Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013

Ngài Cao Tự Thanh


Dũng (tên thật của Cao Tự Thanh) có lần khai báo với bạn bè “chữ Tự Thanh tôi lấy từ 2 câu thơ viết về một dòng suối: Điềm đạm vô nhân kiến, Niên niên trường tự thanh (lặng lẽ không người thấy, năm này qua năm khác cứ mãi tự trong trẻo)”. Quả thật suốt bao năm y đã sống trung thành với nguyên tắc đặt tên ấy, Tự Thanh, trong trẻo cùng tháng năm. 

Nguyễn Thông

Hôm trước mình đã post bài này lên rồi, nhưng loay hoay chỉnh sửa vớ vỉn thế nào bị biến mất tiêu. Thôi đành dán lên lại, chân dung ông bạn gớm ghiếc nhưng đáng yêu, hì hì.

Một ngày 24 tiếng, hắn cởi trần khoảng 17 tiếng rưỡi, vậy mà hôm nay lại mặc áo cho mình chớp hình, kể cũng lạ.

Trong số 13 sinh viên theo học hệ cử nhân Hán Nôm chính quy đầu tiên được mở năm 1972, hầu hết đã cân đai mũ mão tiến sĩ, ông nọ bà kia, riêng chỉ có y vẫn hàn nho. Nhưng lạ là các ông bà nghè Hán Nôm ấy luôn nhắc đến y với sự kính nể ra mặt.

KẺ MÊ SÁCH
Nhớ cái đận cùng mấy bạn đồng môn ngoài Hà thành vào, rủ nhau tìm thăm Cao Tự Thanh. Nói là “tìm” bởi lão này chuyển chỗ ở xoành xoạch, mới hồi nào quận Nhất, chuyển, chưa ấm chỗ Bình Thạnh đã nghe về Gò Vấp. Hỏi dò loanh quanh mãi, bà bán thuốc lá đầu hẻm một khu phố văn hóa dốc cầu Đỏ đi xuống chắc như đinh đóng cột “đúng ông giáo sư ôm ốm tóc dài. Ông ấy hay mua thuốc Con mèo, cứ vào hẻm đằng kia mà hỏi”. Lại đi, lại hỏi, bác thợ mộc rậm râu thủng thẳng “cái nhà có chó sủa ấy”. Chưa kịp gõ vào cánh cửa sắt thì con chó đen to trùi trũi (ông bạn tôi gọi là thằng gấu) sủa váng nhào tới. Nghe Cao tiên sinh gằn giọng, gấu len lét cúp đuôi lùi. Phượng, cô trợ thủ đắc lực của hàn nho, khá thông thạo chữ Hán và giỏi vi tính đon đả mời khách. Ôi giời, ngày nóng cũng như lạnh, ông bạn tôi chỉ cởi trần. Lão bảo chúng mày ngồi chơi, để tao ký xác nhận mấy cái biên bản nghiệm thu công trình khoa học cho thằng Trung (anh cán bộ Viện KHXH vùng Nam bộ) đem về viện cái đã. Kể cũng lạ, chẳng giáo sư tiến sĩ học hàm học vị gì, vậy mà tham gia vào mấy cái hội đồng khoa học cấp thành phố, hình như cả cấp trung ương, còn tiếng tăm trong giới nghiên cứu Hán Nôm thì khỏi bàn. Nghe đâu sinh thời giáo sư Nguyễn Đình Thảng - một chuyên gia Hán Nôm cự phách, thầy dạy của nhiều thế hệ tiến sĩ Hán Nôm - cách đây mấy năm có tìm được tấm phướn cổ ghi hơn chục chữ Hán to cỡ nửa gang tay viết lối chữ triện, lạ lắm, có mấy chữ không mấy ai đọc được, nói gì hiểu. Thầy Thảng bảo “thôi, gửi thằng Thanh”, tin cậy đến thế là cùng. Tranh thủ lúc quởn tôi tha thẩn lục lọi, chỉ thấy tinh những sách. Mà cha này hình như cũng chẳng có tài sản gì đáng giá (không kể đám máy vi tính) ngoài cái đầu chứa chữ và sách, chả thế nhà báo Xuân Ba và ông giáo (nói theo cách của Nam Cao) Trần Quang Tửu vài lần ghé thăm đàm đạo, lúc về các lão cứ trợn mắt gật gù “gớm cái thằng hàn nho”, chả hiểu gớm cái gì. Thôi thì đủ cả sách cũ sách mới, chữ nho lẫn chữ quốc ngữ. Phần sách do chính Cao tiên sinh viết hoặc dịch để một dãy riêng, tôi đồ rằng nếu mỗi đầu sách chọn một quyển xếp thẳng đứng có nhẽ gần cao bằng đầu tác giả chứ chẳng chơi.Nói đến sách, lại lẩn thẩn nhớ chuyến cùng hàn nho tháp tùng đưa cuốn đại thư độc nhất vô nhị Việt Nam bách gia thi ra Hà Nội. Chả là nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập khoa Ngữ văn Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội (cái tên gọi giờ chỉ còn chút dư âm, gợi nhiều tiếc nuối) hồi tháng 10.2006, Cao tiên sinh xin bà Đỗ Thị Phấn - Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Văn hóa Sài Gòn - cho rước sách quý “một lần tới thủ đô”. Bà Phấn phân vân, đành rằng ông Thanh là người tuyển chọn thơ của trăm nhà, có công lớn nhất nhưng con yêu con quý của bà là độc ấn bản, lỡ có bề gì, nhưng rồi cũng đành tặc lưỡi “anh ráng giữ cẩn thận” mà mặt không giấu nổi vẻ buồn buồn lo lo. Đại thư (chúng tôi kính cẩn gọi là ông sách) dài rộng cỡ 1,5 x 0,8m, nặng hơn tạ, lại kèm cả giá đỡ sắt vài chục ký, Thanh và mấy đệ tử phải thuê ô tô (không dám xích lô, nhỡ mưa thì khốn) chở ra ga Hòa Hưng đóng thùng gửi tàu hỏa, chỉ riêng cước phí đã mất hơn triệu bạc. Hôm sách quý ra mắt tại Viện Hán Nôm cũng như tại hội khoa, quả là sự kiện hoành tráng. Tôi thấy cô Phượng xỏ găng tay trắng cung kính đứng bên “ông sách”, người nào muốn xem phải do chính cô cẩn thận lật giở, cấm cho ai mó tay vào. Nghe các thầy, rồi cả mấy ông viện trưởng viện phó Viện Hán Nôm tấm tắc, gã hàn nho tuổi Ất Mùi (1955) sướng ra mặt.

Dũng (tên thật của Cao Tự Thanh) có lần khai báo với bạn bè “ chữ Tự Thanh tôi lấy từ 2 câu thơ viết về một dòng suối: Điềm đạm vô nhân kiến, Niên niên trường tự thanh (lặng lẽ không người thấy, năm này qua năm khác cứ mãi tự trong trẻo)”. Quả thật suốt bao năm y đã sống trung thành với nguyên tắc đặt tên ấy, Tự Thanh, trong trẻo cùng tháng năm. Và sự nghiệp đã rất Cao. Nói thêm, nếu chưa tường tận về hàn nho, chắc không mấy ai biết y là con trai của một nhân vật nổi tiếng Nam Bộ thời chống Mỹ và nhất là thời “trước đổi mới”: ông Nguyễn Văn Chính, tức Chín Cần. Dân gian có câu: “Bắc khoán hộ Kim Ngọc/ Nam một giá Chín Cần”. Nhân vật này chúng tôi sẽ xin hầu chuyện vào dịp khác.

Hàn nho Cao Tự Thanh và tiến sĩ Nguyễn Công Việt - Phó viện trưởng Viện Hán Nôm bên độc ấn bản Việt Nam bách gia thi

BẤT NGỜ “GẶP CỤ PHẠM QUỲNH”
Cũng là kẻ mê sách nhưng lâu nay ít đọc, phần bận cuộc mưu sinh, phần nhiễm phải cái thói cứ động một tí là lụy vi tính, internet nên đã lâu tôi chẳng mấy khi cầm cuốn sách nào được đến mươi phút. Đang tâm thái ấy, trong lúc ký giả Xuân Ba và Cao tiên sinh đang say sưa đàm đạo, bất chợt nhìn lên giá sách tôi rút một cuốn cũ kỹ khổ bằng bàn tay, giấy ố vàng, bốn góc bìa nát nham nhở. Lật vài trang thấy toàn chữ Hán viết đủ kiểu chân, triện, lệ, hành, thảo kèm theo những bức tranh vẽ theo phong cách thủy mặc cực đẹp. Chủ nhà đang say với bạn tri kỷ thấy tôi cầm cuốn sách quý của mình dáng điệu bất cẩn liền hắng giọng “mày có biết đang cầm cái gì trên tay không?”. Biết hỏi kẻ sở học nông cạn như tôi kể bằng thừa, hàn nho giảng giải: xét tuổi, hai cuốn này (thì ra còn một cuốn nữa tôi không để ý) dễ đã hơn trăm năm, còn chủ nhân đích thực của nó, là ai biết không, Phạm Quỳnh đ.â.ấ.y (y dài giọng)! Tôi lật giở, ừ nhỉ, trên mỗi trang bìa sau bằng loại giấy na ná giấy xi măng vẫn nguyên chữ ký chân phương giản dị của cụ Thượng Chi, màu mực tím, đậm và rõ. Nét chữ mềm mại, kiểu chữ đặc trưng thế hệ Tây học những năm trước cách mạng không lẫn vào đâu được. Nhẩm tính chỉ từ hồi cụ chủ bút báo Nam Phong ký xác nhận quyền sở hữu của mình vào cuốn sách đến nay chí ít phải bảy tám chục năm, vậy sao thứ mực tím tôi chắc là mực Parker kia phóng qua ngòi bút sắt cứ như vừa mới thấm khô, dễ làm ta tưởng tượng người ký dòng chữ ấy vừa nhấc ngọn bút khỏi trang giấy bản rồi khoan thai bước đâu đó nhẩm mấy câu thơ mà khen cái sự tuyệt hảo của người xưa. Lại nhớ lứa chúng tôi sinh ra sau hòa bình lập lại hồi học cấp 3 được các thầy giảng về cuộc tranh luận quanh truyện Kiều, cũng chỉ được học duy nhất bài Luận về chánh học cùng tà thuyết của cụ Ngô Đức Kế tranh luận với cụ Phạm Quỳnh chứ có thấy trước tác của cụ Phạm đầu đuôi nó thế nào, nghe thì tạm hiểu rằng “chánh học” đương nhiên thuộc về cụ nghè Ngô - nhà nho yêu nước, còn “tà thuyết” ắt phải là Phạm Quỳnh - người làm quan đến chức Thượng thư bộ Học, rồi sau đó bộ Lại của triều đình tay sai phản động. Sau này khi cuộc sống đã cởi mở, tìm hiểu những khúc nhôi chưa tỏ về con người này ta biết ông có kết thúc số phận cá nhân thật bi đát và lịch sử kể từ sau cách mạng chưa công bằng với ông. Mấy lần lão nhà văn Thái Vũ ghé tòa soạn Thanh Niên chơi, tôi lân la hỏi được ông lão kể lại, dù làm quan chức trọng quyền cao tột bậc nhưng sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945) cụ Phạm về ở ẩn tại biệt thự Hoa Đường bên sông đào Phủ Cam (Huế) và trong cơn sục sôi cách mạng đánh Pháp đuổi Nhật hạ bệ Nam triều, ngày 23.8.1945 cựu Lại bộ thượng thư Phạm Quỳnh bị một nhóm thanh niên Việt Minh đến nhà “mời” đi, cùng lúc là cả cha con ông Ngô Đình Khôi (Tổng đốc Quảng Nam, anh ruột ông Ngô Đình Diệm), kể từ đó họ mãi mãi không trở về.Lại nói về bộ sách quý. Biết tôi mù chữ Hán, ông bạn họ Cao giảng giải bộ này gồm 6 cuốn (Cao tiên sinh mới có 4 cuốn, còn vì sao thiếu 2 cuốn tôi sẽ nói sau) tên gọi Thi họa phảng (Thuyền thi họa), thứ tự các cuốn từ 1 đến 6 theo chủ đề là: Sơn thủy, Nhân vật, Hoa điểu, Thảo tùng, Mai lan trúc cúc, Phiến phổ. Khổ sách nhỏ, 17 x 10cm, giống loại sách thiếu nhi khá phổ biến của NXB Kim Đồng, giấy bản mịn, do một NXB nào đó của Trung Quốc ấn hành không thấy đề tên nhưng ghi rõ năm xuất bản Quang Tự Mậu Tý, nếu cứ chiếu theo đời vua Quang Tự nhà Thanh thì vào năm 1888. Tính đến Mậu Tý 2008 vậy bộ sách này đã thọ ngoại bách tuế, chính xác là 120 tuổi. Tôi săm soi lật kỹ thấy phía dưới chữ ký mềm mại của cụ Thượng Chi còn có con dấu tròn son đỏ, ghi rõ: phía trên Quốc gia Việt Nam, phía dưới Trung Phần trong vòng tròn bao bọc, chính giữa là hai chữ đậm hơn: Văn Hóa. Tôi thắc mắc, Cao tiên sinh giải thích chỉ có dưới trào Ngô Đình Diệm mới dùng danh từ Trung Phần để chỉ miền trung Việt Nam. Đây có lẽ là con dấu của một cơ quan lưu trữ hoặc thư viện nào đó hồi Ngô Đình Cẩn thay mặt chính quyền họ Ngô cai trị xứ Huế. Phải chăng sau cơn gia biến tang thương ngày 23.8 ở biệt thự Hoa Đường, gia đình cụ Phạm thượng thư phút chốc nát tan mỗi người mỗi ngả, đến thân mạng còn không giữ được nói chi sách vở.Nhà văn Thái Vũ kể sau này có hỏi ông Phan Hàm (khi ấy là thanh niên tiền tuyến của Việt Minh, về sau lên đến cấp tướng QĐND VN) người trực tiếp chỉ huy việc bắt Phạm Quỳnh, ông Hàm cho biết đã khám xét khá kỹ căn biệt thự, kể cả những tủ sách. Vậy thì những cuốn sách mà chủ nhân từng vẩy bút đặt lên chữ ký mực tím Parker tươi rói bắt đầu chặng đường lưu lạc từ đây chăng? Khi Ngô Đình Cẩn làm lãnh chúa Trung phần, ông ta từng cho sưu tầm thu gom nhiều di sản văn hóa cổ, trong đó có các tác phẩm Hán Nôm quý hiếm để nhà nước quản lý, lưu trữ, vì thế mới có con dấu tròn Văn Hóa ấy.
Trang bìa cuốn 2 Thi họa phảng có chữ ký của cụ Phạm Quỳnh


Nhưng tại sao sách quý lại lưu lạc đến nhà bạn tôi? Hàn nho Cao Tự Thanh thuật lại rằng giữa năm 1975 y đang học năm thứ ba ngành Hán Nôm khoa Văn trường ĐH Tổng hợp Hà Nội thì miền Nam giải phóng, nôn nóng quá bèn bỏ dở chừng vào ngay Sài Gòn. Một trưa cuối năm trong túi chỉ có 300 đồng tiền chế độ cũ đủ để ăn sáng vài bữa, đang lang thang thì gặp bà cụ quẩy gánh ve chai đi về chợ sách cũ Đặng Thị Nhu (Q.1) gần chợ Bến Thành. Thấy trong đống lộn xộn sách cũ sách mới hai quyển bìa đã cũ nát, lật giở biết là quý thư bèn quyết mua bằng được. Bà cụ đòi 300 đồng, chàng sinh viên nghèo năn nỉ, rốt cục dứt giá hai trăm. Đem về đọc kỹ mới tá hỏa tam tinh vì bộ sách những 6 cuốn, đóng thành 3 tập, nhớn nha nhớn nhác thế nào chỉ thấy hai, mất toi một tập gồm 2 cuốn Sơn thủy và Nhân vật. Tiếc đứt ruột nhưng bà cụ ve chai ấy biết tìm nơi đâu. Ra chợ Đặng Thị Nhu bao lần dò la nhưng cả người lẫn sách vẫn bặt âm vô tín. Thôi thì cái duyên nhiều khi nó cứ dở dang vậy, ngay cả mối duyên với sách. Bù lại, phát hiện ra chủ nhân của 2 tập sách gần trăm tuổi kia (tính đến thời điểm đó) chính là Thượng Chi Phạm Quỳnh. Tôi thắc mắc sao biết đó chữ ký của cụ Phạm, ông chủ sách đương thời trợn mắt “tao từng nghiên cứu bao nhiêu sách Hán Nôm cái xứ này, có cả sách của Phạm Quỳnh, chữ ký ấy lẫn đi đâu được”. Nói đến đây, Cao tiên sinh với tay lên đầu ghế lấy chiếc áo sơ-mi mặc vào nghiêm chỉnh, tôi thấy lạ thắc mắc sao không cởi trần cho mát, y trừng mắt “đọc sách phải đàng hoàng”, sau đó giở cuốn Thảo tùng ra, chỉ vào trang trái vẽ hai cây trúc quân tử cứng cáp phong sương, trang phải kèm hai câu viết theo lối chữ triện, đọc sang sảng “kiên phối tùng bách/ kính lăng sương tuyết” (bền ngang tùng bách/ cứng khinh tuyết sương) rồi cười khà khà: thấy chưa, người đọc những cuốn sách ấy chẳng phải tầm thường đâu.Đời sách, tôi nghĩ, cũng như con người có khi phải trải qua bao dâu bể, số phận thăng trầm. Lại lẩn thẩn rằng nếu ông nhạc sĩ Phạm Tuyên, thứ nam của cụ Thượng Chi biết được ở đâu đó trên cõi đời này có người đang nâng niu trân trọng những cuốn sách một thời ghi dấu thân phụ mình, chắc ông cảm động lắm.

Hai trang trong cuốn Mai lan trúc cúc
Sài Gòn 2008
NGUYỄN THÔNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét