Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Báo cáo báo... cầy!

Báo cáo của Chi hội Nhà báo Báo Đại đoàn kết kể lể dông dài công trạng của ông Đinh Đức Lập để bào chữa cho hành vi gian lận giải báo chí quốc gia của ông Lập cùng sự tiếp tay của Chi hội Nhà báo báo Đại đoàn kết.

Mặc dù trước đó  Hội đồng giải báo chí quốc gia buộc ông Lập phải có đơn xin rút giải và Ban thư ký Chi hội nhà báo báo Đại đoàn kết phải chịu trách nhiệm về sự tiếp tay cho ông Lập hoàn tất hành vi gian lận.  Thế nhưng báo cáo này  cho biết ông Lập chỉ có ý kiến đề nghị rút giải (bằng mồm) và cái báo cáo vẫn thể hiện đầy đủ bản chất của những kẻ ngoan cố, loanh quanh không chịu nhận sai lầm, không thừa nhận hành vi gian dối, vi phạm điều lệ giải cũng như các quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng, về quyền tác giả...

Chỉ trong phạm vi một cái báo cáo thôi mà đã lột tả được quá nhiều điều tồi tệ về cách hành xử và nhận thức của một số người hàng ngày vẫn dùng ngòi bút  để dạy đời, thường xuyên rao giảng, lên lớp về đạo đức nghề báo ở Đại đoàn kết... Than ôi!




Thế nhưng, Quyết định sau đây của Hội đồng giải báo chí quốc gia cho thấy cái báo cáo nói trên của Chi hội báo Đại đoàn kết thực ra cũng chỉ là một thứ báo... cầy mà thôi! 




KHÁM PHÁ NGÔI MỘ 6500 NĂM TRƯỚC CỦA NGƯỜI VIỆT Ở HÀ NAM TRUNG QUỐC

Hà Văn Thùy
31-07-2014
Tháng Năm 1987, các nhà khảo cổ Trung Quốc phát hiện khu mộ cổ tại dốc Tây Thủy, thành phố Bộc Dương tỉnh Hà Nam. Khu mộ có 45 ngôi. Ngôi số 45 được khảo sát đặc biệt. Định tuổi bằng C14, ngôi mộ có niên đại khoảng 6500 năm (6460+/- 135), thuộc trung kỳ văn hóa Ngưỡng Thiều. Đầu mộ quay về hướng nam, chân phía bắc, phía đông là một con rồng ghép bằng vỏ sò, có móng vuốt, sống động như thật; phía tây của nó giống như một con hổ bằng vỏ sò, đầu lặng lẽ, uy nghi; phần bụng con hổ ghép bằng vỏ sò có hình giống hoa mai.
Ngôi mộ số 45 có ba người tuẫn táng ở ba hướng Đông, Tây, Bắc, được chôn theo một độ xiên nhất định. Kiểm tra các bộ xương cho thấy những người tuẫn táng trong độ tuổi từ 12 tới 16, đầu của họ có dấu vết đâm, chứng tỏ là những cái chết không tự nhiên. Dưới chân mộ chủ có hình tam giác và hai ống xương chày trẻ em lấy từ ngôi mộ số 31.
Mộ số 45
Mộ số 45
Sau khi phát hiện báu vật, Trung Quốc đã xây nhà bảo tàng lớn để giới thiệu khu mộ này.
Ông Từ Thiều Sam, nhà phong thủy từng nghiên cứu ngôi mộ đưa ra nhận định sau:
“1. Mộ Bộc Dương số 45 có hình thanh long bạch hổ và 28 địa điểm đồ hình tương ứng với đồ hình thanh long bạch hổ, (cho thấy) thanh long bạch hổ đồ của mộ Bộc Dương số 45 là tứ tượng đồ. Theo hình dạng và kích thước của thanh long bạch hổ trong mộ Bộc Dương 45 thấy bảy con số phù hợp vị trí có thể được xác định 28 địa điểm đã được thiết lập tại thời điểm chôn cất.
  1. Xa nhất về phương nam theo hướng tý ngọ (Bắc Nam) của mộ 45 là mộ số 31. Chủ nhân mộ số 31 ở phía cực nam là một đồng nữ, là thần Hạ chí. Ba nạn nhân hiến tế trong mộ 45 thì một là biểu tượng của thần Xuân phân (phía Đông, đồng nam), thần Thu phân (phía Tây, đồng nữ) và thần Đông chí (Bắc, đồng nam). Tại đây chu kỳ mùa được hoàn tất. Người xưa đã có một niềm tin văn hóa rất đầy đủ: Đông, Xuân là dương, được biểu thị bằng đồng nam; Hạ, Thu là âm được biểu thị bởi đồng nữ.
  2. Thứ ba, trong phần bụng con hổ bằng vỏ sò ở ngôi mộ số 45, có một loạt các vỏ sò nằm rải rác. Đống này nằm trong bụng của con hổ bằng vỏ sò, đồ hình ngọn lửa trong bụng con hổ chỉ nhằm để khẳng định lẫn nhau. Trong đồ án của ngôi mộ 45 với mô hình đồ án đối chiếu, chúng phản ánh chính xác cùng một nội dung, hình ảnh là một “bản đồ sao” (tinh đồ). Trong bụng hổ là mặt trời hình hoa mai, theo thông lệ là ngày Xuân phân. Khái quát, ngôi mộ được sắp xếp theo tượng sao lúc hoàng hôn ngày Xuân phân.  
  3. Đo bằng con số ngôi mộ có sẵn BP’P = B’P’P = 24 ° 00 ‘. Thứ hai, những vỏ sò trong bụng con hổ có hình hoa mai là mặt trời, theo tiền lệ đó là quỹ đạo của sao vào ngày Xuân phân.
  4. Đêm quan sát sao Bắc Dẩu, ngày dựng tiêu. Dưới chân chủ nhân ngôi mộ số 45 có hình tam giác nhỏ và hai xương chày trẻ em. Xương chày như cán của chòm Bắc Đẩu. Bắc Đẩu được người xưa dùng trong chiêm tinh học. Đêm quan sát Bắc Đẩu, ngày dựng tiêu đo bóng. Phương pháp cắm tiêu đo hình cổ nhất là người xưa thông qua bóng trên cơ thể người thay đổi phương hướng mà dần dần học được cách thiết kế, đó là “tiêu.” Do cơ thể con người, cọc tiêu và thời gian có mối quan hệ đặc biệt, vì vậy người xưa gọi là “thời gian đo đùi”, ý nghĩa của chân đùi con người. Bắc Đẩu đồ trong ngôi mộ Bộc Dương 45, chân, tiêu và thời gian liên kết lại, phản ánh người xưa thông qua dựng tiêu đo bóng và quan trắc Bắc Đẩu để xác định thời điểm.
  5. Để xương chày như cán của chòm sao Bắc Đẩu, xác định bốn tượng kiến lập trên quan sát tại Bắc Đẩu.
  6. Tôn thờ vật tổ của Trung Quốc tồn tại trong 6500 năm trước. Từ tính toán vị trí tứ tượng đồ tinh, người xưa tiến hành tối thiểu 100.000 quan sát chiêm tinh trước khi bắt đầu ghi chép.
  7. Đây là lần đầu tiên ở Trung Quốc phát hiện bố cục âm trạch phong thủy, quyết định phương hướng phát triển của phong thủy sau này.
  8. Ngôi mộ số 45 đầu hình bán nguyệt, chân mộ vuông chứng tỏ quan niệm trời tròn đất vuông đã hình thành.
  9. Theo 28 địa điểm và chia ra bốn thần cho thấy 6500 năm trước đã nắm được sự vận hành của năm và sáng tạo các hệ thống thiên văn can chi.”
 Ý kiến của chúng tôi:
濮阳西水坡45号墓示意图  Sơ đồ ngôi mộ số 45
濮阳西水坡45号墓示意图 Sơ đồ ngôi mộ số 45
Trước hết phải khẳng định, chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều 6500 năm trước là người Việt. 40.000 năm cách nay, người Autraloid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa, đã để lại những di chỉ: Động Người Tiên, với mảnh gốm đầu tiên trên thế giới 20.000 tuổi cùng hạt lúa trồng sớm nhất 12.400 năm. Tiếp đó là văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước, Hà Mẫu Độ 7000 năm trước. Người Việt mang giống kê, giống lúa lên lưu vực Hoàng Hà. Tại vĩ độ 35, do khí hậu quá khô, cây lúa không sống được nên cây kê trở thành cây lương thực chủ yếu. Khoảng 7000 năm trước, tại trung du Hoàng Hà, người Việt tiếp xúc với người sống trên đồng cỏ bờ phía Bắc (sau này Đồng Cỏ được nói trại thành Mồng Cỏ rồi Mông Cổ), sinh ra chủng người mới Mongoloid phương Nam (North Mongoloid). Người Mongoloid phương Nam do người mẹ Việt sinh ra, sống trong dân cư văn hóa Việt, nói tiếng Việt nên là người Việt. Như vậy là, một chủng người Việt mới ra đời. Với thời gian, số lượng người Mongoloid phương Nam tăng lên, trở thành chủ nhân văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều. Văn hóa Ngưỡng Thiều có diện tích khoảng 3.000.000 m2, bao gồm các tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc… Như vậy, ngôi mộ Bộc Dương số 45 với 6500 tuổi là của người Việt.
Gần 2000 năm sau (khoảng 2700 năm TCN), người Mông Cổ phương Bắc tràn vào chiếm đất của người Việt ở nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Người của Hoàng Đế hòa huyết với người Việt, sinh ra lớp người lai, tự nhận là Hoa Hạ, được coi là tổ tiên người Hán. Do số lượng ít nên sau thời Chu, người Hoa Hạ hòa tan trong cộng đồng người Việt đông đúc. Người Ngưỡng Thiều là tổ tiên cả người Hoa Hạ và người Việt, hai cộng đồng dân cư tạo thành người Hán ngày nay.
Mộ Bộc Dương 45 là cột mốc có ý nghĩa đặc biệt, cho thấy 6500 năm trước người Việt đã có:
  1. Kiến thức thiên văn học trưởng thành. Đã hình thành quan niệm trời tròn đất vuông, khám phá sao Bắc Đẩu cùng Nhị thập bát tú trên bầu trời.
  2. Đã sáng tạo can, chi, lịch pháp với những ngày tiết trong năm.
  3. Đã trưởng thành về thuật phong thủy và áp dụng trong mai táng.
  4. Từ những tri thức trên chứng tỏ rằng người Việc lúc này đã nắm được dịch lý. Đây là bằng chứng vững chắc khẳng định Dịch là sáng tạo của tộc Việt đồng thời cho thấy, dịch lý đã hình thành từ trước thời điểm này.
Sẽ có người nói rằng ông nhà văn này hư cấu bay bổng. Những chuyện quá xa xôi ấy lấy đâu làm bằng? Xin thưa rằng không thiếu!
Ta biết, vùng Hà Nam hiện nay có Hán Thủy và một chi lưu của nó là Đan Giang. Hai con sông làm nên đồng bằng Trung Nguyên, được coi là trung tâm phát tích của người Trung Hoa. Nhưng trước đấy hai sông này có tên Việt là sông Nguồn và sông Đen (do nước trong xanh nên có tên vậy), những con sông làm nên đồng bằng Trong Nguồn, là trung tâm lớn của người Việt. Do cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, người Việt từ đây chạy về Việt Nam, mang theo câu ca Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra. Sau khi làm chủ đất này, người Hoa Hạ đổi Trong Nguồn thành Trung Nguyên, Sông Đen thành Đan Giang, Sông Nguồn thành Hán Thủy.
濮阳西水坡45号墓的青龙白虎图和曾侯乙墓漆箱盖28宿青龙白虎图对比 Mộ Bộc Dương Tây Pha số 45 thanh long bạch hổ đồ và 28 điểm tương ứng với thanh long bạch hổ đồ

濮阳西水坡45号墓的青龙白虎图和曾侯乙墓漆箱盖28宿青龙白虎图对比
Mộ Bộc Dương Tây Pha số 45 thanh long bạch hổ đồ và 28 điểm tương ứng với thanh long bạch hổ đồ
Từ truyền thuyết hay những ghi chép hiếm hoi sau này ta biết, người Trung Hoa gọi những vị vua huyền thoại xa xưa là Cộng Công, Nữ Oa… Nếu truy tới tận nguồn, đấy là cách nói biến âm của tiếng Việt: Klong à sông à Cộng Công. Nước à nõa à Nữ Oa. Ông vua thứ tư thời Hoàng Đế là Đế Khốc, tên của con chim Cốc, được mô tả có nước da đen của dân phương Nam. Bà Khương Nguyên vợ của ông là người con gái thị tộc Thái (thai thị nữ), một dòng Việt sống ở Thiểm Tây. Ông vua khởi nghiệp nhà Thương là Thành Thang. Thang là Than đọc trại. Do da đen nên trong Thương tụng Kinh Thư gọi là “thiên mệnh huyền điểu.” Sách cũng nói rằng thời Thương, trên địa bàn Trung Nguyên có nước Dương Việt từng chống lại nhà Thương. Khi nhà Chu mới lập, cũng nổi lên kình chống nhà Chu. Nước Dương Việt hay Ư Việt này là của người Việt từ xa xưa, luôn chống lại sự xâm lăng của người Mông Cổ cùng sự thống trị của Hoa Hạ. Thượng thư nhiều lần ghi lại việc vua Thuấn “dẹp loạn Tam Miêu.” Tam Miêu là một trong những tên mà người Hoa Hạ đặt cho người Việt bản địa.
Chúng ta biết, nữ hoàng đế duy nhất của Trung Hoa là Võ Tắc Thiên. Tuy nhiên khó ai ngờ bà lại là người Việt. Wikipedia ghi: nhũ danh (tên thời con gái) của bà là Mỵ Nương. Một danh xưng dùng cho con gái quý tộc người Việt. Khi làm vua, bà có hai tôn hiệu: Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (越古金轮圣神皇帝) và Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (慈氏越古金轮圣神皇帝). Đáng chú ý là từ Việt cổ được ghi theo ngữ pháp Việt mà không phải ngữ pháp Hán (cổ Việt)!
濮阳西水坡45号墓分析图 Bộc Dương Tây Thủy pha số 45 mộ phân  tích đồ

濮阳西水坡45号墓分析图
Bộc Dương Tây Thủy pha số 45 mộ phân tích đồ
Năm chục năm trước, khi triết gia Kim Định viết: “tiếng Hán cũng như chữ Hán đều là của người Việt”, đã gây phản ứng dữ dội trong học giả Sài Gòn. Nhiều người cho ông là cực đoan, hoang tưởng. Nhưng nay thì người ta chứng minh được, Kim Định đã đúng. Không chỉ “tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa mà chữ Việt cũng là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa.” Chiều hôm qua, anh Đỗ Ngọc Thành, một người bạn Việt gốc Triều Châu gọi về cho tôi từ Sacramento nói rằng: “Người Tàu đọc chữ Hán chỉ là những thằng mù xem voi. Chữ vuông vốn được tạo ra để ký âm tiếng Việt. Nên mọi chữ Hán chỉ được đọc bằng âm Việt, giải nghĩa bằng tiếng Việt mới chính xác.” 

Đúng hay không, xin quý vị xem thử. Người Trung Hoa gọi tên ông vua cuối đời Thương và Chu là Kiệt và Trụ. Nhưng đó là gọi sai vì hai ông vua tàn bạo dâm bôn được dân đặt là “cặc” và “đụ”. Do không hiểu nghĩa của hai từ Việt này, người Hoa theo âm mà phiên ra như chúng ta thấy hôm nay! Hàng ngàn năm văn nhân tài tử Trung Hoa gọi quê quán nàng Tây Thi là “Trữ La thôn”. Cái tên nghe có vẻ trữ tình nhưng vô nghĩa vì đó chỉ là xóm Trái, xóm Tả trong tiếng Việt! Trên đời chẳng làm gì có cái tên “Câu Tiễn” quái dị mà chỉ có ông vua người việt vốn tên là Cu Tí! Các đại nho Trung Quốc không biết Lệnh Doãn là chức quan gì nên ghi vào từ điển: “Lệnh doãn, chức quan của nước Sở, tương đương tể tướng.” Trong khi đó là quan lang, quan loan, quan loãn của người Việt! Câu cuối bài Quan thư nổi tiếng nhất của Kinh Thi “quân tử hảo cầu” là đã bị cụ Khổng xuyên tạc theo thanh giáo. Câu ca gốc của người Việt là “quân tử hiếu kều”: giữa bãi vắng, gặp người đẹp, quân tử Tàu (của cụ Khổng) mang vòng kim cô thanh giáo nên chỉ đứng đó mà “cầu!” Quân tử Việt thì không thế mà động thủ, sẽ kều khều ve vuốt!
Còn nhiều, nhiều lắm những bằng chứng lý thú như vậy. Có lẽ chỉ khi nào những thức giả người Việt Nam, Quảng Đông, Quảng Tây chung tay viết cuốn BÁCH VIỆT ĐẠI TỪ ĐIỂN mới có thể gom đủ!             
22. 7. 2014
Tham khảo:

徐韶杉:从阴宅风水看仰韶天文

Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

Ông Đinh Đức Lập lại tiếp tục "ngồi nhầm ghế"

Mười ngày sau khi ông Đinh Đức Lập mất chức tổng biên tập báo Đại đoàn kết, ngày 25/7/2014, Ban thường trực Ủy ban trung ương MTTQW Việt Nam đã công bố quyết định bổ nhiệm ông Lập làm Phó giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và  Nghiên cứu khoa học MTTQ Việt Nam. Một vị trí mà theo quy định và yêu cầu của công tác mặt trận ông Đinh Đức Lập không hề có đủ yêu cầu về năng lực, trình độ cũng như phẩm chất đạo đức cần thiết.

Ông Đinh Đức Lập nhận quyết định công tác mới trong lúc chưa hoàn tất việc bàn giao hồ sơ tài chính tại báo Đại đoàn kết. Và cơ quan báo đang có quyết định thanh tra, kiểm toán về tài chính trong thời kỳ ông Lập làm tổng biên tập. từng bị tố cáo có nhiều chuyện nhập nhèm. Trong đó có việc bổ nhiệm cháu ruột Đinh Quang Sơn làm kế toán trưởng, ngang nhiên thực hiện quy trình “cháu trình – chú duyệt”,  biến công tác tài chính của báo Đại đoàn kết như một tổ chức kinh tế gia đình.

Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học MTTQ Việt Nam được thành lập hồi đầu năm 2013, với chức năng chính là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Mặt trận các cấp; Tổ chức nghiên cứu, tổng kết thực tiễn những vẫn đề lý luận về đại đoàn kết dân tộc; Xây dựng và tổ chức hoạt động bảo tàng Mặt trận, giáo dục truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền thống của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam.

Trung tâm này theo cơ cấu tổ chức tương đương với một ban của MTTQ Việt Nam. Vì vậy, với cương vị mới này, ông Lập được tính tương đương vị trí Phó Tổng biên tập tại báo Đại Đoàn Kết. Tuy nhiên, vị trí này theo quy định có yêu cầu rất cao về trình độ học vấn. Người lãnh đạo trung tâm  phải có học hàm học vị ít nhất từ thạc sĩ đến tiến sĩ trở lên.

Yêu cầu này là cần thiết và xuất phát từ thực tiễn công tác mặt trận trong thời gian hiện nay và cho tương lai. Nếu như Mặt trận thực sự có mong muốn trở thành một tổ chức hữu hiệu, thiết thực và có ích cho cuộc sống.

Được bổ nhiệm vào vị trí phó giám đốc của trung tâm đòi hỏi khắc khe về trình độ như thế này song ông Đinh Đức Lập lại sở hữu những thành tích đầy tai tiếng trong chuyện gian lận về bằng cấp, năng lực, trình độ trong rất nhiều năm qua.

Ông Lập từng bị đuổi khỏi ban lãnh đạo của Trung ương Đoàn Thanh niên Công sản Hồ Chí Minh vì tai tiếng xài bằng cấp giả; bị mất chức tổng biên tập báo Đại đoàn kết vì dính dáng tới nhiều hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo. Trong đó, rùm beng nhất và làm ảnh hưởng xấu tới uy tín của báo Đại đoàn kết và  MTTQ Việt Nam nhất là việc gian lận giải báo chí quốc gia năm 2013 mới đây. [Xem ở đây]
  
Một cán bộ, đảng viên có thành tích đặc biệt gây tai tiếng trong suốt nhiều năm qua như ông Đinh Đức Lập (nhất là những chuyện liên quan tới việc gian lận bằng cấp, giải thưởng…) đã nhiều lần bị tố cáo và bị mất chức, nay lại được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học MTTQ Việt Nam xem ra không chỉ đáng quan ngại mà còn có vẻ buồn cười và có phần thách thức dư luận.

Khỏi cần phải xem xét về vấn đề năng lực và trình độ chuyên môn của ông Đinh Đức Lập trong vai trò Phó giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học MTTQ Việt Nam. Vì theo quy định, ông Lập đã không đủ tiêu chuẩn, chưa kể ông này còn có quá nhiều tai tiếng về chuyện xài bằng giả, gian lận giải thưởng, vi phạm nghiêm trọng đạo đức người làm báo, phẩn chất đạo đức cán bộ công chức nhà nước và tư cách đảng viên.

Ông Đinh Đức Lập trong thời gian làn tổng biên tập báo Đại đoàn kết đã có nhiều hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp trở thành tổng biên tập ghi được nhiều kỷ lục tai tiếng nhất làng báo Việt Nam trong lịch sử.

Cũng chính vì những thành tích đầy tai tiếng này mà ông Lập tiếp tục bị tố cáo và bị kỷ luật đẫn tới mất chức tổng biên tập báo Đại đoàn kết mặc dù được sự bao che hết mực của ông Vũ Trọng Kim – Phó chủ tịch kiêm tổng thư ký MTTQ Việt Nam.

Nay ông Kim lại tiếp tục sử dụng “đệ tử” Lập cho một vai trò mới dù ông Lập không hề có đủ tiêu chuẩn theo quy định. Tiền thuế của dân (ngân sách MT được Nhà nước cung cấp) nay được giao cho những cán bộ tha hóa, biến chất như Đinh Đức Lập sử dụng để đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học cho công tác Mặt trận nghe thật xót xa làm sao!

Lịch sử đau thương của báo Đại đoàn kết nay chẳng lẽ lại tái hiện ở Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học MTTQ Việt Nam chỉ vì sự thao túng của một vài cá nhân nào đó trong tổ chức MTTQ Việt Nam?

Ông Đinh Đức Lập liệu còn có tư cách để trở thành người lãnh đạo một trung tâm đang mang lại nhiều kỳ vọng cho sự phát triển và nâng cấp trình độ hoạt động của hệ thống mặt trận trong tương lai?

Liệu những cán bộ mặt trận đang sống chết với địa bàn, đang cố gắng xây dựng, giữ gìn và phát triển uy tín của Mặt trận tại cơ sở sẽ học được gì từ một người lãnh đạo trung tâm bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học MTTQ Việt Nam như ông Đinh Đức Lập?

Hay là chuyện bổ nhiệm này càng làm cho dư luận xã hội nhìn thấy rõ hơn sự tha hóa không thể sửa chữa được của công tác  tổ chức cán bộ trong hệ thống chính trị hiện nay của xã hội ta?

Lợi ích nhóm ra sức bảo kê che chắn cho nhau cùng tham nhũng, tiêu cực bất chấp quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước đang kéo lùi sự phát triển của xã hội và đưa đất nước ta tới bờ vực của sự sụp đổ?

Làm hại cho Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực ra không ai còn có thể làm tốt hơn được những kẻ như Đinh Đức Lập cùng nhóm lợi ích của ông ta!

P/S:

Được biết, chiều ngày 15/8/2013, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã có buổi làm việc với ông Vũ Trọng Kim - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và Ban thường trực về thành lập Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học MTTQ Việt Nam.



Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng và Phó Chủ tịch UB TW MTTQ Việt Nam - Vũ Trọng Kim  tại buổi làm việc

Tham dự buổi làm việc có đại diện Vụ Ngân sách Nhà nước, Vụ Hành chính sự nghiệp và Văn phòng Bộ Tài chính. Tại buổi làm việc, ông Vũ Trọng Kim thay mặt Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã đề xuất Bộ Tài chính hỗ trợ một số cơ chế tài chính đặc thù trong quá trình thực hiện Đề án, để Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học MTTQ Việt Nam sớm được triển khai xây dựng và đi vào hoạt động, đáp ứng yêu cầu về đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cho MTTQ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. [Xem ở đây]

Phải chăng, ông Đinh Đức Lập được ông Kim điều về Trung tâm mới thành lập này để tiếp tục thực hiện việc giải ngân các khoảng đầu tư công cho công tác Mặt trận (có lợi cho nhóm lợi ích) sau khi ông Lập đã “không hoàn thành nhiệm vụ” giải tỏa lô đất vàng 66 Bà Triệu của báo Đại đoàn kết?



Giáo sư Carlyle Thayer: "Quan hệ Việt-Trung không thể như xưa sau vụ giàn khoan HD-981"

Quan hệ Việt-Trung không thể như xưa sau vụ giàn khoan HD-981

Carlyle Thayer : Hành động của Trung Quốc đã tạo ra một vết nứt sâu đậm trong giới lãnh đạo Việt Nam. Dư luận Việt Nam rất tức giận vì khủng hoảng giàn khoan và muốn chính phủ phải hành động kiên quyết
Carlyle Thayer : Hành động của Trung Quốc đã tạo ra một vết nứt sâu đậm trong giới lãnh đạo Việt Nam. Dư luận Việt Nam rất tức giận vì khủng hoảng giàn khoan và muốn chính phủ phải hành động kiên quyết
Reuters

Trọng Nghĩa/RFI
Ngày 15/07/2014 có thể nói là Bắc Kinh đã bất ngờ cho rút giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng biển của Việt Nam mà Trung Quốc đòi chủ quyền cũng như hơn 80% còn lại của Biển Đông. Nhiều giả thuyết đã được nêu lên về lý do khiến Bắc Kinh phải giảm nhiệt sau hơn hai tháng gây căng thẳng với Hà Nội. Các giả thuyết đó có thể đúng, có thể sai, tuy nhiên, theo giới chuyên gia, có một điều chắc chắn là hệ quả của vụ HD 981 là quan hệ Việt Trung không thể nào được như trước đây.

Ngay sau ngày Trung Quốc loan báo quyết định di chuyển giàn khoan HD-981 về phía đảo Hải Nam, Giáo sư Carlyle Thayer; chuyên gia phân tích về Biển Đông tại Học viện Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales) đã dành cho Ban Việt Ngữ RFI một bài phỏng vấn (18/07/2014) về khả năng diễn biến trước mắt của quan hệ Việt-Trung thời hậu HD-981. 

Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn

RFI : Trung Quốc đã rút giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng biển tranh chấp với Việt Nam một tháng sớm hơn so với dự kiến ​​ban đầu. Giáo sư đánh giá sao về động thái này ?
Thayer : Trung Quốc đã rút giàn khoan dầu ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vì ba lý do : (1) Giàn khoan HD-981 được cho là đã hoàn thành nhiệm vụ thương mại là tìm kiếm dầu khí. (2) Trung Quốc đã cho rút giàn khoan và đội tàu hộ tống đi để giảm thiểu nguy cơ đến từ bão Rammasun. (3) Trung Quốc di chuyển giàn khoan để tác động đến Việt Nam trước lúc mở ra Hội nghị đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam mà mục tiêu là cân nhắc một hành động pháp lý chống lại Trung Quốc (kiện Trung Quốc).
Lý do thứ ba nêu trên quan trọng nhất bởi vì nó mở ra cánh cửa cho các cuộc thảo luận song phương giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Điều này có thể thúc đẩy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có một cách tiếp cận thận trọng và gạt bỏ khả năng hành động pháp lý.
Ngoài ra, việc rút giàn khoan sớm hơn dự định diễn ra một tháng trước Hội nghị Ngoại trưởng thường niên của Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF). Điều này cho phép Trung Quốc chuyển dịch trọng tâm chú ý của Diễn đàn, từ hành động khiêu khích của Trung Quốc qua việc tập trung vào hợp tác.
Tóm lại, Trung Quốc đang tìm cách chuyển từ việc đối đầu trên biển qua đối thoại chính trị.
RFI : Có thể gắn liền việc Trung Quốc cho rút giàn khoan với sức ép đến từ ngành ngoại giao Mỹ gần đây hay không ?
Thayer : Ngành ngoại giao Mỹ đã đóng một vai trò quan trọng nhưng không quyết định. Trung Quốc đã đoan chắc rằng Mỹ sẽ tổ chức một cuộc phản công chính trị lớn tại cuộc họp của Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN ARF năm nay,và bằng cách mở cửa cho các cuộc thảo luận song phương với Việt Nam. Trung Quốc đang tìm cách làm cho Mỹ hụt chân. 
Quan trọng hơn, bằng cách mở cửa cho các cuộc thảo luận song phương với Hà Nội, Trung Quốc hy vọng rằng Việt Nam sẽ đáp ứng lại bằng cách bác bỏ các kế hoạch của phe thân Mỹ trong giới lãnh đạo, muốn Việt Nam liên kết chặt chẽ hơn với Mỹ và Nhật Bản. 
Nói cách khác, cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu là một ví dụ khác về tính toán của Trung Quốc đẩy các con chốt tiến lên để xem họ có thể đi xa đến đâu, trước khi thối lui. Trung Quốc hiện đã xác định được rằng họ có thể triển khai một giàn khoan dầu ở vùng biển tranh chấp mà tương đối không bị trừng phạt. 
RFI : Theo Giáo sư, động thái tiếp theo của Trung Quốc sẽ là gì vì Bắc Kinh luôn luôn nói rằng họ không hề làm gì sai trong vụ giàn khoan ? 
Thayer : Động thái tiếp theo của Trung Quốc sẽ là lôi kéo Việt Nam vào các cuộc đàm phán, qua đó tăng cường uy thế cho cái gọi là nhóm thân Trung Quốc tại Hà Nội hoặc là phe mà tôi gọi bằng thuật ngữ "thỏa hiệp" (accommodationist). 
Các nhà lãnh đạo Hà Nội sẽ tìm cớ để đưa quan hệ song phương Việt-Trung trở lại đường hướng trước đây (trước vụ giàn khoan). Trung Quốc nhắm mục tiêu phá tan bất kỳ nỗ lực nào của Việt Nam trong việc xúc tiến một hành động pháp lý chống Trung Quốc, và như vậy sẽ khuyến khích các quốc gia khác trong khu vực làm theo. 
Trung Quốc muốn lấy lại thế chủ động chính trị-ngoại giao và chuyển trọng tâm chú ý trở lại các cuộc đàm phán ASEAN-Trung Quốc về việc thực thi bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và các cuộc thảo luận liên quan đến một bộ quy tắc ứng xử. 
Trung Quốc, tuy nhiên, sẽ tiếp tục tăng áp lực đối với Philippines tại vùng bãi cạn Scarborough và bãi Cỏ Mây Second Thomas Reef và tiếp tục các hoạt động đòi lại các đảo trong khu vực quần đảo Trường Sa. 
Qua tháng Năm năm tới, có thể dự trù là Trung Quốc sẽ có những cuộc tấn công mới trong lãnh vực thực thi lệnh cấm đánh cá của họ trên Biển Đông; và thực hiện các hoạt động thăm dò dầu hỏa khác. 
RFI : Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc có thể trở lại tình trạng như trước vụ triển khai giàn khoan dầu hay không ?
Thayer : Hành động của Trung Quốc đã tạo ra một vết nứt sâu đậm trong giới lãnh đạo Việt Nam. Dư luận Việt Nam nói chung rất tức giận vì cuộc khủng hoảng giàn khoan và muốn chính phủ phải có hành động kiên quyết. Trong khi phe bảo thủ trong chính quyền Hà Nội rất có thể là sẽ hoàn toàn phản ứng thuận lợi trước Trung Quốc, sức đề kháng đáng kể chống lại kiểu "kinh doanh như bình thường" với Trung Quốc đã thẩm thấu vào Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Điểm mấu chốt gây căng thẳng là tính chất hữu hiệu của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa được tôn lên thành nhân tố trung tâm của mối quan hệ song phương Việt-Trung đã đi ngược lại lợi ích dân tộc Việt Nam Hành động của Trung Quốc đặt giàn khoan dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã góp phần làm suy yếu lòng tin chiến lược giữa hai bên. 
Nói cách khác, cuộc khủng hoảng giàn khoan đã biến quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc thành một trò cười. Trong bất kỳ trường hợp nào trong tương lai, từ ngữ này khi được dùng sẽ vang lên một cách rỗng tuếch trong công chúng. 
RFI : Việt Nam có thể rút ra những bài học gì từ vụ đối đầu với Trung Quốc ?
Thayer : Việt Nam sẽ kết luận rằng các lực lượng bán quân sự của họ - Cảnh sát Biển và Kiểm ngư - không đủ để ngăn việc Trung Quốc đặt một giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong tương lai.
Việt Nam cũng sẽ kết luận rằng mặc dù được nhiều quốc gia hỗ trợ về mặt chính trị, ASEAN đa phần sẽ không thay đổi chính sách và đối đầu với Trung Quốc trên việc Bắc Kinh không tuân thủ luật pháp quốc tế cũng như các cam kết không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực.
Việt Nam cũng sẽ kết luận rằng cuộc khủng hoảng giàn khoan đã đánh động được Nhật Bản để nước này trợ giúp vật chất cho Việt Nam, cụ thể là tàu tuần duyên (bằng tín dụng mềm lấy từ quỹ ODA). Việt Nam có thể hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ tăng cường cam kết về an ninh hàng hải và trợ giúp Việt Nam trong việc giám sát vùng biển của mình.
Bài học căn bản mà Việt Nam sẽ phải nhớ là phải luôn luôn cảnh giác với Trung Quốc vì hành động triển khai giàn khoan dầu vừa qua đã làm suy yếu lòng tin chiến lược giữa hai nước. Việt Nam sẽ phải đánh giá lại chính sách quan hệ đối ngoại đa phương của mình.
Khuôn khổ đó đã thành công khi các cường quốc bên ngoài hợp tác với Việt Nam, nhưng lại không thích hợp trường hợp (giàn khoan) hiện tại. Việt Nam phải xem xét các chiến lược mới để làm đối trọng với Trung Quốc.
RFI : Động thái tiếp theo của Việt Nam sẽ phải là gì ? 
Thayer : Việt Nam hiển nhiên là phải tích cực đáp ứng nếu Trung Quốc báo hiệu rằng họ đã sẵn sàng tiếp đón một phái đoàn cấp cao để thảo luận về cuộc khủng hoảng giàn khoan và về việc quản lý các vấn đề Biển Đông. Nhưng Việt Nam không nên rơi vào cái bẫy của Trung Quốc làm hòa mà không có được bảo đảm chắc chắn về các hành vi tương lai của Bắc Kinh. Việt Nam cần phải kiên quyết trong các cuộc thảo luận riêng để đòi Trung Quốc cam kết hành động phù hợp với các thỏa thuận trước đây giữa hai bên. 
Việt Nam cũng phải ủng hộ chính sách của Mỹ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành xử dựa trên luật lệ và tuân thủ luật pháp quốc tế. Việt Nam phải thúc đẩy mạnh mẽ điều này trong khối ASEAN. Mục tiêu chính của ASEAN nên chuyển từ việc đặt trọng tâm trên một bộ quy tắc ứng xử cho Biển Đông COC qua việc nhấn mạnh đến việc đòi tất cả các đối tác đối thoại của khối, kể cả Trung Quốc, là phải tôn trọng các chuẩn mực và pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. 
Việt Nam cũng phải tiếp tục để mở khả năng tiến hành hành động pháp lý (kiện) Trung Quốc nếu nước này làm quá trong tương lai. 
Việt Nam nên cố gắng định hình chương trình của Hội nghị các Tư lệnh Hải quân ASEAN, Diễn đàn Hàng hải ASEAN Mở rộng và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN sao cho các cơ chế này chú trọng hơn đến các biện pháp thiết thực để tăng cường an ninh hàng hải ở Đông Nam Á, trong đó có Biển Đông.
Việt Nam cần phát triển mối quan hệ chặt chẽ với Philippines (đã được tiến hành), Malaysia, Indonesia và Singapore. Cuối cùng, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc phòng và an ninh với càng nhiều đối tác đối thoại càng tốt trên cả hai cơ sở song phương và đa phương.

Xã Hội Chủ Nghĩa và Nói Dối [1]

Nguyễn Huy Vũ


Bốn kinh tế gia Lars Hornuf của đại học Munich, Đức, và Dan Ariely, Ximena Garcia-Rada, và Heather Mann của Đại Học Duke, Hoa Kỳ, làm một nghiên cứu kinh tế thực nghiệm [2](experimental economics) ở Đức và cho thấy rằng những người từng sống lâu ở Đông Đức có khuynh hướng nói dối nhiều hơn để đạt mục đích cá nhân.

Thí nghiệm đơn giản như sau. 250 người sống ở Berlin được chọn ngẫu nhiên. Mỗi người được tung con xúc xắc 40 lần, rồi tính cộng điểm, điểm càng cao thì càng được trả tiền thưởng cao.

Ở đây, trước khi tung con xúc xắc mỗi lần, người tung phải tự hứa với chính mình là sẽ chọn điểm của mặt trên hay mặt đáy của con xúc xắc để tính cho lần tung đó. Điểm mỗi lần tung sẽ được ghi ra giấy và sau 40 lần như vậy, cộng lại ra tổng điểm để tính thưởng.

Ví dụ, tôi tự hứa trong đầu trước 1 lần tung là chọn mặt trên của con xúc xắc để tính điểm, khi tung con xúc xắc xuất hiện 2 điểm ở mặt trên, nếu tôi là người ngay thẳng, tôi sẽ ghi là 2; còn nếu tôi là người gian dối thì tôi sẽ ghi điểm của đáy con xúc xắc là 5. Việc chọn mặt tính điểm của con xúc xắc là tự nguyện và không ai kiểm tra được.

Thêm vào đó, người chơi có quyền chọn tung một lần 1 con, 2 con, 3 con, 4 con, 5 con hay 6 con xúc xắc cùng lúc. Nếu như người lương thiện thì việc chọn mặt tính điểm trước rồi chọn quay 1 con hay 2, 3, 4, 5, 6 con cùng lúc không ảnh hưởng mấy đến kết quả, vì theo thống kê thì các biến cố này là độc lập lẫn nhau, và do đó, số người chọn quay 1 con sẽ bằng số người chọn quay 2, 3, 4, 5, 6 con. Còn nếu người không lương thiện, họ sẽ chọn 6 con xúc xắc quay cùng một lúc và sau đó chọn mặt nào điểm cao thì tính điểm, ghi vào sổ để được hưởng tiền thưởng cao.

Kết quả cho thấy có một tỉ lệ lớn người chọn quay nhiều con xúc xắc cùng lúc. Người tổ chức bảo họ ghi nơi sinh sống trước đây ở Đức và độ tuổi. Kết quả cho thấy trung bình những người có gốc gác ở Đông Đức có xu hướng nói dối  gấp hai lần người lớn lên ở Tây Đức, và người sống càng lâu dưới chế độ “xã hội chủ nghĩa” thì càng nói dối.

Kết quả cho thấy có một sự liên hệ giữa “xã hội chủ nghĩa” và sự thiếu thành thật.

Tác dụng pháp lý của thư Phạm Văn Đồng qua lăng kính ba phán quyết Tòa án Quốc tế

Phạm Quang Tuấn

Gần đây một số tác giả, trong đó có cả những luật sư, đã phân tích giá trị pháp lý của thư (hoặc công hàm hay công thư [1]) của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1958) dựa theo các nguyên tắc pháp lý quốc tế. Dĩ nhiên, biết những nguyên tắc luật pháp nào phải áp dụng là điều rất quan trọng, nhưng điều quan trọng chẳng kém là phải biết Tòa diễn giải và áp dụng những nguyên tắc đó ra sao. Bài này duyệt qua phán quyết của Tòa án Quốc tế về ba vụ án tranh chấp chủ quyền: đảo Pedra Branca, Đông Greenland và đền Preah Vihear.

Trong vụ Pedra Branca có một lá thư từ một viên Đổng lý tương tự như thư Phạm Văn Đồng. Vụ Đông Greenland không có văn kiện chính thức mà chỉ có một lời nói từ một vị Ngoại trưởng. Vụ Preah Vihear không có văn kiện hay lời nói nào từ bỏ chủ quyền của mình hay công nhận chủ quyền của nước khác. Cả ba việc này đều đóng một phần quan trọng đưa đến việc Tòa xử mất chủ quyền. Từ đó, ta sẽ có thể suy ra vài điều về tác dụng của thư Phạm Văn Đồng nếu chủ quyền Hoàng sa - Trường sa được đem ra kiện trước tòa. Người nào không có thì giờ đọc hết có thể đi thẳng đến câu cuối (kết luận 14) bài này.

Lưu ý:

Vài lý lẽ trong bài này có thể khiến tác giả bị gọi là “thân Tàu” hay “Việt gian”. Trong bối cảnh Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, xin hãy coi bài này như một cố gắng kiểm điểm áo giáp của mình trước khi ra trận, xem có lỗ thủng nào không để tìm cách vá lại. Nếu tìm ra lỗ thủng thì “Việt gian” “thân Tàu” không phải là người kiểm điểm, mà chính là người gây ra lỗ thủng.

Phần I. Ý định trong thư Phạm Văn Đồng

Như ta sẽ thấy trong các phần sau, ý định (intention) diễn tả trong một lá thư hay văn kiện chiếm một vai trò chính yếu trong sự phân xử của Tòa án Quốc tế. Vì có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung của thư Phạm Văn Đồng nên cần xem lại thư này nói gì. Nguyên văn thư Phạm Văn Đồng như sau ([A] và [B] do tác giả bài này đánh số thêm để tiện việc bàn luận):

Kính gửi đồng chí Chu Ân Lai,
Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa tại Bắc Kinh.
Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
[A] Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
[B] Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
nước Việt-nam dân chủ cộng hoà

Thư này “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố” ngày 4/9/1958 của Trung Quốc mà nội dung như sau (theo bản tiếng Anh của Bộ Ngoại giao Mỹ viện dẫn tạp chí Peking Review [2]):

Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, gồm Trung Quốc đất liền và các đảo dọc bờ, Ðài Loan và các đảo lân cận, quần đảo Penghu và tất cả các đảo khác trên biển cả thuộc Trung Quốc.
(2) Đường cơ sở của lãnh hải thuộc đất liền Trung Quốc và các đảo dọc bờ biển là các đường thẳng nối liền các điểm cơ sở trên bờ và các đảo ngoại biên dọc bờ biển [offshore outlying islands]; Vùng biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là lãnh hải của Trung Quốc. Vùng biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong đường cơ sở, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongding, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được đi vào hải phận Trung Quốc và vùng trời trên hải phận này.
(4) Những nguyên tắc trong đoạn (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện còn bị chiếm đóng bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Đây là vấn đề nội bộ của Trung Quốc, các nước ngoài không được xen vào.

Thư Phạm Văn Đồng là một lá thư chính thức (công thư hay công hàm), ký tên và đóng dấu bởi Thủ tướng một quốc gia, người đứng đầu Chính phủ, nhân danh Chính phủ để nói và đầy đủ tư cách để đại diện quốc gia của mình.

Bức thư gồm hai câu chính: câu đầu (A) bày tỏ lập trường, thái độ: tán thành bản tuyên bố của Trung Quốc. Câu sau (B) nói về hành động cụ thể: chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc.

Nhiều tác giả và phát ngôn viên Việt Nam (chẳng hạn [3]) cho rằng vì thư Phạm Văn Đồng không viết rõ những chữ “Hoàng sa” và “Trường sa” nên không thể nói là đã chấp nhận chủ quyền Trung Quốc ở hai quần đảo trên. Họ cho rằng bản tuyên bố nói về bề rộng 12 hải lý là ý chính, những ý khác (kể cả hải phận quanh Hoàng sa - Trường sa) chỉ là ý phụ, thư Phạm Văn Đồng chỉ tán thành ý chính này chứ không tán thành những ý phụ. Những người sính ngôn ngữ luật gọi đây là “nguyên tắc bốn góc”: chỉ được hiểu từ những gì được viết ra trong văn bản, không được suy diễn thêm.
Có người còn viện dẫn nguyên tắc “phải giải thích văn bản theo cách nào ít hại nhất cho tác giả” trong luật quốc tế. Tuy nhiên, dù giải thích “trong bốn góc” và “ít hại nhất” thì cũng vẫn phải hợp lý và tuân theo những nguyên tắc logic phổ quát và các định luật ngôn ngữ căn bản. Chẳng hạn, trong vụ Pedra Branca ta sẽ thấy Tòa hiểu câu “[chúng tôi] không đòi hỏi sở hữu [đảo này]” là “[chúng tôi] không đòi hỏi chủ quyền [đảo này]”, dù theo luật pháp thì không có sở hữu chưa chắc là không có chủ quyền.

Thử áp dụng nguyên tắc “trong bốn góc”, ta đọc thấy rằng ông Phạm Văn Đồng đã “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố”. Lưu ý chữ “bản”, nói về cả văn bản, chứ không phải chỉ nói về một trong những tuyên bố trong văn bản: mặc nhiên là ông Phạm Văn Đồng đã tán thành toàn bộ nội dung của bản tuyên bố đó. Nếu chỉ tán thành một phần và không tán thành phần khác thì không thể nói là tán thành bản tuyên bố được. Bản tuyên bố nói trong đoạn 4 rằng lãnh hải Trung Quốc bọc quanh Hoàng Sa và Trường Sa, tức là ông Phạm Văn Đồng đã tán thành điều đó, không cần phải nhắc lại trong thư của mình.

Lấy ví dụ, khi tòa án hỏi nhân chứng: “Ông/bà có hứa sẽ nói sự thật, tất cả sự thật và không gì khác ngoài sự thật?” (Do you swear to say the truth, the whole truth and nothing but the truth?), nhân chứng chỉ cần trả lời “I do” là đủ hiểu họ hứa tất cả những điều được hỏi, chứ không thể hiểu là họ chỉ hứa phần 1 nhưng không hứa phần 2 hay 3, v.v., và chắc chắn là không thể cãi rằng “tôi chỉ nói ‘I do’ chứ tôi đâu có hứa gì đâu?”. Hoặc trong thủ tục kết hôn, khi được hỏi “Anh/chị có hứa/thề sẽ...” (theo sau là nhiều lời hứa) cô dâu chú rể chỉ cần trả lời “Có” (I do) chứ không cần phải nhắc lại tất cả các lời hứa người hành lễ vừa đọc.

Có người cho rằng câu B trong thư Phạm Văn Đồng làm hẹp lại nghĩa của câu A: câu A tán thành chung chung, câu B mới viết cụ thể là tôn trọng hải phận 12 hải lý. Khi mà nói về một điều tức là loại ra hay bác bỏ những điều không nói. Lý luận đó chỉ có thể đúng nếu không có đoạn “tán thành bản tuyên bố” trong câu A, vì không thể vừa tán thành một bản văn vừa không tán thành nhiều điều trong bản văn đó. Hơn nữa, câu B không phải là làm rõ nghĩa câu A như nhiều người lý luận, mà nói về một hành động cụ thể (chỉ thị các cơ quan...) phát sinh từ sự tán thành trong câu A.

Có người cho rằng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa không cần thiết phải tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa vì những đảo này đang dưới sự quản lý của Việt Nam cộng hòa. Lý luận như vậy là lẫn lộn chủ quyền với sự quản lý. Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hòa nói rõ rằng nước Việt Nam là một nước thống nhất không thể phân chia, tức là Việt Nam dân chủ cộng hòa tự coi là có chủ quyền trên mọi phần đất Việt Nam từ bắc tới nam, và mọi hải đảo.

Có người [4] viết rằng, dựa theo “nguyên tắc thực lòng” (principle of good faith) trong luật quốc tế, vì Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa là những người rất yêu nước, đã từng hy sinh xương máu để bảo vệ chủ quyền đất nước nên họ không thể thực lòng muốn nhường lãnh thổ cho nước khác, do đó Tòa án Quốc tế sẽ không nhìn nhận ý định đó trong thư Phạm Văn Đồng. Diễn giải “thực lòng” theo kiểu này thì thật kỳ quặc, vì như vậy mỗi nước sẽ có quyền tha hồ tuyên bố, ký hiệp ước lừa bịp các nước khác, rồi tuyên bố rằng tôi không “thực lòng” (in good faith) khi viết hay ký những văn kiện đó và do đó chúng không ràng buộc tôi được! Diễn giải kiểu đó thì “nguyên tắc thực lòng” sẽ phải gọi là “nguyên tắc dối trá” (principle of bad faith)!

Thực ra, sự “thực lòng” trong giao dịch quốc tế phải hiểu là người viết hay ký thực lòng hiểu ý nghĩa của cái mình đang viết hay đang ký như thế nào, và sẽ thực lòng thi hành những gì đã hứa, chứ không có nghĩa là khi mình nói dối, nói mà “không thực lòng”, thì không sợ sẽ bị ràng buộc. Nguyên tắc này cần thiết để diễn dịch những hiệp ước, văn kiện trong đó có thể có sự hiểu lầm do khác biệt văn hóa chẳng hạn, và để đảm bảo là mỗi nước thực tâm thi hành những điều đã hứa [5].

Nếu ông Phạm Văn Đồng thực lòng chỉ tán thành việc cho bề rộng lãnh hải Trung Quốc rộng 12 hải lý thì ông vẫn có thể bỏ đoạn A đi, chỉ viết rằng: “Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung-quốc và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý ấy”. Như vậy chẳng đủ biểu lộ sự đoàn kết với nước anh em hay sao? (“Tôn trọng” chưa chắc đã là “tán thành”, tôn trọng nói về hành xử, tán thành nói về thái độ, tâm ý.)

Nói tóm lại, khó chối cãi rằng trong thư Phạm Văn Đồng, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tán thành hay chấp nhận Trung Quốc có chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường sa. Ít nhất, thư này không phản ứng gì về câu “áp dụng cho... quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Nam Sa [Trường Sa]” trong bản tuyên bố của Trung Quốc: ta sẽ thấy là điều này rất quan trọng.

Phần II. Vụ án Pedra Branca

Tóm tắt vụ án

Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge là những đảo nhỏ nằm trong eo biển Malacca giữa Singapore và Malaysia. Thế kỷ 19 trở về trước những đảo này thuộc về vương quốc Johor, nay là một bang của Malaysia. Năm 1844 Johor cho phép chính quyền thuộc địa Anh xây và sau đó liên tục cai quản một hải đăng trên Pedra Branca. Năm 1979 Malaysia (quốc gia kế thừa Johor) công bố một bản đồ vẽ nhóm đảo này nằm trong lãnh hải của mình. Singapore (quốc gia kế thừa chính quyền thuộc địa Anh) phản đối. Hai nước đưa ra Tòa án Quốc tế phân xử năm 2003. Tòa xử là Pedra Branca thuộc về Singapore, Middle Rocks thuộc về Malaysia, còn South Ledge là đảo chìm khi nước lên, nên theo luật biển chủ quyền sẽ tùy thuộc nằm trong lãnh hải của nước nào (lãnh hải khu này chưa phân định xong) [6, 7].

Một sự kiện nổi bật trong quá trình này xảy ra năm 1953. Năm đó, chính quyền thuộc địa Anh viết thư cho Johor yêu cầu làm rõ tình trạng pháp lý của Pedra Branca. Quyền Đổng lý Tiểu bang (Acting State Secretary) Johor viết thư trả lời. Vì đáp thư Johor được tòa coi là có ý nghĩa rất quan trọng trong vụ án này, và có nhiều điểm tương đồng với thư Phạm Văn Đồng, nên cần biết rõ nội dung của nó. Nguyên văn lá thư như sau (đoạn 196 trong [6]):

“I have the honour to refer to your letter . . . dated 12th June 1953, addressed to the British Adviser, Johore, on the question of the status of Pedra Branca Rock some 40 miles from Singapore and to inform you that the Johore Government does not claim ownership of Pedra Branca.”

dịch:

Tôi xin trân trọng đề cập đến thư của ngài ngày 12 tháng 6 năm 1953, gửi cho Cố vấn Anh, Johore, về tình trạng của Pedra Branca cách Singapore khoảng 40 dặm và xin thông báo rằng Chính phủ Johore không đòi quyền sở hữu Pedra Branca.”

Những tiêu chuẩn pháp lý được Tòa áp dụng

Tòa đã xác định những tiêu chuẩn pháp lý được áp dụng như sau (“đoạn xxx” chỉ những đoạn có số thứ tự trong phán quyết của Tòa [6]):

· Muốn kết luận là đã có sự thay đổi chủ quyền thì cần có những bằng cớ rõ rệt, không thể nghi ngờ, căn cứ vào cách hành xử hai bên và những sự kiện liên hệ (đoạn 122).
(122. Critical for the Court’s assessment of the conduct of the Parties is the central importance in international law and relations of State sovereignty over territory and of the stability and certainty of that sovereignty. Because of that, any passing of sovereignty over territory on the basis of the conduct of the Parties, as set out above, must be manifested clearly and without any doubt by that conduct and the relevant facts. That is especially so if what may be involved, in the case of one of the Parties, is in effect the abandonment of sovereignty over part of its territory.)
· Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào hình thức (chẳng hạn, một hiệp ước chuyển nhượng chủ quyền), thậm chí không cần hai bên nói ra (tacit), mà tập trung vào ý định (intention) của hai bên. Sự thay đổi chủ quyền có thể suy diễn từ cách hành xử của hai bên.
(120. Any passing of sovereignty might be by way of agreement between the two States in question. Such an agreement might take the form of a treaty,[...] The agreement might instead be tacit and arise from the conduct of the Parties. International law does not, in this matter, impose any particular form. Rather it places its emphasis on the parties’ intentions (cf. e.g. Temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand), Preliminary Objections, I.C.J. Reports 1961, pp. 17, 31).)
· Nếu một nước không phản ứng khi cần thiết, chẳng hạn khi nước khác khẳng định chủ quyền trên vùng đất của mình, thì chủ quyền có thể coi là đã chuyển qua nước kia. Hành xử này gọi là sự đồng ý hay chấp nhận ngầm (acquiescence).
(121. Under certain circumstances, sovereignty over territory might pass as a result of the failure of the State which has sovereignty to respond to conduct à titre de souverain of the other State or, as Judge Huber put it in the Island of Palmas case, to concrete manifestations of the display of territorial sovereignty by the other State (Island of Palmas Case (Netherlands/United States of America), Award of 4 April 1928, RIAA, Vol. II, (1949) p. 839). Such manifestations of the display of sovereignty may call for a response if they are not to be opposable to the State in question. The absence of reaction may well amount to acquiescence. The concept of acquiescence “is equivalent to tacit recognition manifested by unilateral conduct which the other party may interpret as consent . . .” (Delimitation of the Maritime Boundary in the Gulf of Maine Area (Canada/United States of America), Judgment, I.C.J. Reports 1984, p. 305, para. 130). That is to say, silence may also speak, but only if the conduct of the other State calls for a response.)

Tóm tắt lý luận và phán quyết của Tòa

Để phân xử chủ quyền, Tòa đã xem xét quá trình liên quan đến chủ quyền trong từng giai đoạn lịch sử:

(i) Thời kỳ 1844 trở về trước: Sau khi xem xét những bằng chứng lịch sử, Tòa kết luận rằng ở thời điểm 1844, Pedra Branca và Middle Rocks thuộc về Johor (nay là một tiểu bang của Malaysia).
(ii) Trong thời gian 1844-1852, Johor đã cho phép Anh xây hải đăng trên Pedra Branca. Tòa không kết luận gì về sự kiện này, và cho rằng việc này không có nghĩa là Johor từ bỏ chủ quyền.
(iii) Từ 1852 tới 1952, Johor không có động thái nào khẳng định chủ quyền trên các đảo liên hệ.
(iv) Năm 1953, để trả lời một lá thư từ Đổng lý Thuộc địa (Colonial Secretary) Singapore hỏi về chủ quyền Pedra Branca, quyền Đổng lý Tiểu bang (Acting State Secretary) Johor viết lá đáp thư như đã nói, khẳng định là Johor “không sở hữu” Pedra Branca. Tòa viết trong phần Kết luận rằng lá thư này “có ý nghĩa lớn” (“has major significance” đoạn 275) và kết luận rằng ở thời điểm 1953 Johor đã hiểu (understood), tức là đã chấp nhận, rằng họ không còn chủ quyền trên Pedra Branca (đoạn 223).
(v) Trong khoảng thời gian 1953-1980 Singapore đã nhiều lần khẳng định chủ quyền trên Pedra Branca nhưng Johor/Malaysia không phản ứng. Không những thế đã có những tài liệu và bản đồ Malaysia cho thấy rằng Pedra Branca thuộc Singapore.
Căn cứ vào quá trình trên, Tòa kết luận rằng vị trí hai bên đã dần dà “tiến hóa hội tụ” (convergent evolution) về một quan điểm chung: chủ quyền Pedra Branca thuộc Singapore. Tuy nhiên Middle Rocks được cho là (vẫn) thuộc về Malaysia, vì không có một quá trình “tiến hóa hội tụ” tương tự.
Có thể tóm tắt phán quyết của Tòa như sau: Johor/Malasia đã mất chủ quyền Pedra Branca vì cách hành xử của họ trong suốt nhiều năm cho thấy rằng họ không còn coi đảo này thuộc về họ.

Nhận xét về phán quyết Pedra Branca

· Tuy đòi hỏi bằng chứng rõ rệt, không thể nghi ngờ được cho việc thay đổi chủ quyền, nhưng Tòa coi rằng hình thức của bằng chứng (chẳng hạn hiệp ước chính thức) không quan trọng, mà quan trọng là ý định (intention hay understanding) của hai bên, thông qua cách hành xử.
· Tòa đã xử cho Singapore được chủ quyền Pedra Branca, mặc dù ở thời điểm 1844 chủ quyền thuộc Johor (Malaysia) và sau đó không hề có hiệp ước nào chính thức chuyển nhượng chủ quyền.
· Tòa không căn cứ vào một văn kiện hay biến cố nào duy nhất, mà căn cứ vào một quá trình theo đó quan điểm của hai bên dần dần thay đổi theo cùng một hướng: sự thụ động của Johor/Malaysia từ 1844 tới 1952, đáp thư Johor 1953, sự thụ động của Malaysia khi Singapore thi hành chủ quyền trong thời gian 1953-1980.
· Tuy nhiên, tòa coi đáp thư Johor (1953) là “có ý nghĩa lớn” (has major significance) bởi vì nó cho thấy rằng ở thời điểm đó, Johor không còn coi Pedra Branca là của mình nữa.
· Để ý là Tòa viết (đoạn 222) rằng trong thư này chữ “sở hữu” - ownership – phải hiểu là “chủ quyền” – sovereignty, mặc dù Malaysia đã yêu cầu Tòa phân biệt hai khái niệm đó (đoạn 198): ta thấy là nguyên tắc diễn giải “ít hại nhất” hay “trong bốn góc” không thể đánh bại một cách hiểu hợp lý.
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor là một văn kiện chính thức từ bỏ chủ quyền (đoạn 226), nhưng tòa không chấp nhận (đoạn 228) vì nó chỉ được viết để trả lời một câu hỏi, nên không có tác dụng quyết định về mặt pháp lý (conclusive legal effect) [8].
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor gây ra estoppel (đoạn 226), nhưng tòa không chấp nhận (đoạn 228) vì thư đó không hội đủ các điều kiện cho estoppel, đặc biệt là nó đã không khiến cho Singapore làm gì thiệt hại cho mình. [9].
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor là một hành động đơn phương có tính cách ràng buộc (binding unilateral undertaking) (đoạn 226), nhưng Tòa không đồng ý (đoạn 229) vì đáp thư Johor không viết trong bối cảnh Anh tuyên bố chủ quyền trên Pedra Branca hay đang có tranh chấp, mà chỉ là để trả lời một câu hỏi [8].
· Tuy ba thỉnh nguyện trên của Singapore bị bác, nhưng điều đó không thay đổi kết quả tối hậu: Malaysia vẫn thua kiện.

Phần III. Vụ án Đông Greenland

Tóm tắt vụ án

Đảo Greenland được người Na Uy khám phá và định cư từ khoảng thế kỷ 10-11. Từ 1380 tới 1814 Na Uy là một phần của Đan Mạch. Đan Mạch đã kiểm soát Greenland và chủ quyền của Đan Mạch được một số nước khác ngầm công nhận (acquiesce). Tuy nhiên, những cơ sở của Đan Mạch đều nằm ở Tây Greenland và do đó Na Uy khi đã độc lập cho rằng Đan Mạch không có chủ quyền ở Đông Greenland. Sau nhiều thương nghị không có kết quả, năm 1931 Đan Mạch đem vụ này ra Tòa Công lý Quốc tế Thường trực (Permanent Court of International Justice), tiền thân của Tòa án Quốc tế. Năm 1933 Tòa xử Đan Mạch được chủ quyền toàn đảo Greenland [10].

Câu trả lời của Ngoại trưởng Ihlen

Bài này không đi vào chi tiết vụ án mà chỉ nói về một sự kiện quan trọng mà Tòa cho là có tính cách quyết định. Ngày 14/7/1919 trong một cuộc gặp mặt giữa Ngoại trưởng Đan Mạch và Ngoại trưởng Na Uy, Ngoại trưởng Đan Mạch nói rằng Đan Mạch sắp yêu cầu các nước công nhận chủ quyền Đan Mạch trên toàn thể Greenland, và hy vọng việc này sẽ không gặp khó khăn từ phía Na Uy. Ngoại trưởng Na Uy, ông Ihlen, nói rằng sẽ xem xét vấn đề, và ngày 22/7, trong một cuộc gặp mặt khác, Ihlen nói rằng Na Uy sẽ không gây khó dễ (“ne fera pas de difficultés”) về vấn đề này. Câu nói này được chính Ngoại trưởng Ihlen ghi nhận trong một biên bản, mà Tòa dịch từ tiếng Pháp như sau:
“The Danish Government has for some years past been anxious to obtain the recognition of all the interested Powers of Denmark's sovereignty over the whole of Greenland, and it proposes to place this question before the above-mentioned Committee at the same time. During the negotiations with the U.S.A. over the cession of the Danish West Indies, the Danish Government raised this question in so far as concerns recognition by the Government of the U.S.A., and it succeeded in inducing the latter to agree that, concurrently with the conclusion of a convention regarding the cession of the said islands, it would make a declaration to the effect that the Government of the U.S.A. would not object to the Danish Government extending their political and economic interests to the whole of Greenland.
The Danish Government is confident (he added) that the Norwegian Government will not make any difficulties in the settlement of this question.
I replied that the question would be examined.
14/7 - 19 Ih.”
“II. To-day I informed the Danish Minister that the Norwegian Government would not make any difficulties in the settlement of this question.
22/7 - 19 Ih.”
Tòa nhận xét về câu trả lời của Ihlen như sau (các đoạn đánh số là từ phán quyết của Tòa [10] ):
· Câu trả lời của Ihlen không có nghĩa là Ihlen công nhận Đan Mạch có chủ quyền Đông Greenland (tức là Ihlen có thể hiểu rằng ở thời điểm đó, Đan Mạch chưa coi là mình có chủ quyền Đông Greenland nhưng đang dự định mở rộng chủ quyền sang đó) (đoạn 188).
· Tuy nhiên câu trả lời của Ihlen là một lời hứa có tính cách ràng buộc Na Uy, bởi nó xuất phát từ một Ngoại trưởng, đứng trên cương vị đại diện nước mình để trả lời đại diện ngoại giao một nước khác, về một vấn đề thuộc thẩm quyền của ông ta. Tòa nhấn mạnh là kết luận này không thể nào chối cãi được (beyond dispute) (đoạn 192).
· Tòa coi tuyên bố của Ihlen là vô điều kiện và có tính cách quyết định (definitive) (đoạn 195).
· Do đó, Na Uy không được phản đối hay tranh giành (contest) chủ quyền của Đan Mạch ở Đông Greenland, và dĩ nhiên không được chiếm đóng phần đất nào ở Greenland (đoạn 202).

Nhận xét về phán quyết của Tòa

· Chỉ một lời nói (có biên bản) của một người có thẩm quyền đại diện quốc gia cũng có thể ràng buộc quốc gia đó về vấn đề chủ quyền. Điều này minh chứng rõ nguyên tắc “Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào hình thức” mà ta đã thấy ở Phần II.
· Điều này cũng cho thấy là quan niệm “mọi sự thay đổi chủ quyền phải do quốc hội phê duyệt” là sai lầm. Quan niệm này đôi khi thấy trong các bài báo Việt Nam.
· Điều này cũng cho thấy là những bàn cãi trong cộng đồng và truyền thông tiếng Việt về gọi thư Phạm Văn Đồng là công hàm hay công thư là hoàn toàn vô bổ. Dù gọi là gì đi nữa thì nó cũng đã được ký tên và đóng dấu bởi một Thủ tướng, người đầy đủ thẩm quyền đại diện Chính phủ, và tuyên bố lập trường của Chính phủ.

Phần IV. Vụ án đền Preah Vihear

Tóm tắt vụ án

Preah Vihear là một ngôi đền cổ nằm sát biên giới Thái Lan-Cambodia. Đền này xây trên đỉnh một vách đá, cũng là đường phân thủy, chạy đại khái theo hướng đông-tây, nhìn về phía nam (vùng thấp) là Cambodia, nhìn về phía bắc (vùng cao) là Thái Lan.
Năm 1904, Thái Lan và Pháp (đại diện thuộc địa Cambodia) ký một hiệp ước về biên giới, theo đó thì sẽ dùng đường phân thủy làm biên giới ở khu vực này. Hai nước thành lập một ủy ban liên hợp để xác định biên giới. Áp dụng nguyên tắc đường phân thủy thì Preah Vihear thuộc Thái Lan. Tuy nhiên, năm 1907 sở địa đồ Pháp trình ủy ban liên hợp biên giới một địa đồ theo đó thì đường biên giới vẽ chệch về phía bắc đường phân thủy, khiến Preah Vihear nằm trong lãnh thổ Cambodia. Việc đó gây tranh chấp và được đưa ra phân xử tại Tòa án Quốc tế năm 1962. Tòa xử cho chủ quyền Preah Vihear thuộc về Cambodia [11].

Lý lẽ của Thái Lan

Cambodia chủ yếu dựa vào bản đồ 1907 để chứng tỏ chủ quyền của mình. Những lý lẽ chính của Thái Lan là:
1. Hai nước đã ký hiệp ước thỏa thuận nguyên tắc dùng đường phân thủy làm biên giới, theo đó thì Preah Vihear thuộc Thái Lan. Bản đồ 1907 là do Pháp vẽ và công bố, Thái Lan không dự phần, và đã vẽ sai vì không theo đúng đường phân thủy. Không có văn kiện chính thức nào nói rằng bản đồ này được ủy ban liên hợp 1904 chấp nhận.
2. Thái Lan đã liên tục thi hành chủ quyền ở đền Preah Vihear bằng cách chiếm đóng, quản lý.

Phán quyết của Tòa

Tòa chấp nhận rằng bản đồ 1907 “không có tính cách ràng buộc” ([11], trang 19). Tuy nhiên, nguyên tắc dùng đường phân thủy trong hiệp định biên giới 1904 cũng không ràng buộc nếu cả hai bên thỏa thuận không áp dụng nó trong trường hợp nào đó (“it was certainly within the power of the Governments to adopt such departures”) ([11], trang 20). Vấn đề là có sự thỏa thuận này không ở Preah Vihear, và điều này tùy thuộc vào ủy ban liên hợp 1904.
Tòa nhận xét rằng:
· Bản đồ 1907 đã được trình cho mọi thành viên ủy ban liên hợp 1904 và công bố rất trọng thể, gửi cho nhiều sứ quán Thái Lan và nhiều cơ quan quốc tế. Tuy nhiên, không có lời phản đối nào từ Thái Lan. Tòa cho rằng do đó Thái Lan đã đồng ý ngầm (acquiesce).
· Thái Lan nói rằng chỉ những viên chức thấp của họ thấy bản đồ 1907. Tòa cho rằng đó là lỗi của Thái Lan, nước này phải chịu hậu quả. Hơn nữa, sự sai biệt giữa đường biên giới và đường phân thủy quá rõ rệt nên không thể viện cớ lầm lẫn ([11], trang 24).
· Năm 1934-35, Thái Lan tự làm bản đồ lấy và nhận thấy sự sai biệt, nhưng vẫn không nói gì.
· Năm 1937, Thái Lan vẽ một bản đồ cho thấy Preah Vihear nằm trong lãnh thổ Cambodia.
· Năm 1947 Thái Lan và Pháp thương nghị ở Washington để hòa giải về các vấn đề biên giới, nhưng Thái Lan không đưa ra vấn đề Preah Vihear.
· Chuyến viếng thăm đền của bộ trưởng nội vụ Damrong năm 1930 như là khách của Pháp được coi là đặc biệt quan trọng. Năm 1930, một công sứ Pháp tại Cambodia lấy tư cách “chủ nhà” mời Hoàng thân Damrong, Bộ trưởng Nội vụ Thái Lan, tới thăm Preah Vihear và trương cờ Pháp tại đó. Ông này tới thăm mà không nói gì để khẳng định chủ quyền của Thái Lan. Tòa viết như sau: “Khó có thể tưởng tượng một sự khẳng định chủ quyền rõ ràng hơn thế từ phía Pháp. Việc đó đòi hỏi một phản ứng. Thái Lan đã không làm gì”, và việc đó cho thấy có vẻ Thái Lan đã “ngầm công nhận” (tacit recognition) chủ quyền của Cambodia trên Preah Vihear.
(When the Prince arrived at Preah Vihear, he was officially received there by the French Resident for the adjoining Cambodian province, on behalf of the Resident Superior, with the French flag flying. The Prince could not possibly have failed to see the implications of a reception of this character. A clearer affirmation of title on the French Indo-Chinese side can scarcely be imagined. It demanded a reaction. Thailand did nothing. Furthermore, when Prince Damrong on his return to Bangkok sent the French Resident some photographs of the occasion, he used language which seems to admit that France, through her Resident, had acted as the host country. The explanations regarding Prince Damrong's visit given on behalf of Thailand have not been found convincing by the Court. Looking at the incident as a whole, it appears to have amounted to a tacit recognition by Siam of the sovereignty of Cambodia (under French Protectorate) over Preah Vihear, through a failure to react in any way, on an occasion that called for a reaction in order to affirm or preserve title in the face of an obvious rival claim.)
· Về việc Thái Lan đã chiếm đóng hay quản lý Preah Vihear, Tòa cho là những hành động này thường là do chính quyền địa phương, và không đủ để triệt tiêu (cancel out) lối hành xử im lặng của chính quyền trung ương.
· Năm 1949, Pháp viết thư cho Thái Lan yêu cầu rút lính gác Thái khỏi đền, nhưng Thái Lan không trả lời.
· Năm 1954 Cambodia (mới độc lập) gửi một lá thư tương tự, nhưng Thái Lan không trả lời.
Vì những lý do trên Tòa phán quyết với đa số 9/3 rằng chủ quyền Preah Vihear thuộc về Cambodia.

Nhận xét về phán quyết Preah Vihear

· Thái Lan và Pháp (đại diện Cambodia) đã ký hiệp ước biên giới ghi rõ là đường biên giới đi theo đường phân thủy, và theo điều khoản đó thì Preah Vihear phải thuộc về Thái Lan.
· Thái Lan không hề ký một hiệp ước hay có một tuyên bố đơn phương nào từ bỏ chủ quyền Preah Vihear.
· Tuy nhiên, dùng nguyên tắc acquiescence (đồng ý ngầm), Tòa đã cho rằng Thái Lan không có chủ quyền vì đã nhiều lần không phản ứng trước những hành động hay tài liệu có thể hiểu là khẳng định chủ quyền của Pháp hay Cambodia.
· Tòa cho rằng hành động chiếm đóng hay quản lý của Thái Lan không đủ để triệt tiêu thái độ im lặng, ngầm đồng ý của nước này khi cần phải có phản ứng.

KẾT LUẬN
  1. Về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Tòa Án Quốc Tế dựa vào nội dung và ý định trong các văn kiện, cũng như vào các hành động và sự kiện, hơn là vào hình thức văn kiện.
  2. “Ý định” phải hiểu là ý định diễn tả trong văn kiện, chứ không phải ý định ngầm của kẻ muốn giấu giếm hay ngần ngại thổ lộ ý định thật như có người đã giải thích.
  3. Những nguyên tắc “chỉ đọc trong bốn góc của văn bản”, “phải hiểu cách nào ít hại nhất cho người viết” không thể đánh bại một cách hiểu hợp lý (xem cách Tòa diễn giải lá thư của Johor trong vụ Pedra Branca).
  4. Chỉ một lời nói (có biên bản) của một đại diện có thẩm quyền (như ngoại trưởng) cũng có thể ràng buộc một quốc gia về vấn đề chủ quyền (xem vụ Đông Greenland).
  5. Thư Phạm Văn Đồng không phản đối khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa - Trường Sa, nên có thể bị coi là acquiescence.
  6. Hơn thế nữa, thư Phạm Văn Đồng có thể coi là đã tán thành rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc.
  7. Thư Phạm Văn Đồng không thể coi là một hiệp ước hay văn kiện chính thức nhường chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa cho Trung Quốc. Do đó, dùng những công ước về hiệp ước quốc tế để tìm hiểu tác dụng thư này chưa chắc sẽ đưa đến những kết luận chính xác.
  8. Thư Phạm Văn Đồng có lẽ không đủ để gây ra estoppel khiến Việt Nam không có quyền tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa.
  9. Tuy nhiên, nếu thư Phạm Văn Đồng là một yếu tố khiến Trung Quốc giúp Việt Nam dân chủ cộng hòa trong chiến tranh Việt Mỹ, gây tổn thương cho binh lính hay nhân viên Trung Quốc trong cuộc chiến đó, thì có thể estoppel sẽ được áp dụng [9]. (Điều tai hại là chính người Việt cũng có khi đưa ra lý lẽ này để giải thích thư Phạm Văn Đồng!)
  10. Tuy nhiên, tập trung vào khía cạnh estoppel của thư Phạm Văn Đồng là một việc sai lầm. Nguy hiểm chính của nó không ở chỗ đó.
  11. Ngay cả khi Tòa cho rằng thư Phạm Văn Đồng không có ý định nói gì về chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa, kết luận 12 ở trên vẫn chính xác (vì lý do đã nói ở kết luận 5).
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU
[1] Ngay sau khi lá thư của Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng được gửi đi, báo Nhân dân gọi nó là “công hàm”. Từ này sau đó được dùng rộng rãi. Gần đây truyền thông trong nước thường gọi nó là công thư. Các nhà nghiên cứu và truyền thông ngoại quốc thường chỉ gọi là “Phạm Văn Đồng letter”, cũng đôi khi gọi là diplomatic note. Trong cộng đồng Việt Nam, cách gọi lá thư gần đây đã gây nhiều tranh cãi, nhiều người cho rằng không gọi nó là công hàm tức là cố ý giảm thiểu tầm quan trọng hay chính thức của nó. Bài này sẽ theo tập tục ngoại quốc và gọi là “thư Phạm Văn Đồng”. Như bài này sẽ cho thấy, dù gọi nó là gì thì giá trị pháp lý của nó cũng không thay đổi.
[2] www.state.gov/documents/organization/58832.pdf
[3] Nguyen Le Ha, Giá trị pháp lý công hàm Phạm Văn Đồng theo luật pháp quốc tế và cơ hội ngàn vàng để Việt Nam xác quyết chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
http://boxitvn.blogspot.fr/2014/07/gia-tri-phap-ly-cong-ham-pham-van-ong.html
[4] Cao Huy Thuần, Công hàm Phạm Văn Đồng - Góp ý về việc giải thích. http://www.diendan.org/viet-nam/gop-y-ve-viec-giai-thich-cong-ham-pham-van-dong.
[5] V. Lowe, International Law, OUP, 2007 pp. 116-117
[6] International Court Of Justice (2008) Case Concerning Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment of 23 May 2008. http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf
[7] Y. Tanaka (2008) Passing of Sovereignty: the Malaysia/Singapore Territorial Dispute before the ICJ. http://www.haguejusticeportal.net/index.php?id=9665
[8] Việc Tòa không chấp nhận ba thỉnh cầu của Singapore coi đáp thư là văn kiện chính thức từ bỏ chủ quyền, là ràng buộc hay gây estoppel có thể hơi khó hiểu nên cần biết chính xác là câu hỏi trong lá thư của Anh nói gì. Nguyên văn câu hỏi như sau: “It is [now] desired to clarify the status of Pedra Branca. I would therefore be most grateful to know whether there is any document showing a lease or grant of the rock or whether it has been ceded by the Government of the State of Johore or in any other way disposed of.” Câu hỏi đó không nói rằng Anh có hay đòi chủ quyền Pedra Branca, mà chỉ hỏi là Johor có còn giữ chủ quyền hay không, và do đó Tòa đã đi tới những kết luận như trên.
[9] Trong luật quốc tế, estoppel là sự ngăn cấm một nước (A) không được có những hành động mâu thuẫn gây hại cho nước (B) khác, cụ thể là không thể làm ngược những gì mình đã nói. Estoppel đòi hỏi ba yếu tố: thứ nhất, lời tuyên bố của A phải rõ ràng, không thể hiểu lầm; thứ hai, lời tuyên bố phải tự nguyện, vô điều kiện, và bởi người có thẩm quyền; và cuối cùng, B phải làm gì thiệt cho mình hoặc lợi cho A vì đã thực lòng tin vào lời tuyên bố của A. (First, the statement creating the estoppel must be clear and unambiguous; second, the statement must be voluntary, unconditional, and authorized; and finally, there must be good faith reliance upon the representation of one party by the other party either to the detriment of the relying party or to the advantage of the party making the representation.) (M.L. Wagner (1986) Jurisdiction by Estoppel in the International Court of Justice. California Law Review Volume 74, 1777-1804.)
[10] Permanent Court of International Justice (1933) Legal Status of Eastern Greenland - Denmark v. Norway, Judgment. http://www.worldcourts.com/pcij/eng/decisions/1933.04.05_greenland.htm
[11] International Court Of Justice (1962) Case concerning the temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand), http://www.icj-cij.org/docket/files/45/4871.pdf.
[12] Article ler: La frontière entre le Siam et le Cambodge part, sur la rive gauche du Grand Lac, de l'embouchure de la rivière Stung Roluos, elle suit le parallèle de ce point dans la direction de l'est jusqu'à la rencontre de la riière Prék Kompong Tiam, puis, remontant vers le nord, elle se confond avec le méridien de ce point de rencontre jusqu'à la chaîne de montagnes Pnom Dang Rek. De là elle suit la ligne de partage des eaux entre les bassins du Nam Sen et du Mékong, d'une part, et du Nam Moun, d'autre part, et rejoint la chaîne Pnom Paclang dont elle suit la crête vers l'est jusqu'au Mékong. En amont de ce point, le Mékong reste la frontière du royaume de Siam, conformément à l'article ler du traité du 3 octobre 1893. (theo [10], trang 14)