹ vốn chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo Phú Lâm, cho nên sẽ là rất đạo đức giả nếu giờ đây Washington ra một tuyên bố nào đó mạnh mẽ hơn và được coi như ủng hộ lập trường của Việt Nam.
Rồi sẽ đi đến đâu?
Các sự cố trước đây xoay quanh quần đảo Hoàng Sa chủ yếu liên quan đến vấn đề kiểm soát ngư trường và việc Trung Quốc bắt giữ các tàu cá Việt Nam hoạt động giữa hoặc gần các đảo thuộc Hoàng Sa. Chắc chắn là Việt Nam có thể tuyên bố mạnh mẽ rằng ngư dân của họ có truyền thống đánh bắt cá ở vùng biển này – cũng hoàn toàn giống như Trung Quốc lập luận ngư dân Trung Quốc có quyền đánh bắt cá truyền thống ở nơi nào đó khác trên Biển Đông.
Có lẽ sẽ tốt hơn cho Việt Nam nếu họ chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa; đổi lại, Trung Quốc nhân nhượng quyền đánh bắt cá truyền thống trong khu vực cho ngư dân Việt Nam và đồng ý khai thác chung nguồn lợi hải sản trong vùng biển giữa quần đảo Hoàng Sa và bờ biển Việt Nam. Tuy nhiên, không may là dường như cả hai nước đều đã đi đến cái điểm không thể quay trở lại được nữa để mà có thể thỏa thuận một sự dàn xếp. Việt Nam đang dốc sức cho một cơ hội mong manh, bằng việc cố gắng vận động quốc tế và khu vực ủng hộ lập trường của họ; nhưng trên thực tế, họ có thể kết thúc trắng tay.
Quan điểm cứng rắn của tất cả các bên trong tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông đều là những quan điểm thiển cận và không tránh khỏi việc làm gia tăng căng thẳng, gây mất ổn định khu vực. Cứ theo hướng này, sẽ có “kẻ bại trận”, trong khi lẽ ra tất cả đều có khả năng là “người chiến thắng” nếu các bên đều thừa nhận nhu cầu phải hợp tác phụ thuộc lẫn nhau trong việc quản lý biển và nguồn lợi từ biển. Về mặt địa lý, sự thực là ở một số vùng biển, sẽ không thể có được những đường biên giới hàng hải thẳng nét, và do đó độc quyền sở hữu nguồn lực ở đó là điều không thể.
Cái trớ trêu của tình hình hiện nay là, hợp tác phụ thuộc không chỉ là một việc tốt cần làm mà còn là một nghĩa vụ thực sự, theo Phần IX trong UNCLOS về các vùng biển nửa kín (bán nội hải, semi-enclosed waters) như Biển Đông. Nghĩa vụ đó đã bị quên lãng, trong khi các nước vẫn tiếp tục khẳng định yêu sách chủ quyền đơn phương của họ và có nguy cơ sẽ phải lãnh kết cục “người thắng-kẻ thua”.
Nguồn: http://www.eurasiareview.com/15052014-new-tensions-south-china-sea-whose-sovereignty-paracels-analysis/
Nếu công hàm 1958 của Phạm
Văn Đồng không hiện hữu...
Trương Nhân Tuấn
Các viên chức nhà nước CSVN
thường hay nói rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là « vũ khí tuyên
truyền » của Trung Quốc. Thực ra điều này chỉ có thể thuyết phục được các
học giả trong nước. Vì không có điều kiện tiếp cận thông tin, hoặc do áp lực
của « sổ lương » hay « sổ hưu », do đó các học giả VN dễ
dãi tin theo. Trong lúc các tác phẩm của các học giả, những nhà nghiên cứu quốc
tế… những người thân VN thì cho rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đã làm
yếu đi hồ sơ chủ quyền của VN tại HS và TS. Có người trung dung, không thân phe
nào, cho rằng VN đã bị « estopped – forclusion », tức bị mất tố
quyền. Phía Trung Quốc, mới đây cũng lên tiếng rằng VN đã bị
« Estoppel » nhưng không biết là vào trường hợp nào ?. Theo
người viết thì công hàm 1958 đã khiến VN bị mắc vào trường hợp « estoppel
par acquiescement - estoppel by acquiscence ».
(Ý nghĩa của thật từ luật học
« Estoppel » là thế nào, lý ra phải cần một nhà luật học giàu kinh
nghiệm, để có thể giảng nghĩa nói rõ rệt về các « trường phái » Estoppel
trên thế giới. Chưa thấy có học giả người Việt nào nói về Estoppel một cách đầy
đủ và thuyết phục. Thật đáng tiếc).
Tiểu đoạn này thử đặt giả sử
rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng không hề hiện hữu. Ông Phạm Văn Đồng
chưa bao giờ ký, và nhà nước VNDCCH chưa bao giờ ra tuyên bố bất kỳ liên quan
lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc.
Câu hỏi đặt ra là chủ quyền
của Việt Nam
ở quần đảo Hoàng Sa có bị mất vào Trung Quốc hay không ?
Học giả Monique
Chemillier-Gendreau, sau khi phản bác ý kiến một số học giả quốc tế cho rằng
công hàm Phạm Văn Đồng khiến VN bị vướng nguyên tắc « estoppel », đã
có ý kiến về việc này :
« Néanmoins, son silence
devant l’affirmation de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété
comme un acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la
déclaration relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan.[i] »
Tạm dịch : « dầu
vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung
Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được
củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo
Nhân Dân. »
Thế nào là « sự đồng
thuận – acquiescement » và hiệu lực pháp lý của nó như thế nào ?
« l’Acquiescement »
được định nghĩa là « thuật ngữ thuộc quá trình tố tụng chỉ định hành vi
qua đó một bên tranh chấp, một cách minh thị hay mặc thị, vô điều kiện hay có
điều kiện, chấp nhận một nghĩa vụ hay một yêu cầu của bên kia. »
Theo tập quán quốc tế, (thể
hiện qua các án lệ của các tòa án quốc tế), ít khi nào một bên bị
mắc « acquiescement » chỉ vì một dấu hiệu (ưng thuận) đơn lẻ nào
đó. Một « sự đồng thuận – acquiescement » luôn là sự kết tinh của một
quá trình logic, một tập hợp những « dấu hiệu » thể hiện trong một
thời gian lâu dài, từ đó cấu thành một « lập trường » (một thái độ)
của một bên.
Ý kiến của học giả Monique
Chemillier-Gendreau, trong bối cảnh phản bác ý nghĩa VN bị ràng buộc theo
nguyên tắc « estoppel », như đã thấy trong câu dẫn trên, VN đã thể
hiện một loạt các hành vi có thể cấu thành yếu tố « đồng thuận ».
Sau khi Trung Quốc ra tuyên
bố đơn phương về lãnh thổ và hải phận ngày 4 tháng 9 năm 1958 (Tuyên bố
này có hình thức « décision[ii] - quyết
định » hơn là hình thức « notification[iii] »).
Theo tập quán quốc tế, các nước nếu công nhận lập trường này, sẽ gởi công hàm
trả lời mang hình thức « reconnaissance[iv] – công
nhận ». Trường hợp không đồng ý thì gởi công hàm « phản đối –
protestation[v] ».
Giả sử rằng phía VN « im
lặng », không bày tỏ bất kỳ một hành vi nào liên quan đến tuyên bố của
Trung Quốc. (Tức giả sử rằng công hàm Phạm Văn Đồng không hiện hữu).
Theo tập quán quốc tế, thái
độ « im lặng » này sẽ được hiểu là sự « đồng ý ám thị -
consentement tacite ».
Thí dụ trường hợp Trung quốc
ra tuyên bố về vùng « Nhận
diện phòng không » ngày 23-11-2013. Tuyên bố này phù hợp với công pháp
quốc tế.
Điều 1 của Công ước Chicago
1944 qui định vùng bầu trời phía trên lãnh thổ, lãnh hải và vùng tiếp cận lãnh
hải của một quốc gia thì thuộc chủ quyền của quốc gia đó. Tức là trong vòm trời
đó, quốc gia có đầy đủ thẩm quyền quốc gia đối với người hay các phương tiện
qua lại.
Một quốc gia bất kỳ nếu không
lên tiếng phản đối, hay bảo lưu một điều nào đó trong tuyên bố (như chồng lấn
vùng không gian, không chấp nhận việc đe dọa sử dụng vũ lực – theo điều 3 của
Tuyên bố...) thì tuyên bố này tự động có hiệu lực.
Thì thái độ « im
lặng » của VN sau khi TQ tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của họ năm 1958,
có nghĩa là sự « đồng ý ám thị », một hình thức thụ động của nguyên
tắc « acquiescement ».
Một số hành vi khác củng cố
thái độ « đồng thuận » của VN (về chủ quyền của TQ tại HS), điều này
học giả Monique Chemillier-Gendreau đã nhắc tới. Đó là các bài viết trên
báo Nhân Dân vào thập niên 60 nhìn nhận vùng biển Hoàng Sa (mà Đệ thất hạm đội
của Mỹ đang hoạt động) thuộc về TQ. Hoặc các bản đồ do Bộ Tổng tư lệnh
Quân đội Nhân dân Việt Nam
xuất bản năm 1960 (trên đó quần đảo Nam Sa – tức Trường Sa - được đánh dấu là
lãnh thổ Trung Quốc). Hay bản đồ do Cục Bản đồ Việt Nam xuất bản năm 1972, trong đó
quần đảo Nam Sa được chú thích bằng tiếng Hoa, chứ không phải bằng tiếng Việt,
tiếng Anh hay tiếng Pháp.
Thái độ khác, quan trọng hơn
cả là sự « im lặng » của VNDCCH vào tháng giêng năm 1974 khi Trung
quốc dùng vũ lực xâm lăng Hoàng Sa của VN.
Hành vi xâm lăng của TS đòi
hỏi các bên Việt Nam
phải có một thái độ dứt khoát. Phía VNCH đã có hành động quyết liệt, sử dụng
quyền « tự vệ chính đáng » để bảo vệ lãnh thổ bằng vũ lực, sau đó
bằng những tuyên bố tố cáo hành vi TQ trước cộng đồng quốc tế. Các hành vi này
đã khẳng định chủ quyền của VN tại Hoàng Sa cũng như vùng biển chung quanh.
Sự im lặng của VNDCCH được
hiểu là « đồng ý ám thị » hành vi của Trung quốc là chính đáng. Mặt
khác, các bên VNDCCH và MTGPMN từ chối ký tên vào bản tuyên bố phản đối TQ do
phía VNCH đề nghị.
Các điều này kết tinh, đồng
thời củng cố, yếu tố « acquiescement - đồng thuận » của VN về các đòi
hỏi về danh nghĩa chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Các án lệ, kết quả phán quyết
dựa trên thái độ « đồng thuận – acquiescement » của một bên có
rất nhiều. Các trường hợp nổi tiếng như phán quyết của Trọng tài Max Huber
trong vụ tranh chấp các đảo Palmas (l'acquiescement de l'Espagne) năm 1934. Vụ
tranh chấp lãnh thổ giữa Bỉ và Hòa Lan (CIJ 20 juin 1959). Tranh chấp Thái-Miên
về ngôi đền Préah-Vihéar (CIJ 15 juin 1962). Vụ Barcelona, phán quyết CIJ ngày
24-7-1964. Hay phán quyết ngày 22-12-1965 tranh chấp Pháp-Hoa Kỳ...
Tức là, có hay không có công
hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, hoặc là công hàm này có hiệu lực hay không có
hiệu lực, các tranh cãi của các học giả VN sẽ không làm thay đổi cốt lõi của
vấn đề : VNDCCH đã nhìn nhận những đòi hỏi về chủ quyền của TQ tại HS và
TS.
Tức là, người đã nằm trong
quan tài và nắp áo quan đã đóng lại. Tranh cãi về công hàm Phạm Văn Đồng tương
tự việc có cần đóng đinh hay không đóng đinh nắp quan tài.
Vấn đề đáng lẽ phải là : có
ai kiểm soát rằng người trong hòm có thật sự chết hay chưa ? Hay là có phương
pháp nào để cứu sống người trong hòm hay không ?
Một thực tế pháp lý cần phải
được phản biện bằng các lý lẽ, chứng cứ pháp lý, chứ không thể phản biện bằng
những lý lẽ sai (do bóp méo dữ kiện lịch sử, pháp lý) hay bằng thái độ đà điểu.
Phải nhìn nhận thực tế « pháp
lý » này để « mở đường » khác cho VN hầu thoát khỏi bế tắc do giàn khoan 981
đem lại trên thềm lục địa VN.
Và đó là vấn đề mà người viết
sẽ trình bày trong bài sắp tới.
[i] Monique Chemillier-Gendreau, sdd, tr 123.
[ii] Nguyen Quoc Dinh, Patrick Daillier, Mathias
Forteau, Alain Pellet - Doit International Public, L.G.D.J, 8e Edition,
đoạn 242, tr 405
[iii] Doit International Public , sdd, đoạn 242,
tr 405.
[iv] Doit International Public , sdd, đoạn 237,
tr 396.
[v] Doit International Public , sdd, đoạn 237,
tr 396-397.
Các viên chức nhà nước CSVN thường hay nói rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là « vũ khí tuyên truyền » của Trung Quốc. Thực ra điều này chỉ có thể thuyết phục được các học giả trong nước. Vì không có điều kiện tiếp cận thông tin, hoặc do áp lực của « sổ lương » hay « sổ hưu », do đó các học giả VN dễ dãi tin theo. Trong lúc các tác phẩm của các học giả, những nhà nghiên cứu quốc tế… những người thân VN thì cho rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đã làm yếu đi hồ sơ chủ quyền của VN tại HS và TS. Có người trung dung, không thân phe nào, cho rằng VN đã bị « estopped – forclusion », tức bị mất tố quyền. Phía Trung Quốc, mới đây cũng lên tiếng rằng VN đã bị « Estoppel » nhưng không biết là vào trường hợp nào ?. Theo người viết thì công hàm 1958 đã khiến VN bị mắc vào trường hợp « estoppel par acquiescement - estoppel by acquiscence ».
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét